BARACK OBAMA ĐẾN TRỄ VÀO NGÀY ĐẦU TIÊN. Tôi ngồi trong văn phòng của mình ở tầng bốn mươi bảy, chờ đợi mà cũng không chờ đợi anh ấy đến. Cũng như đa số những luật sư mới làm việc năm đầu tiên, tôi rất bận. Tôi ngồi trong văn phòng ở Sidley & Austin hàng giờ đồng hồ, thường dùng cả bữa trưa lẫn bữa tối tại bàn làm việc trong lúc chiến đấu với chồng tài liệu không ngừng đổ tới, tất cả đều được viết bằng thứ ngôn-ngữ-luật-sư chuẩn xác và bóng bẩy. Tôi đọc các biên bản ghi nhớ, tôi viết các ghi nhớ, tôi biên tập biên bản ghi nhớ của người khác. Lúc này, tôi nghĩ mình cơ bản là người thạo ba ngôn ngữ. Tôi hiểu thứ ngôn ngữ thoải mái của vùng South Side, cách diễn đạt đầy trí thức của Ivy League, và bây giờ tôi còn nói ngôn ngữ Luật sư nữa. Tôi được thuê vào nhóm phụ trách marketing và sở hữu trí tuệ của công ty, bộ phận được xem là tự do và sáng tạo hơn các phòng ban khác, mà tôi nghĩ là do chúng tôi có một ít thời gian làm việc trong lĩnh vực quảng cáo. Một phần công việc của tôi là đọc kịch bản quảng cáo truyền hình và truyền thanh cho khách hàng, bảo đảm chúng không vi phạm tiêu chuẩn của Ủy ban Truyền thông Liên bang. Về sau tôi được vinh dự đảm nhiệm các vấn đề pháp lý của sản phẩm Khủng long Barney(1). (Đúng vậy, đó chính là tự do trong một công ty luật.)
Là một luật sư cấp trung, vấn đề của tôi là tôi không có nhiều cơ hội tương tác trực tiếp với khách hàng trong công việc, và vì là một thành viên của gia đình Robinson, được nuôi dưỡng trong sự náo nhiệt của một gia đình nhiều thế hệ, được hun đúc bởi bản năng yêu thích đám đông của cha, tôi thèm muốn mọi sự tương tác. Để khỏa lấp nỗi cô đơn, tôi hay nói đùa với trợ lý Lorraine của tôi, một phụ nữ Mỹ gốc Phi khôi hài và cực kỳ có óc tổ chức. Lorraine lớn hơn tôi vài tuổi, chị ngồi ngay bên ngoài phòng làm việc của tôi và phụ trách trả lời điện thoại. Tôi có các mối quan hệ đồng nghiệp thân thiện với vài luật sư cấp cao và vui vẻ khi có cơ hội tán gẫu với các luật sư đồng cấp, nhưng nhìn chung thì ai cũng bù đầu bù cổ làm việc và thận trọng không để lãng phí dù chỉ một phút hái ra tiền trong ngày. Điều này đẩy tôi trở về với bàn làm việc, một mình đối mặt với mớ tài liệu chất đống.
Nếu phải trải qua bảy mươi giờ một tuần ở đâu đó, văn phòng của tôi là một lựa chọn đủ thoải mái. Tôi có một chiếc ghế bọc da, bàn làm việc bằng gỗ óc chó đánh bóng và những ô cửa sổ rộng nhìn về hướng đông nam. Tôi có thể phóng tầm nhìn qua khu trung tâm tài chính hỗn tạp và thấy những con sóng bạc đầu trên Hồ Michigan, nơi được điểm xuyết những chiếc thuyền buồm màu sáng vào mùa hè. Nếu đổi góc nhìn, tôi có thể lờ mờ thấy được bờ biển và khung cảnh của khu South Side trải dài với những mái nhà thấp và những hàng cây tiếp nối nhau. Từ nơi tôi ngồi, những khu phố nơi đó trông thật yên bình và gần giống mô hình đồ chơi, nhưng thực tế thì khác hẳn. Nhiều vùng của South Side giờ đã hóa điêu tàn vì các doanh nghiệp đóng cửa và các gia đình tiếp tục rời đi. Những nhà máy thép trước kia từng mang lại thu nhập ổn định giờ đang cắt giảm hàng ngàn nhân công. Cơn đại dịch ma túy crack, thứ đã tàn phá cộng đồng người Mỹ gốc Phi tại những nơi như Detroit và New York, chỉ mới bắt đầu xâm nhập Chicago, nhưng sức hủy diệt của nó ở đây không vì thế mà nhẹ nhàng hơn. Các băng nhóm giao tranh với nhau để giành địa bàn. Chúng thuê những cậu con trai mới lớn để “chạy hàng” ở các góc đường, thứ công việc nguy hiểm nhưng sinh lời nhiều hơn nhiều so với việc tới trường đi học. Tỷ lệ các vụ án mạng ở thành phố bắt đầu tăng lên, báo hiệu nhiều rắc rối hơn nữa sắp sửa diễn ra.
Tôi có thu nhập khá tốt ở Sidley, dù vậy tôi vẫn đủ thực tế để biết tốt nhất là không nên mạo hiểm chi tiền cho khoản nhà ở. Từ khi tốt nghiệp trường luật tôi đã dọn về khu phố cũ ở South Side, nơi vẫn còn tương đối vắng bóng băng đảng và ma túy. Cha mẹ tôi đã dời xuống sống trong căn hộ của ông bà Terry và Robbie ngày trước, và theo đề nghị của họ, tôi đã sử dụng căn phòng trên lầu, nơi tôi từng sống khi còn bé. Tôi tân trang căn phòng bằng một chiếc trường kỷ màu trắng sữa và những bức tranh treo tường kiểu batik. Lâu lâu tôi viết cho cha mẹ một tấm chi phiếu đại khái là đủ để chi trả hóa đơn điện nước của tôi. Khoản đó chắc chắn không thể tính là tiền thuê nhà, nhưng cha mẹ tôi khăng khăng bấy nhiêu là quá đủ rồi. Mặc dù căn hộ trên lầu của tôi có lối đi riêng, nhưng tôi thường xuyên đi về qua lối nhà bếp dưới lầu - một phần vì cửa sau căn hộ của cha mẹ tôi mở thẳng ra ga-ra, và phần khác vì tôi vẫn và sẽ mãi là một thành viên của nhà Robinson. Ngay cả khi giờ đây đã trở thành một luật sư trẻ tuổi diện com-lê và lái xe Saab như mong ước, tôi vẫn không mấy thích ở một mình. Tôi củng cố sức mạnh bản thân bằng cách thăm hỏi cha mẹ mỗi ngày. Trên thực tế, buổi sáng hôm đó tôi đã ôm chầm cha mẹ trước khi lao ra cửa và lái xe qua một cơn mưa dông để tới chỗ làm. Chính xác là để tới chỗ làm đúng giờ.
Tôi nhìn đồng hồ.
“Có tin gì của anh chàng kia chưa?”, tôi gọi hỏi Lorraine.
Chị ấy thở dài rõ to, “Chưa đâu cô gái à”. Tôi có thể nói là Lorraine đang cảm thấy buồn cười. Chị ấy biết sự trễ nải khiến tôi phát điên ra sao, biết là tôi coi việc đi trễ chẳng khác gì thói ngạo mạn.
Barack Obama đã gây xôn xao ở hãng luật từ trước. Trước tiên, anh chàng này chỉ vừa hoàn thành năm nhất trường luật, mà thông thường chúng tôi chỉ thuê sinh viên năm hai cho các vị trí thực tập hè. Nhưng người ta đồn là anh chàng này xuất sắc lắm. Người ta truyền tai nhau rằng một trong những giảng viên của anh ở Harvard - con gái của một cổ đông trong công ty chúng tôi - nhận định anh là sinh viên luật tài năng nhất mà cô từng gặp. Một vài thư ký đã thấy anh chàng đến phỏng vấn, và họ nói rằng ngoài sự xuất chúng rõ rành rành ra thì anh ấy còn đáng yêu nữa.
Tôi vẫn rất hoài nghi tất cả chuyện này. Theo kinh nghiệm bản thân, bạn cứ tròng bộ com-lê lên bất cứ anh chàng da đen có vẻ thông minh nào thì người da trắng cũng sẽ mê mẩn đến phát rồ. Tôi không chắc là anh ta được như lời đồn thổi. Tôi đã xem qua ảnh của anh trong hồ sơ thực tập sinh mùa hè, tấm ảnh chụp thiếu sáng không-đẹp-như-lời-đồn của một anh chàng có một nụ cười toe toét và dáng vẻ mọt sách. Tôi không cảm thấy gì đặc biệt. Hồ sơ ghi rằng anh ta xuất thân từ Hawaii, và ít ra thì điều này đã giúp anh trở thành một tay mọt sách tương đối lạ. Ngoài ra thì chẳng có gì nổi bật. Điều ngạc nhiên duy nhất là việc đã xảy ra vài tuần trước, khi tôi gọi điện thoại cho anh để hoàn thành trách nhiệm tự giới thiệu bản thân. Tôi đã hơi bất ngờ khi nghe giọng nói ở đầu bên kia, đó là giọng nam trung, dày và thậm chí còn có chút quyến rũ - cơ bản là không ăn nhập gì với hình chụp của anh ấy.
Thêm mười phút nữa thì anh chàng mới xuất hiện ở chỗ tiếp tân. Tôi bước ra để chào hỏi và nhìn thấy anh đang ngồi trên trường kỷ - chính là Barack Obama, trong bộ com-lê sẫm màu và còn hơi ướt vì dính mưa. Anh vừa bắt tay tôi vừa ngượng ngùng cười xin lỗi vì đã đến trễ. Anh có nụ cười rộng mở, dáng người cao và gầy hơn những gì tôi hình dung - một người rõ ràng không thuộc dạng ăn nhiều và cũng có vẻ hoàn toàn không thoải mái với việc mặc quần áo công sở. Anh không có vẻ gì là biết mình đang mang danh tiếng của một người trẻ tuổi tài ba. Anh im lặng, nghiêm túc và chú ý lắng nghe khi tôi dẫn anh qua những dãy hành lang đi tới văn phòng, vừa đi vừa giới thiệu những công việc nhàn hạ của hãng luật. Tôi chỉ cho anh khu xử lý văn bản và máy pha cà phê, giải thích về hệ thống tính giờ làm việc. Khoảng hai mươi phút sau, tôi quay lại bàn làm việc của mình sau khi dẫn anh tới chỗ vị luật sư cấp cao, cấp trên thật sự của anh.
Trưa hôm đó tôi dẫn Barack đến nhà hàng sang trọng ở tầng trệt của tòa nhà, nơi đông đảo nhân viên ngân hàng và luật sư ăn mặc bảnh bao đang trao đổi công việc qua những bữa trưa có giá đắt như bữa tối. Đây là lợi ích của việc dẫn dắt luật sư tập sự: bạn có cớ để đi ăn ngoài, ăn ngon và bằng tiền của công ty. Trong vai trò cố vấn của Barack, nhiệm vụ chủ yếu của tôi chính là làm cầu nối xã hội. Tôi cần đảm bảo anh hài lòng với công việc, có ai đó để trao đổi khi cần lời khuyên và cảm thấy gắn kết với một đội ngũ lớn hơn. Đó là khởi đầu của một quá trình chiêu mộ quy mô hơn. Ý định của công ty là họ có thể sẽ tuyển dụng anh làm việc toàn thời gian khi anh tốt nghiệp - tương tự như việc họ sẽ làm với tất cả những luật sư thực tập hè khác.
Tôi nhanh chóng nhận ra Barack cần rất ít lời khuyên. Anh ấy sắp bước sang tuổi hai mươi tám, lớn hơn tôi ba tuổi. Không giống như tôi, anh ấy đã đi làm nhiều năm sau khi tốt nghiệp cử nhân tại Đại học ở Columbia rồi mới vào trường luật. Điều khiến tôi ngạc nhiên chính là sự chắc chắn của anh về định hướng cuộc đời. Anh không mảy may nghi ngờ lựa chọn của bản thân, một điều mà ban đầu có vẻ rất khó hiểu. So với chặng đường thẳng tiến đến thành công của tôi, thẳng như mũi tên bắn từ Princeton đến Harvard rồi hạ cánh ở bàn làm việc của tôi trên tầng bốn mươi bảy, con đường của Barack là một đường zig zag ngẫu hứng băng qua nhiều thế giới khác nhau. Qua các lần dùng bữa trưa cùng nhau, tôi biết anh ấy là một người con lai đúng nghĩa - anh là con trai của một người cha Kenya da đen và một người mẹ da trắng ở Kansas, là kết quả của một cuộc hôn nhân vừa nồng nhiệt lại vừa ngắn ngủi. Anh được sinh ra và nuôi nấng ở Honolulu nhưng trải qua bốn năm tuổi thơ thả diều bắt dế ở Indonesia. Sau khi tốt nghiệp trung học, anh có hai năm tương đối thảnh thơi làm sinh viên tại Đại học Occidental ở Los Angeles trước khi chuyển sang Đại học Columbia, nơi anh tự nhận là mình đã sống không hề giống một sinh viên phóng túng ở Manhattan thập niên 1980 mà lại giống một ẩn sĩ thế kỷ mười sáu - anh thường đọc những tác phẩm văn chương và triết học khó nhằn trong một căn hộ tồi tàn ở Đường 109, cũng như viết những bài thơ dở tệ và nhịn ăn vào các ngày Chủ nhật.
Chúng tôi bật cười trước tất cả những chuyện này, chia sẻ với nhau những câu chuyện về hoàn cảnh của bản thân và những điều đã dẫn dắt mình vào con đường luật. Barack nghiêm túc nhưng không ra vẻ đạo mạo. Anh ấy có cung cách phóng khoáng thoải mái nhưng mạnh mẽ trong tư duy. Đó là một sự kết hợp lạ kỳ và cuốn hút. Một điều ngạc nhiên nữa đối với tôi chính là anh ấy hiểu rất rõ về Chicago.
Barack là người đầu tiên tôi gặp tại Sidley đã từng tới các tiệm cắt tóc bình dân, những điểm bán thịt nướng và những giáo xứ ngoan đạo của người da đen ở khu Far South Side. Trước khi vào trường luật, anh ấy đã có ba năm làm việc tại Chicago trong vai trò người tổ chức sự kiện cộng đồng, kiếm được 12.000 đô-la một năm từ một tổ chức phi chính phủ đứng ra liên kết những nhà thờ với nhau. Công việc của anh là hỗ trợ xây dựng lại các khu phố và tái tạo công ăn việc làm. Theo lời anh thì đó là công việc lợi một mà thất vọng hai: anh mất nhiều tuần để lên kế hoạch tổ chức một buổi họp mặt cộng đồng, nhưng rồi chỉ có khoảng hơn chục người tới tham dự. Các nỗ lực của anh bị các lãnh đạo nghiệp đoàn lao động chế giễu và bị cả người da đen lẫn da trắng soi mói. Nhưng dần dần anh đã giành được những thắng lợi lớn hơn, và có vẻ điều này đã khích lệ anh. Barack giải thích rằng anh học luật vì việc tổ chức phong trào cộng đồng đã cho anh thấy sự thay đổi tích cực trong xã hội không chỉ đòi hỏi nỗ lực của con người tại địa phương, mà còn cần những chính sách hiệu quả hơn cùng với hành động của chính phủ.
Dù có hơi dửng dưng về những tin đồn trước khi anh xuất hiện, nhưng tôi phát hiện mình ngưỡng mộ Barack cả vì sự quả quyết và chân thành của anh. Anh ấy thú vị, khác thường và lịch thiệp một cách kỳ lạ. Thế nhưng tôi chưa từng nghĩ về anh ấy như đối tượng mà mình muốn hẹn hò. Một phần vì tôi là người hướng dẫn anh ấy trong công ty. Một phần vì gần đây tôi vừa mới quyết định gác chuyện yêu đương sang một bên vì quá bận rộn với công việc đến mức không còn tâm trí dành cho nó. Và cuối cùng, thật khủng khiếp khi cuối bữa trưa hôm đó Barack đã đốt một điếu thuốc, một việc đủ để làm tiêu tan bất kỳ hứng thú nào mà tôi có thể có với anh từ đầu đến giờ.
Tôi tự nhủ, anh sẽ là một thực tập sinh ra trò.
NHỮNG TUẦN TIẾP THEO, chúng tôi dần hình thành một thói quen. Vào buổi chiều muộn, Barack sẽ nhẩn nha “lượn” xuống sảnh và ngồi phịch xuống một chiếc ghế nào đó trong văn phòng tôi, như thể anh ấy đã quen biết tôi nhiều năm lắm. Đôi khi tôi có cảm giác anh ấy như vậy thật. Chúng tôi rất dễ chuyện trò vui vẻ với nhau, cách tư duy của chúng tôi cũng giống nhau. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau khi thấy mọi người xung quanh căng thẳng tới phát rồ, khi các cộng sự đưa ra mấy lời bình luận trịch thượng hoặc chẳng ăn nhập gì với thực tế. Có một điều không cần phải nói ra nhưng rất hiển nhiên, đó là anh ấy là “người trong nhà”, và trong văn phòng của chúng tôi, nơi đang thuê hơn bốn trăm luật sư, chỉ có chừng năm luật sư toàn thời gian là người Mỹ gốc Phi. Thật rõ ràng và dễ hiểu khi chúng tôi thu hút lẫn nhau.
Barack không hề giống kiểu luật sư tập sự mùa hè năng nổ điển hình (như tôi hai năm trước ở Sidley), những người vội vàng thiết lập mạng lưới mối quan hệ và hồi hộp không biết mình có nhận được tấm vé vàng mời nhận việc hay không. Anh thong dong trong bộ dạng thờ ơ điềm tĩnh, mà điều này dường như chỉ khiến anh thêm hấp dẫn trong mắt người khác. Tiếng tăm của anh không ngừng tăng lên trong công ty. Chưa chi anh đã được gọi tham gia các cuộc họp cao cấp với các luật sư cộng sự. Thậm chí anh còn được yêu cầu góp ý về bất cứ vấn đề nào đang được thảo luận. Có một lần vào đầu hè, anh đưa ra một bản ghi nhớ ba-mươi-trang về quản lý tập đoàn, và rõ ràng là nó thấu đáo cũng như thuyết phục đến mức lập tức trở thành huyền thoại. Anh chàng này là ai? Mọi người đều tò mò muốn biết.
“Tôi đem cho em một bản đây”, một ngày kia Barack đặt bản ghi nhớ đã soạn lên bàn tôi, kèm theo một nụ cười.
“Cảm ơn anh”, tôi đón lấy. “Em đang đợi được đọc nó đây.”
Sau khi anh ấy đi ra, tôi cất bản ghi nhớ vào ngăn kéo.
Anh ấy có biết tôi chưa bao giờ giở nó ra hay không? Tôi nghĩ là có. Anh ấy đưa tôi bản ghi nhớ đó với thái độ nửa đùa nửa thật. Dù sao thì chúng tôi cũng thuộc hai nhóm chuyên trách khác nhau nên tài liệu mà chúng tôi dùng cũng không giống nhau. Bản thân tôi đã có quá nhiều tài liệu cần xử lý rồi. Và tôi không cần ngạc nhiên thêm nữa. Giờ đây chúng tôi - Barack và tôi - là bạn bè, là chiến hữu. Chúng tôi cùng đi ăn trưa ít nhất một lần một tuần, có khi thường xuyên hơn, và tất nhiên luôn ghi hóa đơn cho công ty. Dần dần, chúng tôi hiểu nhau hơn. Anh biết tôi đang sống cùng cha mẹ, biết những ký ức hạnh phúc nhất của tôi ở Trường Luật Harvard đến từ công việc tôi làm ở Văn phòng Hỗ trợ Pháp lý. Tôi biết anh đã ngốn hàng đống triết lý chính trị như thể đó là tiểu thuyết giải khuây trên bãi biển, biết hễ có tiền dư thì anh đều dành để mua sách. Tôi biết cha của anh qua đời trong một vụ tai nạn ô-tô ở Kenya, và anh đã đến nơi đó chỉ để hiểu thêm về ông ấy. Tôi biết anh thích chơi bóng rổ, biết anh thường chạy bộ một quãng đường dài vào cuối tuần và hay kể về bạn bè cũng như gia đình mình ở Oahu với vẻ trầm tư. Tôi biết anh từng có kha khá bạn gái trong quá khứ, nhưng lúc này thì không có mối quan hệ ràng buộc nào.
Tôi nghĩ mình có thể hỗ trợ anh khắc phục khoản “không có mối quan hệ ràng buộc”. Cuộc sống của tôi ở Chicago chủ yếu chỉ toàn tụ tập với những phụ nữ da đen tài năng và thành đạt. Bất chấp những giờ làm việc cắm đầu cắm cổ, tôi vẫn thích được giao tiếp. Tôi có bạn bè ở Sidley, bạn trung học, bạn bè quen biết qua mạng lưới công việc và những người bạn tôi quen qua anh Craig, người vừa kết hôn và làm nghề nhân viên ngân hàng đầu tư trong thành phố. Chúng tôi là một hội bạn bè vui vẻ, hội họp với nhau vào bất kỳ lúc nào có thể ở một quán bar nào đó trong khu trung tâm hoặc gặp nhau cuối tuần trong những bữa ăn xa hoa kéo dài. Tôi từng hẹn hò với vài anh chàng ở trường luật nhưng chưa gặp được người nào đặc biệt từ khi về lại Chicago, mà đằng nào thì tôi cũng chẳng có mấy hứng thú với chuyện này. Tôi tuyên bố với mọi người, bao gồm những đối tượng tiềm năng, rằng sự nghiệp mới là ưu tiên của tôi vào lúc này. Dù vậy, tôi lại có rất nhiều cô bạn gái đang tìm người để hẹn hò.
Một tối nọ vào đầu hè, tôi dẫn Barack tới một quán bar ở trung tâm vào giờ giảm giá. Đó là điểm tụ tập không chính thức hàng tháng của người da đen trí thức, và cũng là nơi tôi thường gặp gỡ bạn bè. Tôi để ý thấy anh đã thay quần áo công sở và mặc một chiếc áo blazer vải lanh trắng trông như vừa được lấy ra từ bộ phim Miami Vice. À há!
Không có gì phải bàn cãi rằng bất kể gu ăn mặc hơi có vấn đề của mình, Barack vẫn luôn cuốn hút. Anh điển trai, điềm đạm và thành đạt. Anh cũng có máu thể thao, thú vị và còn tử tế nữa. Người ta còn có thể đòi hỏi gì hơn? Tôi hào hứng đi vào quán bar, chắc mẩm là mình đang làm điều có ích cho mọi người - cho chính Barack và cho tất cả các quý cô có mặt ở đó. Gần như ngay lập tức, anh đã “được” một người quen của tôi tóm lấy. Đó là một phụ nữ xinh đẹp, quyền cao chức trọng và làm trong ngành tài chính. Tôi có thể thấy cô nàng hoạt bát hẳn lên khi nói chuyện với Barack. Thấy vậy là ổn, tôi gọi cho mình một ly và đi qua bàn khác gặp mấy người bạn.
Hai mươi phút sau, tôi nhìn thấy Barack ở góc xa căn phòng, anh có vẻ đang ở trong một cuộc trò chuyện không hồi kết với người phụ nữ kia, mà chính xác thì chỉ có cô nàng đang huyên thuyên. Anh ấy ném cho tôi một cái nhìn với ngụ ý xin được giải nguy. Nhưng anh ấy là một người đàn ông trưởng thành, thế nên tôi để mặc anh ấy tự cứu mình.
Hôm sau anh xuất hiện ở văn phòng tôi và hỏi với vẻ vẫn còn ngờ vực. “Em có biết cô ta hỏi tôi chuyện gì không? Cô ấy hỏi tôi có thích đi cưỡi không. Cưỡi ngựa ấy.” Anh ấy kể là cả hai nói về những bộ phim ưa thích, nhưng chuyện đó cũng không suôn sẻ lắm.
Barack là người có đầu óc, có lẽ là quá đầu óc đối với hầu hết phụ nữ. (Trên thực tế, đây chính là đánh giá của các bạn tôi về anh khi chúng tôi nói chuyện với nhau.) Anh không phải kiểu đàn ông thích la cà quán bar vào giờ giảm giá, và lẽ ra tôi nên nhận ra điều đó sớm hơn. Thế giới của tôi đầy những người giàu hy vọng, nỗ lực và ám ảnh về sự thăng tiến trong công việc. Họ tậu xe hơi, sẵn sàng sắm cho mình căn hộ đầu tiên và thích nói về những chuyện đó bên những ly martini sau giờ làm việc. Barack thì sẽ thỏa mãn hơn khi được yên tĩnh một mình vào buổi tối để đọc về chính sách nhà cửa đô thị. Hồi còn là nhà tổ chức sự kiện, anh từng dành nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng lắng nghe người nghèo chia sẻ những khó khăn mà họ gặp phải. Tôi bắt đầu nhận ra sự kiên định của anh đối với hy vọng và triển vọng của sự thay đổi bắt nguồn từ một nơi hoàn toàn khác và không dễ tiếp cận.
Anh kể tôi nghe rằng anh từng là một người vô tư và phóng túng hơn. Hai mươi năm đầu tiên của cuộc đời mình, anh được biết đến với biệt danh Barry. Hồi còn thiếu niên, anh hút cần sa dưới chân những ngọn núi lửa um tùm cây cối ở Oahu. Ở trường Occidental, anh theo đuổi phong cách đang lụi tàn của thập niên 1970, vẫn yêu thích Hendrix và nhóm Rolling Stones. Nhưng rồi đâu đó trên hành trình của mình, anh bắt đầu sống trọn vẹn với tên khai sinh Barack Hussein Obama, cũng như với nhân dạng phức tạp của mình. Anh vừa trắng lại vừa đen, vừa là gốc Phi lại vừa mang gốc Mỹ. Anh khiêm tốn và sống giản dị, nhưng anh cũng biết sự trù phú của tâm trí mình, biết cái thế giới đặc quyền đặc lợi mà tâm trí đó sẽ mở ra trước mắt anh. Tôi có thể nói là anh rất nghiêm túc với tất cả những điều đó. Anh có thể vui vẻ thoải mái và hài hước, nhưng chưa bao giờ anh quên nghĩa vụ to lớn hơn của mình. Anh đang trên đường chinh phục một sứ mệnh nào đó, dù anh vẫn chưa biết nó sẽ dẫn đến đâu. Tất cả những gì tôi biết là sứ mệnh đó không đồng nghĩa với những ly rượu. Lần sau, khi tới giờ vàng giảm giá, tôi để anh ở lại văn phòng.
HỒI TÔI CÒN BÉ, cha mẹ tôi đều hút thuốc. Họ đốt thuốc vào buổi tối khi ngồi trong bếp trò chuyện về ngày làm việc của mình. Họ hút thuốc khi lau dọn chén đĩa sau bữa ăn tối, thỉnh thoảng họ sẽ mở một cánh cửa sổ để không khí trong lành tràn vào. Họ không hút nhiều, nhưng họ hút thuốc như thói quen, và còn hút dai nữa. Họ vẫn tiếp tục hút thuốc kể cả sau khi nghiên cứu đã nói rất rõ là hút thuốc không tốt cho sức khỏe.
Chuyện hút thuốc này khiến tôi và anh Craig phát điên. Chúng tôi giả vờ ho sù sụ như thật mỗi khi họ châm thuốc. Chúng tôi tiến hành phá hoại “nguồn cung” của họ. Khi còn rất nhỏ, anh em tôi từng lấy cả một cây thuốc Newports mới toanh ra khỏi kệ và bắt đầu đem nó ra bồn rửa chén để tiêu hủy bằng cách xé nát hết mấy điếu thuốc như tách đậu. Lần khác, chúng tôi nhúng đầu điếu vào sốt tương ớt rồi xếp chúng vào hộp trở lại. Chúng tôi nói cho cha mẹ nghe về bệnh ung thư phổi, giải thích những điều khủng khiếp trong những thước phim mà người ta chiếu trong giờ giáo dục sức khỏe ở trường - đó là ảnh chụp hai lá phổi của người hút thuốc, hai lá phổi khô quắt và đen như than, bằng chứng cho thấy cái chết đang đến, cái chết từ trong lồng ngực. Ngược lại, chúng tôi cũng được xem hình ảnh những lá phổi hồng hào khỏe mạnh, không bị khói thuốc làm vấy bẩn. Đó là một mô hình đủ đơn giản để họ lựa chọn hành vi của mình: Tốt/Xấu, Khỏe mạnh/Bệnh tật. Chúng ta quyết định tương lai của mình. Đó là tất cả những gì cha mẹ đã dạy chúng tôi. Vậy mà cũng phải nhiều năm sau đó họ mới cai hẳn thuốc lá.
Barack hút thuốc giống hệt cha mẹ tôi. Anh hút thuốc sau bữa ăn, hút thuốc khi đang xuống phố hoặc khi cảm thấy căng thẳng và không thể để hai tay rảnh rang. Vào năm 1989, hút thuốc là chuyện thường thấy hơn bây giờ, cũng phổ biến trong đời sống hàng ngày hơn bây giờ. Nghiên cứu về ảnh hưởng của việc hút thuốc thụ động hãy còn mới mẻ. Người ta hút thuốc trong nhà hàng, trong văn phòng và ở cả sân bay. Thế nhưng tôi đã xem những thước phim với hình ảnh các lá phổi. Đối với tôi, và với tất cả những người có ý thức mà tôi quen biết, hút thuốc chính là tự hủy hoại bản thân.
Barack biết chính xác tôi cảm thấy thế nào về chuyện anh hút thuốc. Tình bạn giữa chúng tôi được xây dựng trên sự thẳng thắn mà tôi cho rằng cả hai chúng tôi đều yêu thích.
“Tại sao một người thông minh như anh lại làm cái chuyện dại dột như vậy?”, tôi buột miệng hỏi ngay ngày đầu tiên gặp nhau, khi thấy anh kết thúc bữa trưa bằng một điếu thuốc. Đó là một câu hỏi thật lòng.
Theo tôi nhớ thì anh chỉ nhún vai, công nhận là tôi đúng. Không có gì phải tranh cãi, cũng không có điểm gì cần thảo luận. Hút thuốc là chủ đề duy nhất mà cái đầu logic của Barack không đụng tới.
Dù tôi có thừa nhận hay không thì giữa chúng tôi có một điều gì đó đã bắt đầu thay đổi. Vào những ngày chúng tôi quá bận rộn đến mức không thể gặp mặt nhau, tôi luôn tự hỏi anh ấy đang làm gì. Tôi tự nhủ đừng thất vọng khi không thấy anh ấy xuất hiện trước cửa phòng làm việc của mình. Tôi tự nhủ đừng quá phấn khích khi thấy anh ấy xuất hiện. Tôi có tình cảm với anh, nhưng tình cảm này vẫn đang âm ỉ chôn sâu bên dưới quyết tâm tập trung giữ cho cuộc sống của mình gọn gàng và thăng tiến trong sự nghiệp, không dính vào những chuyện kịch tính. Những bản đánh giá kết quả công việc hàng năm của tôi đều ổn định. Tôi đang đi đúng đường để trở thành luật sư có cổ phần tại Sidley & Austin, có lẽ là trước tuổi ba mươi hai. Đó là tất cả những gì tôi mong muốn, hoặc tôi đang tự thuyết phục mình như vậy.
Có thể tôi đã phớt lờ những gì đang nảy nở giữa hai chúng tôi, nhưng Barack thì không.
“Anh nghĩ là chúng ta nên hẹn hò”, anh nói vào một chiều nọ khi chúng tôi đang ngồi dùng bữa.
“Hả? Anh và em?”. Tôi giả vờ kinh ngạc vì anh nghĩ tới khả năng đó. “Em đã nói với anh rồi, em không hẹn hò. Và em là cố vấn của anh.”
Anh ấy cười với vẻ hài hước. “Em làm như chuyện đó thì có ảnh hưởng gì vậy. Em không phải là sếp của anh.” Sau đó anh chốt, “Và em khá đáng yêu đấy”.
Barack có một nụ cười dường như rộng đến mang tai. Anh là sự kết hợp chết người giữa tình cảm và lý trí. Suốt những ngày kế tiếp, không dưới một lần anh đã bày ra bằng chứng tại sao chúng tôi nên hẹn hò. Chúng tôi tâm đầu ý hợp. Chúng tôi làm cho nhau cười. Chúng tôi đều không vướng bận bạn trai bạn gái, và hơn nữa, chúng tôi đã thừa nhận rằng hoàn toàn không có hứng thú gì với bất kỳ người nào khác mình từng gặp. Anh ấy lập luận rằng chẳng ai ở công ty sẽ bận tâm chuyện chúng tôi hẹn hò với nhau. Thật ra thì chuyện đó còn có thể được xem là một tín hiệu lạc quan. Anh nhận định là những luật sư cổ đông trong công ty rồi sẽ muốn giữ anh lại làm việc cho họ, và nếu chúng tôi hẹn hò nhau thì chuyện này sẽ làm tăng khả năng anh trung thành với công ty.
“Ý anh là em giống mồi nhử sao?”, tôi cười phá lên. “Anh tự đánh giá mình cao quá rồi.”
Vào mùa hè, công ty tổ chức hàng loạt sự kiện và các buổi giao lưu cho các luật sư thực tập, ai muốn tham gia thì chỉ cần đăng ký vào tờ đơn được chuyền khắp công ty. Một sự kiện trong số đó là đi xem suất diễn trong tuần của vở nhạc kịch Les Misérables(2) tại một nhà hát gần văn phòng. Tôi đăng ký nhận hai vé, một hành vi vô cùng bình thường của một cô luật sư cố vấn và luật sư thực tập mà cô ta dẫn dắt trong hè. Chúng tôi cần cùng nhau tham gia những hoạt động của công ty. Nhiệm vụ của tôi là anh ấy có trải nghiệm tích cực và vui vẻ ở Sidley & Austin. Chỉ có vậy thôi.
Chúng tôi ngồi cạnh nhau trong nhà hát, cả hai đều mệt mỏi sau một ngày làm việc dài. Vở kịch mở màn và tiếng hát bắt đầu cất lên, chúng tôi được thấy hình ảnh một Paris u ám. Tôi không biết do tâm trạng của mình hay do bản thân vở nhạc kịch, nhưng suốt một giờ đồng hồ sau đó tôi thấy khổ sở trước sự thống khổ của người dân nước Pháp. Những lời than van và cảnh gông cùm. Nạn đói nghèo và cưỡng hiếp. Bất công và đàn áp. Hàng triệu người trên thế giới đã yêu thích vở nhạc kịch này, nhưng tôi lại bồn chồn không yên, cố thoát ra khỏi sự tra tấn không thể nào lý giải được mỗi khi giai điệu của vở kịch vang lên.
Khi đèn nhà hát bật sáng báo giờ giải lao, tôi trộm nhìn Barack. Anh ấy đang ngồi sụp xuống ghế, chỏ tay phải đặt trên thành ghế và ngón trỏ tựa lên trán. Tôi không đoán được biểu cảm của anh có ý gì.
“Anh nghĩ sao?”, tôi hỏi.
Anh liếc nhìn tôi. “Khủng khiếp, phải không em?”
Tôi cười, cảm thấy nhẹ nhõm vì anh ấy cũng có cảm nhận giống mình.
Barack ngồi thẳng lưng trở lại. “Chúng ta ra ngoài nhé?”, anh hỏi. “Chúng ta có thể không xem nữa mà.”
Bình thường thì tôi sẽ không trốn chạy. Tôi không phải kiểu người như vậy. Tôi quá quan tâm đến những gì các luật sư khác nghĩ về mình. Họ sẽ nghĩ sao nếu phát hiện hai chiếc ghế trống? Nhìn chung, tôi quá quan tâm việc phải hoàn thành những gì mình đã bắt đầu, phải xem mọi điều, từ nhỏ nhặt nhất cho đến đoạn kết nghẹt thở, cho dù đó là một vở nhạc kịch Broadway quá cầu kỳ vào một đêm thứ Tư lẽ ra rất vui vẻ. Thật không may, đây chính là một nguyên tắc của tôi. Tôi chịu đựng đau khổ để giữ thể diện cho bản thân. Nhưng giờ đây, dường như tôi đang đi cùng một người không có suy nghĩ như thế.
Né hết mọi người chúng tôi quen biết ở hãng luật - những cố vấn và thực tập sinh của họ đang trò chuyện sôi nổi ở hành lang - chúng tôi lẻn ra ngoài nhà hát và bước vào một buổi chiều dịu êm. Những tia sáng cuối cùng đang le lói trên nền trời màu tím. Tôi thở phào, sự nhẹ nhõm của tôi rõ ràng đến mức khiến Barack cười phá lên.
“Chúng ta đi đâu đây?”, tôi hỏi anh.
“Đi uống một ly thì sao?”
Chúng tôi bước vào một quán bar gần đó theo đúng phong cách thường ngày của mình: tôi nhanh còn anh ấy thì chậm. Barack là người bước đi thong thả. Anh ấy có bộ dạng thoải mái kiểu Hawaii, không bao giờ hối hả, ngay cả khi - và đặc biệt là khi - được yêu cầu phải nhanh chân lên. Trái lại, tôi có bước chân mạnh mẽ kể cả lúc đang rỗi rãi, và đối với tôi thì giảm tốc độ di chuyển là một chuyện khá khó khăn. Nhưng tôi nhớ đêm đó tôi đã tự nhủ mình hãy chậm lại, chỉ một chút thôi, đủ để tôi có thể nghe anh ấy đang nói gì, vì tôi bắt đầu nhận ra mình quan tâm mọi điều anh ấy nói.
Đến lúc này, tôi đã tỉ mỉ xây dựng cuộc sống của mình, tém gọn mọi chi tiết lỏng lẻo và kém trật tự, như thể đang xếp một mẫu origami chặt chẽ và liền lạc. Tôi đã dụng công tác tạo cuộc đời mình. Tôi tự hào với dáng vẻ của nó. Nhưng đó là hình ảnh rất mong manh. Nếu một góc nào đó bị bung ra thì tôi có thể sẽ lo lắng không yên. Nếu có thêm một góc khác lung lay, tôi có thể sẽ biết là tôi còn ngờ vực đối với con đường sự nghiệp mà mình đã chủ động lựa chọn, còn thiếu chắc chắn về tất cả những điều mà tôi cho là mình mong muốn. Giờ thì tôi đã hiểu tại sao tôi bảo vệ bản thân kỹ đến vậy, tại sao tôi vẫn chưa sẵn sàng đón nhận Barack. Anh ấy như một cơn gió đe dọa sẽ xáo trộn mọi thứ.
Một hay hai ngày sau, Barack hỏi tôi có thể cho anh đi nhờ đến một bữa tiệc nướng dành cho các thực tập sinh hay không. Bữa tiệc được tổ chức vào dịp cuối tuần tại nhà một luật sư cấp cao tại vùng ngoại ô giàu có ven hồ ở phía bắc thành phố. Tôi nhớ hôm đó là một ngày quang đãng, mặt hồ lấp lánh bên một trảng cỏ được cắt tỉa cẩn thận. Tiếng nhạc đang phát ra từ dàn âm thanh nổi, và người phục vụ mang thức ăn ra trong lúc mọi người khen ngợi phong cách thẩm mỹ của ngôi nhà. Đó là bức tranh của sự sung túc và thoải mái, là một lời nhắc nhở không hề mờ nhạt về phần thưởng bạn sẽ nhận được khi toàn tâm toàn ý dốc sức vào công việc. Tôi biết Barack giằng co với những gì anh muốn thực hiện trong đời, với định hướng nghề nghiệp của bản thân. Anh ấy sống không thiên về vật chất. Giống như tôi, anh ấy chưa từng giàu có, và anh cũng chẳng khát khao làm giàu. Anh muốn trở thành con người hữu ích hơn là trở nên giàu có, và anh vẫn đang nỗ lực tìm cách thực hiện điều đó.
Chúng tôi không tham dự bữa tiệc như một cặp đôi nhưng vẫn dành hầu hết thời gian bên cạnh nhau, đi chào hỏi từng nhóm đồng nghiệp, nốc bia và uống nước chanh, ăn burger và rau trộn khoai tây trên đĩa nhựa. Chúng tôi tách ra rồi lại tìm về với nhau. Tất cả đều có cảm giác hết sức tự nhiên. Anh ấy âm thầm tán tỉnh tôi và tôi cũng tán tỉnh đáp lại. Vài người bắt đầu chơi bóng rổ tự do, và tôi dõi theo khi Barack ung dung vào sân trên đôi dép lê của anh. Anh dễ dàng quen biết mọi người ở công ty. Anh gọi tất cả các thư ký bằng tên và hòa đồng với mọi người - từ những luật sư cao niên, bảo thủ tới những chú ngựa non háu đá đầy tham vọng hiện đang chơi trong sân bóng rổ. Anh ấy là người tốt, tôi tự nhủ trong lúc quan sát anh chuyền bóng cho một vị luật sư khác.
Sau khi đã ngồi xem vô số trận bóng rổ từ trung học đến đại học, tôi có thể nhận ra ai là một cầu thủ giỏi, và Barack nhanh chóng qua được màn kiểm định. Anh ấy chơi bóng rổ theo kiểu rất thể thao và rất nghệ thuật. Cơ thể cao gầy của anh di chuyển nhanh nhẹn, thể hiện thứ sức mạnh mà trước đây tôi chưa từng chú ý. Anh ấy nhanh nhẹn và khéo léo, kể cả khi mang đôi dép Hawaii của mình. Tôi đứng đó, vờ như đang lắng nghe một người vợ cực kỳ tử tế của ai đó đang nói chuyện với mình, nhưng kỳ thực mắt tôi dán lấy Barack. Lần đầu tiên tôi thấy kinh ngạc trước con người mà anh đang thể hiện, một người đàn ông kỳ lạ tổng-hòa-mọi-thứ.
Khi chúng tôi lái xe về lại thành phố vào tối hôm đó, tôi cảm thấy một sự thổn thức mới chớm, một hạt giống ngóng trông vừa mới gieo. Khi đó đang là tháng Bảy. Barack sẽ rời đi trong tháng Tám, anh sẽ biến mất vào trường luật và vào bất cứ cuộc sống nào khác chờ đợi anh ở đó. Bề ngoài, giữa chúng tôi chẳng có gì thay đổi. Chúng tôi cười đùa như trước giờ vẫn thế, chúng tôi tán gẫu về việc ai nói điều gì trong bữa tiệc nướng. Nhưng tôi cảm thấy cái nóng râm ran đang chạy dọc theo sống lưng mình. Tôi cảm nhận rất rõ cơ thể của anh trong không gian nhỏ hẹp của xe - chỏ tay anh đặt lên hộp giữa, đầu gối anh nằm trong tầm với của tay tôi. Khi chúng tôi rẽ vào khúc bo phía nam Đường Lake Shore, vượt qua những người đạp xe và chạy bộ trên đường bộ hành, tôi đang đấu tranh tư tưởng với chính mình. Có cách nào để làm điều này mà không biến nó thành chuyện nghiêm trọng hay không? Chuyện này sẽ ảnh hưởng đến công việc của tôi đến mức nào? Tôi không xác định được bất kỳ chuyện gì - tôi không biết làm thế nào mới là đúng, không biết ai sẽ phát hiện và chuyện đó có quan trọng nữa hay không - nhưng tôi chợt phát hiện mình không còn muốn chờ cho đến khi biết rõ nữa.
Barack sống ở khu Công viên Hyde, trong một căn hộ thuê lại của một người bạn. Đến lúc chúng tôi rẽ vào khu phố thì bầu không khí căng thẳng đã tràn ngập giữa chúng tôi, như thể một điều tất yếu hoặc tiền định nào đó sắp sửa xảy ra. Hay là tôi đang tưởng tượng? Có lẽ tôi đã từ chối anh ấy quá nhiều lần. Có lẽ anh đã từ bỏ và giờ đây chỉ xem tôi là một người bạn tốt và đáng tin cậy, một cô gái sở hữu chiếc Saab có máy điều hòa nhiệt độ có thể cho anh quá giang mỗi khi cần.
Tôi dừng xe trước tòa nhà nơi anh ấy sống, tâm trí vẫn còn rối tung rối mù. Một khoảnh khắc kỳ quặc trôi qua, ai nấy cũng chờ người kia mở lời tạm biệt. Barack ngẩng đầu về phía tôi.
“Hay là mình đi ăn kem?”, anh hỏi.
Đó là khi tôi biết cuộc chơi đã bắt đầu, là một trong những lần hiếm hoi tôi quyết định ngưng nghĩ ngợi và chỉ sống. Đó là một tối mùa hè ấm áp tại thành phố mà tôi yêu quý. Bầu không khí dễ chịu đang mơn man trên da thịt. Có một tiệm Baskin-Robbins ở dãy nhà gần căn hộ của Barack, chúng tôi đã đến đó mua hai cốc kem và mang ra ngoài và ngồi ăn trên vỉa hè. Chúng tôi ngồi cạnh nhau, co gối, tận hưởng sự mệt mỏi dễ chịu sau một ngày ở suốt ngoài trời. Chúng tôi lẳng lặng ăn kem thật nhanh trước khi nó tan hết. Có lẽ Barack đã đọc được trên khuôn mặt tôi, hoặc đã cảm nhận qua bộ dạng của tôi là tôi đang thả lỏng và mở lòng.
Anh nhìn tôi một cách tò mò với một nụ cười vừa hé trên môi.
“Anh hôn em nhé?”, anh ấy hỏi.
Và cứ thế, tôi tựa vào anh, cảm nhận mọi thứ đang trở nên sáng tỏ.
(1) Khủng long Barney: nhân vật trong loạt phim truyền hình dành cho thiếu nhi Barney & Friends (Barney & Những người bạn) của Mỹ.
(2) Les Misérables: tên tiếng Việt là Những người cùng khổ.