Thomas đang ngồi trong thư viện đọc một cuốn sách về Thế chiến thứ II thì họ tới tìm nó.
“Anderson, Thomas”, McCunt gọi tướng lên từ chỗ cửa.
Thomas lập tức đứng dậy theo phản xạ và quay sang chỗ người ta gọi. McCunt là một người tử tế, bọn chúng gọi đùa ông ta như vậy để che giấu thực tế chúng thích ông ta, vì ông ta không bao giờ cố tỏ ra mình không phải là một cai tù và luôn cảnh cáo trước khi đi kể tội ai, cho họ một cơ hội để tránh né.
“Ra ngoài”, McCunt nói, bước lùi lại lấy chỗ cho nó qua.
Một bàn tay trượt trên bàn đến chỗ Thomas, hỏi mượn nó cuốn sách nó đang đọc.
Thomas đẩy nó ngang qua mặt bàn. Thằng bé kia đã cạo trọc đầu để khoe mẽ những vết sẹo chiến chinh của nó. Cả hai đang đọc chung một cuốn sách, thường không đến thư viện cùng giờ và hôm nay Thomas đã đến trước. Chúng có nói chuyện về quyển sách nhưng Thomas nghi là mục đích đọc của chúng khác nhau, cứ như mỗi người đang nhận một phe.
“Đi nào”, McCunt nói, lần này to hơn.
Thomas đi tới chỗ ông ta, chui vào một hành lang tối om và quay lại để nghe thêm chỉ dẫn. McCunt đóng cửa, lắng nghe tiếng khóa kêu rồi quay sang nó, gật đầu thân thiện nhưng trông cứ như đang tông đầu vào nó.
Thomas lưỡng lự giữa trái và phải:
“Cháu đang đi đâu đây ạ?”.
McCunt gật đầu sang trái:
“Thăm nuôi, con trai”.
Giờ không phải giờ thăm tù nhưng Thomas không muốn tỏ ra bất tuân nên nó bước vài bước xuống hành lang trước khi nói:
“Nhưng không phải giờ thăm tù mà”.
McCunt gầm ghè và đi tới sau nó, xua nó xuống hành lang:
“Ừ, nhưng người ta vẫn muốn cậu đến chỗ thăm tù”.
Bụng dạ Thomas thắt lại và nó đứng bất động. McCunt suýt đâm sầm vào nó:
“Không phải mẹ cháu đấy chứ?”.
“Không”, McCunt đảm bảo, “không, chuyến thăm của luật sư, con trai, chỉ là luật sư thôi mà”.
“Ồ.”
Thomas đi tiếp, xuống hành lang, mặt cúi gằm. Lớp vải nhựa trải sàn đã được đội lau dọn đánh cho bóng loáng nhưng mùi thuốc sát trùng nồng nặc dùng để lau sàn vẫn còn bám vào rìa vải. Mùi gì trong phòng tạm giam cũng sặc sụa, dù đó là mùi phân, nước tiểu hay dịch, mùi hành, thịt hay dứa, tất cả đều đậm đặc, tràn ngập và bao phủ. Hồi mới đến nó rất ghét mùi này, cảm thấy mình đang bị nhấn chìm trong đó, nhưng giờ thì nó lại thích.
Thomas không có hẹn với luật sư. Vị luật sư tòa chỉ định cho nó vừa lười vừa chậm. Chắc có chuyện gì rồi. Nó băn khoăn có phải Squeak đã tự sát không.
Họ đi hết chiều dài hành lang tới tận cánh cửa phía xa, đi qua một ống xả của nhà bếp, một đám mây bốc mùi trứng phả ra. Mùi ẩm ướt ấm áp của mùa xuân cũng ở đó, cái mùi kỳ diệu của lớp cỏ mới mọc. Bên kia bức tường chắn gió phía tay trái họ, bọn con trai trong nhóm tù nhốt riêng đang chạy thành vòng. Trong tiếng dậm chân như sấm của bọn nó, Thomas tưởng tượng ra cảnh Squeak tự sát, hay nằm đó đầm đìa máu và cảm thấy buồn cho cậu ta, mừng cho tất cả mọi người khác nhưng buồn cho Squeak, cái thằng Squeak ngu ngốc, tuyệt vọng mang tính cách của loài chó ấy. Tớ sẽ không kể cho họ việc cậu đã làm, cứ như chính bọn chúng không biết ai đã làm gì với Sarah Erroll, cứ như mặc cảm tội lỗi chỉ là một trò chơi gán ghép và Squeak có thể vượt qua được bằng cách nói to điều đó. Những ý nghĩ của Thomas bị ngắt quãng khi người quản giáo bên kia hét vọng qua bức tường.
Họ đi tới một cánh cửa khóa ở cuối hành lang và McCunt nói không cần thiết:
“Dừng lại!”.
Thomas mỉm cười và quay lại, trông thấy nụ cười nhếch mép trên miệng McCunt khi ông ta vươn tay về phía ổ khóa và nhìn lên máy quay an ninh.
Cửa kêu bíp và McCunt kéo nó ra, bước lùi lại để cho Thomas qua. Hành lang này tử tế hơn. Ít mùi hơn, ít vết ố hơn vì ở đây người ta có lịch lau chùi, không được phép nấn ná lâu vì kém an toàn hơn.
Những bức tường ở đây màu xám nhạt hơn, cửa sổ nhìn ra một khoảng sân có trồng cỏ, lớp sơn cũng không xù xì bằng ở hành lang trước.
Họ đi bộ tới cửa phòng thăm nom. Ở tít đầu bên kia là phòng thăm phạm chung, nó được khóa rất kỹ vì dẫn thẳng ra khỏi nhà tù.
Trước đó là năm cánh cửa màu xám y hệt nhau với một cửa sổ to hơn bình thường cao đến eo người, vài phần trên đó được che bằng kính mờ.
McCunt lôi chìa khóa ra khỏi túi quần bằng cách sờ nắn sợi xích gắn vào thắt lưng mình và mở cửa phòng ghi số “3”, giữ nó cho Thomas.
Thomas dừng ngoài ngưỡng cửa. Không phải là vị luật sư với khuôn mặt nhàu nhĩ xám xịt của nó. Với thân hình đồ sộ, khỏe mạnh và toát ra vẻ giàu có tới mức gần như nuốt chửng căn phòng, bố của Squeak ngồi bên bàn.
Ông ta đứng dậy.
“Thomas. “
Không có vệt nước mắt nào, không có tia đỏ nào, cũng không có cái nhìn trống rỗng đau buồn nào nơi ông ta. Squeak chưa chết.
“Chào cháu”, ông ta nói, giọng trầm đục vì hút xì gà và nồng như sốt brandy, và phát âm líu lo kiểu phổ thông1 một cách ân cần nhưng xa lạ. Tất cả mọi người ở đây đều nói giọng khu Đông và vùng Manchester rời rạc, vài người kéo giọng kiểu vùng biển Tây Phi, vài người nói giọng Anh Tây Ấn, không ai nói giọng như phát thanh viên Estuary cả.
1 Kiểu phát âm RP (Received Pronunciation) trong tiếng Anh để giao thiệp với quần chúng nói chung, không xác định được yếu tố vùng miền.
McCunt gật đầu bảo Thomas đi vào phòng. Nó bước hai bước và cánh cửa liền đóng lại sau lưng nó, nhưng cái bóng của McCunt thì vẫn ở ngoài cửa kính.
“Chú không phải luật sư của cháu.”
“Ngồi đi.”
Thomas đi vòng qua chiếc bàn, chọn chiếc ghế mà ông Hamilton-Gordon đã chỉ cho và nhớ ra là độ này nó có tính vâng lời.
Nó đi đến chỗ người ta bảo, ngồi tới chừng nào người ta bảo thôi mới thôi. Giờ nó hoàn toàn phụ thuộc vào người khác và cẩn phải thận trọng về chuyện đó.
Ông Hamilton-Gordon là luật sư, Thomas nhớ ra.
“Ồ, chú đúng là một luật sư thật”, nó nói.
Ông Hamilton-Gordon cũng ngồi xuống.
“Cháu thế nào, Thomas. Hy vọng là khỏe chứ?”
Nghe chất giọng mượt mà và mềm mại của ông ta rất thích. Thomas đã biết mặt bố của Squeak từ bao nhiêu năm nay, chủ yếu là qua ảnh. Trông ông lúc nào cũng cau có và không hề thay đổi cách ăn mặc của mình theo thời tiết. Ông luôn mặc những chiếc áo khoác vải tuýt dù là đi ăn tối ở St Lucia, trên du thuyền ở Monaco hay tiệc tối ở Hong Kong. Ông ta rất béo nhưng lại ăn mặc trang trọng và điều đó làm lợi cho ông rất nhiều. Hôm nay, ông mặc một chiếc áo vét vải tuýt màu xanh lá cùng với quần dài màu hồng. Không mang cà vạt. Bộ đồ cuối tuần ở nhà đây. Mái tóc của ông là một màu bạc trắng điểm xuyết đốm đen, tuy nhiên nó còn rất dày và khỏe mạnh, hơi dài so với một vị luật sư và khá gợi cảm. Dường như ông ta quá màu mè so với căn phòng xám xịt này.
Ông ta trầm ngâm nhìn vào Thomas. Cặp lông mày của ông nhướng tít lên trên nhưng nó đã bị thợ cắt tóc sửa sang: Thẳng đuột và cứng quèo.
“Chú không phải luật sư của cháu”, Thomas nhắc lại.
“Ừ, không phải.” Ông ta khoanh tay.
“Sao chú lại ở đây?”
“Để nói chuyện với cháu.” Ông ta hất ngón tay qua lại giữa mình và Thomas, “chuyện này rất tồi tệ. Cần phải nương tựa vào nhau. Bàn bạc thống nhất với nhau”. Ông ta vắt một chân lên chân kia, bàn chân vươn ra đẩy Thomas vào tường khiến Thomas phải dứt ý nghĩ khỏi nhà tù. Bàn chân ông ta từ từ đung đưa như quả lắc trên một chiếc đồng hồ khả kính.
“Đồng ý không? Thomas?”
Nó máy móc nói “vâng, thưa sỹ quan” rất nhanh và dứt khoát, nhưng ông Hamilton-Gordon không phải là cảnh sát, Thomas không cần phải thưa gửi ông ta, đó là một sai lầm ngu ngốc. Nó nói “xin lỗi” và người đàn ông bảnh chọe to béo gật đầu, cau mày với cái bàn như thể ông ta hiểu chuyện.
“Quân đội”, ông ta nói không liên quan mấy nhưng Thomas vẫn hiểu được. Bố của Squeak đã đặt câu chuyện trong một khung tham chiếu nó có thể hiểu.
“Thomas, trước hết để chú nói cho cháu biết chú rất tiếc về chuyện bố cháu.” Ông ta đặt một tay lên mặt bàn, cái chân đối diện với Thomas thì để ở phía bên kia tạo thành một cái vòng ôm trang trọng. “Anh ấy là một người tuyệt vời.”
“Hai người biết nhau à?”
“Có biết”, ông ta buồn bã nói. “Biết chứ, biết chứ.”
“Từ hồi nào?”
“Ở trường.”
“Ồ phải rồi.”
“Chú học ở St Augustus dưới bố cháu hai lớp. Anh ấy luôn là người phi thường. Nhưng vẫn có khuyết điểm.” Ông ta ngước lên dưới cặp lông mày để kiểm tra xem Thomas có chấp nhận điều đó không và thấy là có. “Đúng thế, anh ấy có khuyết điểm.” Ông ta gõ ngón trỏ xuống mặt bàn. “Mẹ anh ấy bị bệnh rất nặng hồi chú quen biết anh ấy.”
“Thế à?” Cả Lars lẫn Moira đều không có nhiều thời gian để kể chuyện xưa của gia đình. Nó chẳng biết gì về mẹ của Lars ngoài chuyện bà đã chết.
“Bà ấy đã tự sát.” Ông ta lại nhìn Thomas qua đôi lông mày đã tỉa bớt, vẻ căng thẳng.
“Cháu không biết chuyện đó.”
“Hồi ấy bố cháu còn trẻ hơn cháu bây giờ. Anh ấy đang ở trường. Việc đó đã rất khó khăn với anh ấy.” Ông ta thấy ngón tay mình đang gõ thành nhịp và dừng phắt lại. “Đừng quá tiếc thương cho bố cháu, đó là điều chú đang nói. Anh ấy có khuyết điểm nhưng đồng thời cũng phải trải qua rất nhiều chuyện. Và anh ấy đã sống. Một cách vĩ đại.”
Thomas gật đầu đồng tình nhưng lại nghĩ dù Lars có phải trải qua chuyện gì đi nữa thì ông vẫn là một tên khốn chỉ biết quát tháo.
“Cháu phải hiểu những điều anh ấy đã phải vượt qua.”
“Vâng, Thomas. Được ạ.”
“Cháu có giận anh ấy không?” Ông ta nở nụ cười không chút vui sướng.
Thomas cân nhắc câu hỏi:
“Giờ cháu chẳng nghĩ gì về bố cả”.
Hamilton-Gordon lại cười, một cái nhe răng và lợi thì đúng hơn, mắt không hề di chuyển.
“Ừ. Cháu thấy bản thân ổn chứ?”
“Vâng”, nó nói và tự hỏi, “Squeak thì sao, cậu ta có ổn không? Cậu ta đã chết chưa? Tại sao?”.
“À”, một hơi thở thoát ra khỏi thân thể người đàn ông qua một khu rừng lông mũi, ồn ào, “cái chuyện tự tử này, nó cứ di truyền trong một gia đình, có đúng không nào?”.
“Thật à?”
“Ừ, chuyện thực tế. Như quan sát khoa học. Từ thế hệ này sang thế hệ khác. Một khi ý nghĩ ấy đã ở đó thì nó luôn hiện diện như một khả năng...”. Nghe như chính ông Hamilton-Gordon đang gợi ý cho Thomas tự giết mình.
“Cháu sẽ không làm vậy”, Thomas nói và theo dõi phản ứng. Không có gì cả.
“Chú đã nói chuyện với mẹ cháu. Chị ấy rất lo lắng cho cháu.”
“Cháu bị bắt vào tù, bị buộc tội giết người. Nên bà ấy mới thấy lo.”
“Chị ấy cũng lo cả cho em gái cháu nữa. Ella đã bị cho ngưng dùng thuốc dịu thần kinh.”
“Ôi, tạ ơn Chúa.” Thậm chí con bé còn không được nói về chúng. Thomas gọi điện cho nó mỗi tuần một lần và y tá giơ điện thoại lên còn nó thở vào đó và từ hơi thở Thomas cũng thấy là nó đang rất buồn.
“Con bé đã được chuyển đến một bệnh viện tư.”
“Họ chuyển Ella đi chỗ khác à?”
“Nơi đó là bệnh viện tư. Rất đắt tiền. Một đồng nghiệp của chú nằm trong ban quản trị.” Ông ta lại nhìn lên. “Hiện giờ mẹ cháu không còn tiền, chú không biết liệu cháu có hình dung được tình cảnh của chị ấy, liệu chị ấy có nói...”
“Bà ấy không nói chuyện với cháu.”
“Hừm.” Ông ta không hề ngạc nhiên.
“Chú nói chuyện với bà ấy rồi à?”
“Ừ. Ở vào địa vị của chị ấy khi cháu trong này còn Ella... yếu như thế thì chị ấy ổn hết sức có thể.”
Thomas cười nhếch mép với mình. Vấn đề chính Moira quan tâm đến không bao giờ là nó và Ella, giờ thì nó đã hiểu. Vấn đề chính của Moira luôn luôn là Moira. Ấy vậy mà nó vẫn thèm khát sự chú ý của bà. Cho dù bà không trả lời điện thoại hay cúp máy mỗi khi nhận ra nó đang gọi đến. Cho dù nó biết bà không có lý do thực sự nào để bỏ mặc nó như hiện nay. Trong khu biệt giam có những thằng bé phạm tội về tình dục mà gia đình chúng lâu lâu vẫn đến thăm. Thậm chí mẹ nó còn không sống cách xa đến thế. Nó đã từng vẽ ra đường đi trong một phút quá khao khát gặp bà.
“Những dịch vụ chăm sóc cần thiết cho Ella rất tốn kém. Có thể chị ấy sẽ phải ở đó một thời gian.”
“Ai quán xuyến việc đó?”
“Chú.”
“Cảm ơn chú...”
“Chú rất giận cháu, Thomas.” Câu nói đột ngột nhưng giọng ông ta thì vẫn đều đều. “Chú giận cháu vì đã mang Jonathon đi cùng tới ngôi nhà đó. Cháu có thể hiểu được điều đó, đúng không?”
Khi ấy, Thomas mới thấy bố của Squeak không giận nó mà ông ta tức điên lên vì nó. Ông ta giận tới mức đang đổ mồ hôi. Những giọt nước bé tí xíu đang rỉ ra từ những lỗ chân lông to trên trán ông ta. Ngón trỏ của ông ta bắt đầu gõ tiếp lên mặt bàn.
“Đáng lẽ cháu không được kéo người khác vào các vấn đề cá nhân của mình, Thomas ạ. Đó là một thói xấu.” Ông ta ngừng nói, khẽ gầm gừ ở sâu trong cổ họng để ngăn cản những điều ông ta không được phép nói ra. Và hít một hơi thật sâu. “Nhưng giờ chúng ta đã ở đây. Ai sẽ đại diện cho cháu?”
“Khi nào?”
“Ai là luật sư của cháu?”
“Sao chú lại hỏi cháu điều đó?”
Cặp lông mày ông ta nhướng lên từ từ.
“Cháu cần một luật sư giỏi. Ai mà chả cần luật sư giỏi. Cháu có công ty luật thân quen nào không?”
Thomas chắc chắn cho dù có đi nữa gia đình nó cũng không trả nổi.
“Cháu không nghĩ giờ nhà cháu còn luật sư nữa, không.”
“Rất đắt đỏ.”
“Có thể.”
“Mẹ cháu đang bán nhà mà?”
“Cháu nghĩ vậy.”
“Nó sẽ được rao bán trong nhiều tháng. Thị trường hiện nay rất chậm. Nhà càng lớn thì càng ít người mua, càng khó bán hơn.”
“Vâng.”
Ông Hamilton-Gordon vươn người tới rất sát, ngón tay vẫn gõ trên mặt bàn gần cánh tay trần của Thomas.
“Chúng ta hãy nói về các hậu quả”, ông ta nghiêm nghị nói. “Sự khác biệt đối với một người bị cáo buộc như cháu khi có luật sư giỏi, so với khi gặp phải một kẻ chẳng ra gì là mười hai năm. Cháu có nhận thức được điều đó không?”
“Nhiều thế à?”, Thomas giả vờ ngạc nhiên. Ông Hamilton- Gordon trả lời ấm áp: “Đúng, thêm mười hai năm nữa trong tù, không có khả năng xin tại ngoại. Thay vì ra tù ở tuổi hai mươi lăm cháu sẽ được thả năm ba mươi sáu tuổi, nếu cháu không có một luật sư giỏi”. Ông Hamilton-Gordon ngồi lùi lại. Ông ta hắng giọng và đưa ra con bài của mình. “Thomas, chú sẽ tìm cho cháu một luật sư. Và sẽ trả chi phí chăm sóc Ella. Đổi lại, chú muốn cháu làm một việc cho chú. Được chứ?”
Thomas nhìn trừng trừng.
“Được chứ? cấp bách, cấp bách.” Hamilton-Gordon nhìn vào miệng Thomas, ra lệnh cho nó mở miệng để xác nhận. Thomas không nói gì. Từ cách đó rất xa, qua nhiều lớp tường và cửa, một bánh xe đẩy đang rên lên như con lợn bị chọc tiết.
“Là gì?”, Thomas hỏi.
“Vì cháu sẽ bảo với họ rằng cháu là người có lỗi. Rằng cháu đã đưa Jonathon đến đó. Rằng nó chỉ đứng bên cạnh và cố ngăn cháu lại. Cháu có hiểu không? Để đổi lại, chú sẽ chu cấp cho Ella và mẹ cháu, duy trì gia đình cháu cho đến khi cháu tự mình làm được việc đó. Dù thế nào cháu vẫn là một chàng trai thông minh, và đây đâu phải là tận thế. Cháu còn có một tương lai, hãy yên tâm đi. Cháu thấy như thế có công bằng không?”
“Có.” Và đúng là thế, đúng như vậy thật. Nó đã mang Squeak đến đấy, cho nên theo một nghĩa nào đó, nó là người có lỗi. Như thế cũng công bằng, cho dù có điểm gì đấy làm nó khó chịu. Nó không thể nghĩ ra là gì nhưng điều đó là một sự day dứt nhức nhối, liên tục, khẩn thiết như một cơn đau buốt đáng hận.
“Chà, Thomas, chú rất mừng vì chúng ta đã đi đến chỗ đồng thuận, chú nghĩ rằng về sau này khi nhìn lại chuỗi sự kiện ngày hôm nay cháu sẽ thấy...”
Ông ta nói tiếp nhưng Thomas bị phân tâm vì một cử động nhỏ trên đầu ông ta: Tóc của ông Hamilton-Gordon đang động đậy.
Một lọn bạc dày đang nâng dần lên trên đỉnh đầu ông ta ở phía bên trái, tự nó nâng lên cho dù ông ta đang ngồi hoàn toàn bất động và nói chuyện bằng giọng trầm đục của mình rằng ai cũng sẽ hiểu chuyện này và mọi thứ sẽ đâu vào đấy và tất cả sẽ qua mau thế nào.
Lọn tóc từ từ dựng lên thẳng đứng như một chiếc ăng ten ô tô, hướng thẳng lên trần nhà. Nó khác thường đến nỗi Thomas không thể nghe được ông ta nói gì vì bận theo dõi sự việc.
“... và rất nhiều người giàu có khi nhìn lại những rủi ro của thời thanh xuân...”
Và rồi trong lúc Thomas đang nhìn, từ mái tóc ông ta một cái mặt hiện lên phía trên đỉnh đầu, được chiếu sáng hoàn toàn và sống động tuyệt đối đến mức Thomas có thể nhận ra hình mực đổ Rorschach trên mặt nó.
Một con ong vò vẽ đang bò ra khỏi mái tóc dày của ông ta.
Ông Hamilton-Gordon thấy Thomas đang nhìn vào đầu mình, đột nhiên cảm nhận được cử động ấy và hoảng hốt. Ông ta vụt tay qua đầu để tát vào chính mình. Một hình hài đen vàng nhỏ xíu rơi xuống, chân vẫn cục cựa. Nó rơi ngay chỗ vai ông ta, co giật rồi lại rơi xuống mặt bàn. Thomas có thể nghe thấy tiếng zừ zừ của nó.
Đột nhiên, Thomas đứng dậy làm ghế của nó đổ ra sau và nhìn xuống con ong dưới sàn nhà, dù đã bị choáng nhưng vẫn cố vật lộn. Zừ zừ zừ. Thomas không thể ngừng nhìn nó.
Một tiếng vỗ trên mặt bàn. Hamilton-Gordon đang rất tức giận:
“... Cố nói chuyện tử tế với cậu...”
Thomas cười toe toét và nhìn vào bố của Squeak đang đứng sừng sững trước mặt nó và nhận ra mình đang sợ hãi người đàn ông đầy quyền lực này. Nó cũng từ từ với tay ra bàn và vỗ xuống mặt bàn, lòng bàn tay nó tê rần vì lực của cú đánh.
Hamilton-Gordon đứng lên đối diện nó. Nhưng ông ta không cao bằng Thomas mà chỉ tới cằm nó, Thomas nhìn xuống ông ta. Đây thậm chí không phải là một phép so sánh. Vì lý do gì đó mà nó chờ đợi để được trông thấy một con ong nữa, cứ như là khi chúng trở lại thì mọi chuyện sẽ biến đi, cái khoảng thời gian lùng bùng này sẽ có ý nghĩa nào đó, nhưng con ong chỉ là con ong mà thôi. Đây không phải là một sự giác ngộ, cũng không phải là phép so sánh.
“Thomas!”, ông Hamilton-Gordon hét toáng lên. “Chỉ là một con ong thôi.”
Thomas bắt đầu cười. Nó chẳng có nghĩa lý gì cả. Tất cả chỉ là những chuyện ngẫu nhiên và những cái chết. Nó cười mãi cười mãi đến khi bố của Squeak đập cửa ầm ầm và đòi được ra ngoài. Nó cười suốt trên đường về lại thư viện.
Và thậm chí đêm đó khi nằm trên giường, khi ngủ thiếp đi, một nụ cười toe toét tươi rói vẫn còn đọng trên mặt nó bởi vì tất cả chuyện này chẳng có ý nghĩa gì khác. Tất cả chỉ là chuyện ngẫu nhiên mà thôi.