N
GAY KHI TÔI CHO PHÉP BẢN THÂN CÓ TÌNH CẢM VỚI BARACK, cảm xúc trong tôi liền trào dâng. Đó là một luồng cảm xúc mạnh mẽ của sự khao khát, lòng biết ơn, sự thỏa mãn và cảm giác diệu kỳ. Nụ hôn đầu tiên đó đã thổi bay bất kỳ nỗi lo lắng nào mà tôi đang có về cuộc sống, sự nghiệp của mình và thậm chí về bản thân Barack, thay vào đó là sự thôi thúc muốn hiểu rõ anh hơn, muốn khám phá và trải nghiệm mọi thứ về anh trong thời gian ngắn nhất có thể.
Có lẽ vì biết một tháng nữa là đến hạn anh phải quay lại Harvard, nên chúng tôi luôn tận dụng thời gian để được gần gũi bên nhau. Vì chưa sẵn sàng để bạn trai mình ngủ cùng mái nhà với cha mẹ, tôi bắt đầu qua đêm tại căn hộ của Barack, một căn hộ ọp ẹp nằm trên tầng hai không-có-thang-máy của một cửa hàng mặt tiền trong khu vực náo nhiệt trên Đường 53. Anh thuê lại căn phòng này từ một sinh viên luật Đại học Chicago đang đi nghỉ hè, và anh chàng này trang trí phòng mình như bất cứ sinh viên giỏi nào sẽ làm, tức là bằng mấy món đồ không ăn rơ gì với nhau từ những lần “đào” được ở các sự kiện bán hàng đã qua sử dụng. Tôi nhớ ở đó có một cái bàn nhỏ, đôi ba cái ghế xiêu vẹo và một tấm thảm cỡ lớn trên sàn. Mấy chồng sách báo của Barack phủ kín các mặt bàn mặt ghế và phần lớn mặt sàn. Anh treo mấy chiếc áo vét trên các lưng ghế trong bếp và không trữ nhiều đồ ăn trong tủ lạnh. Căn hộ không có cảm giác gì gọi là nhà, nhưng dưới lăng kính tình yêu đang nảy nở nhanh chóng của chúng tôi thì nó tựa như mái ấm.
Barack kích thích sự tò mò của tôi. Anh không hề giống bất cứ người nào tôi từng hẹn hò trước đó, chủ yếu vì anh có vẻ vô cùng vững vàng. Anh bày tỏ tình cảm không chút ngượng ngùng. Anh nói với tôi rằng tôi xinh đẹp. Anh khiến tôi cảm thấy dễ chịu. Đối với tôi, anh giống một con kỳ lân - khác thường đến mức dường như không có thật. Anh không bao giờ nói về những thứ vật chất như mua nhà, mua xe, hay thậm chí là mua giày mới. Anh gần như đổ hết tiền của mình vào sách. Đối với anh, sách là những món đồ thiêng liêng, là căn cơ của tâm trí anh. Thường thì sau khi tôi đi ngủ, anh vẫn đọc sách đến tận khuya, chăm chú tìm hiểu về lịch sử, tiểu sử nhân vật, và anh còn đọc cả Toni Morrison(1). Mỗi ngày anh đọc vài tờ báo, ngốn từ trang đầu tới trang cuối. Anh theo dõi những bài điểm sách mới nhất, cập nhật thứ hạng của các đội trong giải đấu bóng chày American League, và quan sát xem hội đồng South Side đang làm gì. Tương tự, anh ấy có thể hăng say nói về cuộc bầu cử tại Ba Lan và những bộ phim nào bị Roger Ebert(2) chê lên bờ xuống ruộng và tại sao lại như vậy.
Vì phòng không có máy điều hòa nhiệt độ nên chúng tôi không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải mở cửa sổ vào ban đêm khi ngủ để xoa dịu cái nóng ngột ngạt. Chúng tôi hy sinh sự yên tĩnh để đổi lấy sự thoải mái. Vào những ngày đó, Đường 53 là tuyến đường “hoạt động về đêm” của các tay độ xe Lowrider(3) với ống pô không gắn ống giảm thanh. Dường như cứ mỗi giờ đồng hồ lại có tiếng còi xe cảnh sát hụ lên bên ngoài cửa sổ, hay tiếng ai đó bắt đầu la hét, xả cả một tràng tức tối và tuôn ra những lời lẽ tục tĩu khiến tôi giật mình tỉnh giấc. Trong khi tôi cảm thấy không yên, Barack lại thấy mọi chuyện thật bình thường. Tôi đã nhận ra là anh ấy quen thuộc với sự lộn xộn hơn tôi, anh cũng sẵn sàng đón nhận tất cả mà không cảm thấy khó chịu. Một đêm nọ, tôi thức giấc và thấy anh đang nhìn chằm chằm lên trần nhà, ánh đèn đường hắt vào từ bên ngoài và chiếu sáng khuôn mặt nhìn nghiêng của anh. Anh có vẻ đăm chiêu, như thể đang cân nhắc một chuyện gì đó rất riêng tư. Có phải anh đang nghĩ về quan hệ của chúng tôi? Hay là về sự ra đi của cha anh?
“Này, anh đang nghĩ gì vậy?”, tôi hỏi nhỏ.
Anh xoay sang nhìn tôi và cười có chút ngượng ngùng. “À, anh chỉ đang nghĩ về sự bất bình đẳng trong thu nhập.”
Tôi đã biết đây là kiểu tư duy của Barack. Anh ấy thường bị ám ảnh với những vấn đề to lớn và trừu tượng, vì anh có một cảm giác điên rồ là có thể mình có khả năng tạo ra sự thay đổi nào đó để giải quyết chúng. Tôi phải thừa nhận là điều này hoàn toàn mới mẻ đối với tôi. Cho tới thời điểm này, những người mà tôi quen biết đều rất tử tế và quan tâm đến những chuyện không kém phần quan trọng, nhưng họ tập trung chủ yếu vào việc gầy dựng sự nghiệp và chu cấp cho gia đình. Barack chỉ đơn giản là không giống họ. Anh lưu tâm những nhu cầu hàng ngày trong cuộc sống, nhưng đồng thời anh cũng để suy nghĩ của mình lang thang trong một vùng trời rộng lớn hơn rất nhiều, đặc biệt là khi đêm về.
Đương nhiên phần lớn thời gian của chúng tôi đều được dành cho công việc tại những văn phòng tĩnh lặng và xa hoa của Sidley & Austin, nơi mỗi buổi sáng tôi giũ bỏ mọi mơ mộng và gò bản thân vào cuộc sống của một luật sư cấp trung. Ở đó tôi sẽ rất có trách nhiệm quay lại với các chồng tài liệu và những yêu cầu của các khách hàng tập đoàn mà tôi chưa gặp bao giờ. Trong khi đó, Barack xử lý các bộ hồ sơ của anh trong một văn phòng chung ở cuối sảnh và ngày càng nhận được sự quan tâm ưu ái của những luật sư cấp cao, những người vô cùng ấn tượng với anh.
Vì vẫn bận tâm chuyện khuôn phép nên tôi kiên quyết giữ tình yêu đang nảy nở của chúng tôi nằm ngoài tầm mắt của đồng nghiệp, nhưng hơi khó. Trợ lý Lorraine của tôi thường nhìn Barack cười ý nhị mỗi khi anh xuất hiện ở văn phòng tôi. Thậm chí chúng tôi còn bị lộ tẩy ngay đêm đầu tiên chính thức hẹn hò với nhau như một cặp, chuyện xảy ra không bao lâu sau nụ hôn đầu tiên của chúng tôi. Đêm đó Barack và tôi cùng đến Viện Nghệ thuật, sau đó cả hai đi xem bộ phim Do the Right Thing của đạo diễn Spike Lee ở Water Tower Place, nơi chúng tôi đang xếp hàng mua bắp rang thì chạm mặt một trong những luật sư cấp cao nhất của công ty, Newt Minow, và vợ ông, Josephine. Họ chào hỏi chúng tôi nhiệt tình, thậm chí là còn có vẻ tán đồng, và chẳng bình luận gì về chuyện chúng tôi bên nhau, như thể đó là chuyện ai-cũng-biết-rồi vậy. Dù sao thì đó cũng là một bước tiến trong mối quan hệ của chúng tôi.
Trong giai đoạn này, công việc giống như một mối phân tâm, là thứ chúng tôi buộc phải làm trước khi được quay về bên nhau. Mỗi khi không phải vào văn phòng, chúng tôi tranh thủ chuyện trò không ngớt trong lúc tản bộ quanh công viên Hyde trong trang phục quần ngắn và áo thun, và trong những bữa ăn có vẻ ngắn ngủi với cả hai nhưng kỳ thực kéo dài đến nhiều giờ liền. Chúng tôi tranh luận về từng album mà Stevie Wonder(4) phát hành, và cả các bài hát của Marvin Gaye(5). Tôi yêu say đắm. Tôi yêu giọng nói có độ rền nhẹ của anh và cách ánh mắt anh trở nên nhu hòa khi tôi kể một câu chuyện cười. Tôi bắt đầu trân trọng sự ung dung không lo nghĩ về thời gian của anh ấy.
Mỗi ngày mang tới những khám phá nho nhỏ: tôi là fan của đội Cubs, còn anh ấy thích White Sox. Tôi thích mì ống sốt phô mai, anh ấy thì không chịu nổi món này. Anh thích những bộ phim u ám và kịch tính, còn tôi chỉ thích xem phim tình cảm hài. Anh thuận tay trái với nét chữ viết tay không chê vào đâu được, tôi lại cứ nguệch ngoạc bằng tay phải. Trước khi anh về lại Cambridge, chúng tôi dành cả tháng đó để chia sẻ mọi ký ức và những suy nghĩ bất chợt của nhau, kể cho nhau nghe những trò rồ dại hồi bé, những sai lầm tuổi vị thành niên và cả những mối tình dang dở thuở ban đầu đã đưa chúng tôi đến với nhau. Barack đặc biệt tò mò với cách tôi được nuôi dạy, với cuộc sống ổn định từ năm này sang năm khác, từ thập kỷ này sang thập kỷ khác của tôi trên Đại lộ Euclid, nơi tôi, anh Craig và cha mẹ tôi tạo thành bốn góc của một hình vuông vững chãi. Hồi còn làm nhà tổ chức sinh hoạt cộng đồng, Barack đã dành rất nhiều thời gian ở nhà thờ, điều này khiến anh có sự tôn trọng dành cho tôn giáo có tổ chức, nhưng đồng thời anh vẫn không phải là người quá tuân theo truyền thống. Ngay từ đầu anh đã nói với tôi rằng hôn nhân đối với anh là một quy tắc không cần thiết và bị tôn vinh quá mức.
Tôi không nhớ mình có giới thiệu Barack với gia đình vào mùa hè năm đó hay không, dù anh Craig khẳng định là có. Anh ấy kể là một tối nọ hai đứa chúng tôi đã rảo bước về nhà trên Đại lộ Euclid, còn anh ấy thì về thăm nhà và đang ngồi ngoài hiên trò chuyện với cha mẹ. Anh ấy nhớ là Barack thân thiện, tự tin, và họ đã có vài phút trò chuyện vui vẻ với nhau trước khi hai chúng tôi chạy lên căn hộ trên lầu của tôi để lấy món đồ gì đó.
Cha tôi thích Barack ngay tức khắc, nhưng vẫn không nghĩ anh có khả năng “trụ” lại được. Dù sao thì ông là người đã chứng kiến tôi chia tay anh bạn trai trung học David trước cổng trường Princeton. Ông cũng thấy tôi “đá” chàng cầu thủ bóng đá Kevin hồi đại học ngay khi tôi thấy anh mặc bộ trang phục linh vật. Cha mẹ tôi biết tốt hơn hết là đừng quá trói buộc. Họ dạy tôi làm chủ cuộc đời mình, và đó chính là những gì tôi đã làm. Rất nhiều lần tôi đã nói với cha mẹ là tôi quá tập trung và quá bận rộn đến mức không có thời gian cho bất kỳ người đàn ông nào.
Theo lời anh Craig, cha tôi đã lắc đầu và cười ra tiếng khi nhìn tôi và Barack rời đi.
“Một chàng trai tử tế”, ông nói. “Thật tệ vì nó sẽ không trụ lại được.”
NẾU GIA ĐÌNH TÔI là một hình vuông thì gia đình của Barack là một dạng hình học phức tạp hơn nhiều và trải qua nhiều đại dương. Anh đã mất nhiều năm để lần ra các cạnh của hình khối này. Năm 1960, mẹ anh, bà Ann Dunham, là một cô sinh viên mười bảy tuổi tại Hawaii đem lòng yêu chàng sinh viên người Kenya tên Barack Obama. Cuộc hôn nhân của họ ngắn ngủi và khó lý giải - đặc biệt là khi người chồng mới cưới của bà hóa ra đã có một người vợ ở Nairobi. Sau khi ly hôn, bà Ann tái hôn với một nhà địa chất học người Java tên Lolo Soetoro và chuyển đến Jakarta sinh sống, mang theo cậu bé Barack Obama - anh Barack Obama của tôi - khi ấy chỉ mới sáu tuổi.
Theo lời Barack thì anh rất hạnh phúc khi sống ở Indonesia và rất hợp với cha dượng của mình, nhưng mẹ của anh thì bận tâm về chất lượng giáo dục ở đó. Năm 1971, bà Ann Dunham gửi con trai về Oahu để học trường tư và sống cùng ông bà ngoại. Bà Ann là con người yêu tự do và sẵn sàng đi đi lại lại giữa Hawaii và Indonesia suốt nhiều năm trời. Cha ruột của anh - một người có đầu óc mạnh mẽ và chứng nghiện rượu cũng mạnh không kém - vẫn luôn vắng mặt và không thực hiện trách nhiệm của người làm cha. Ông chỉ ghé Hawaii thăm con một lần vào năm Barack mười tuổi.
Thế nhưng Barack vẫn được thương yêu hết mực. Ông bà ngoại anh ở Oahu hết lòng chăm sóc anh và cô em gái Maya cùng mẹ khác cha của anh. Mẹ của anh dù sống tại Jakarta nhưng vẫn quan tâm và hỗ trợ anh từ xa. Barack cũng thường kể về người chị gái Auma cùng cha khác mẹ của mình ở Nairobi. Anh trưởng thành trong hoàn cảnh kém ổn định hơn tôi rất nhiều, nhưng anh chẳng hề kêu ca. Câu chuyện của anh là của riêng anh. Cuộc sống gia đình đã dạy anh tự lực cánh sinh và luôn lạc quan một cách đáng ngạc nhiên. Dường như việc anh đã lèo lái cuộc đời mình thành công đến vậy giữa tuổi thơ bất thường đó chỉ càng khẳng định thêm rằng anh sẵn sàng gánh vác nhiều trọng trách to lớn hơn nữa.
Một buổi tối ẩm ướt nọ, tôi đi theo anh giúp một người bạn cũ của anh. Một đồng nghiệp cũ bên công ty tổ chức sự kiện cộng đồng hỏi xem anh có thể đứng ra thực hiện một buổi tập huấn tại một giáo xứ dành cho người da đen ở khu Roseland vùng Far South Side hay không. Đó là khu vực đã xuống dốc thảm hại khi các nhà máy thép đóng cửa vào giữa thập niên 1980. Đối với Barack, đó là cơ hội đáng hoan nghênh để anh có được một ít thời gian trở về với công việc anh từng làm và với nơi mà anh từng hoạt động ở Chicago. Khi cả hai chúng tôi bước vào nhà thờ trong trang phục công sở, tôi chợt nhận ra mình chưa từng nghiêm túc nghĩ xem một nhà tổ chức sự kiện cộng đồng thật sự làm những gì. Chúng tôi men theo cầu thang xuống một căn hầm có trần thấp và được thắp sáng bằng bóng đèn huỳnh quang. Ở đó đang có khoảng mười lăm giáo dân, mà theo tôi nhớ thì chủ yếu là phụ nữ, họ đang ngồi trên những chiếc ghế xếp và tự quạt cho mình để xua đi cái nóng trong một căn phòng mà ban ngày có vẻ là nhà giữ trẻ. Tôi ngồi xuống một chiếc ghế ở hàng cuối trong lúc Barack bước lên và chào hỏi mọi người.
Hẳn là trong mắt họ anh ấy có vẻ khá trẻ và ra dáng luật sư. Tôi có thể thấy họ đang nhìn anh đầy dò xét, cố gắng xác định xem anh có phải là một kẻ ngoài cuộc cao ngạo hay thật sự có thể mang đến cho họ một điều gì đó giá trị. Bầu không khí đó rất quen thuộc với tôi. Thuở bé tôi vẫn thường tham gia những buổi dạy operetta hàng tuần của bà Robbie tại một nhà thờ Tin Lành Giám lý Phi châu không khác với nơi này. Những phụ nữ trong căn phòng này không có gì khác với những quý bà trong dàn hợp xướng của bà Robbie hoặc những người xuất hiện với món thịt đút lò khi ông Southside qua đời. Họ là những phụ nữ có thiện ý và quan tâm đến cộng đồng, họ thường là các bà mẹ đơn thân hoặc những người bà trong gia đình, kiểu người chắc chắn sẽ ra tay hỗ trợ khi không có ai khác tình nguyện giúp đỡ.
Barack máng áo vét của mình lên lưng ghế và tháo đồng hồ đeo tay rồi đặt nó trên chiếc bàn trước mặt để theo dõi thời gian. Sau khi tự giới thiệu, anh khuyến khích mọi người chia sẻ câu chuyện của họ và cho anh biết những điều khiến họ bận tâm về đời sống ở khu vực này. Đó là một cuộc đối thoại kéo dài khoảng một giờ đồng hồ. Barack cũng chia sẻ câu chuyện của bản thân, gắn nó vào các nguyên lý của công tác cộng đồng. Anh đến đó để thuyết phục họ rằng câu chuyện là thứ gắn kết chúng ta với nhau, và qua những mối gắn kết đó, chúng ta có thể kiểm soát và biến sự bất mãn của mình thành một điều gì đó có ích. Anh nói rằng kể cả họ - một nhóm nhỏ trong một nhà thờ nhỏ tại một khu vực có vẻ đã bị lãng quên - cũng có thể xây dựng được nguồn sức mạnh chính trị đích thực. Nhưng anh cũng thận trọng nói thêm rằng đó là quá trình đòi hỏi nhiều nỗ lực. Bạn phải vạch ra chiến thuật, lắng nghe những người hàng xóm và vun đắp niềm tin ở các cộng đồng thường thiếu vắng niềm tin. Quá trình đó cũng có nghĩa là bạn phải đề nghị những người xa lạ dành cho bạn một chút thời gian hoặc một phần rất nhỏ trong thu nhập của họ. Nó bao gồm cả việc bị từ chối bằng hàng chục hay hàng trăm cách khác nhau, rồi mới nghe được câu “đồng ý” có thể tạo ra mọi sự khác biệt. (Có vẻ đây là nhiệm vụ chính của nhà tổ chức sự kiện cộng đồng.) Nhưng anh bảo đảm với họ là họ có thể tạo ra ảnh hưởng. Họ có thể tạo ra sự thay đổi. Dù không phải lúc nào quá trình này cũng suôn sẻ, nhưng anh đã chứng kiến hiệu quả của nó trong dự án nhà tập thể Altgeld Gardens, nơi một nhóm nhỏ như nhóm đang ngồi ở đây đã tìm được cách đăng ký tư cách cử tri mới, vận động cư dân gặp gỡ nhà chức trách để nói về tình trạng ô nhiễm a-mi-ăng và thuyết phục văn phòng thị trưởng tài trợ xây dựng một trung tâm đào tạo nghề trong khu vực.
Người phụ nữ đậm người ngồi cạnh tôi đang nhịp chân để dỗ đứa bé ngồi trên đùi, và chị không hề che giấu sự nghi ngờ của mình. Chị trề môi và ngẩng cằm dò xét Barack, như thể muốn nói, Anh là ai mà khuyên bảo chúng tôi phải làm gì?
Nhưng sự hoài nghi không khiến anh phiền lòng, cũng như việc xác suất thành công thấp không khiến anh bận tâm. Suy cho cùng thì Barack chính là một chú kỳ lân - anh có cái tên khác thường, thừa hưởng những di sản kỳ lạ, mang trong mình dòng máu sắc tộc khó phân định, anh còn có người cha không bao giờ xuất hiện và một bộ óc độc nhất vô nhị. Anh đã quen với việc phải chứng tỏ bản thân gần như ở bất cứ nơi nào anh đặt chân tới.
Ý tưởng mà anh ấy đang trình bày không phải là một ý tưởng dễ tiếp nhận, và nó cũng không nhất thiết phải dễ tiếp nhận. Roseland đã gánh chịu hết tổn thất này đến tổn thất khác, từ cuộc di tản của các gia đình da trắng và sự phá sản của ngành công nghiệp thép đến sự suy tàn của các ngôi trường địa phương cũng như sự sinh sôi của nạn buôn bán ma túy. Barack kể với tôi rằng với vai trò là một nhà tổ chức sự kiện cộng đồng ở khu vực thành thị, anh phải đấu tranh thường xuyên nhất với sự mỏi mệt rã rời ở con người, đặc biệt là người da đen. Đó là sự hoài nghi yếm thế tích tụ từ hàng ngàn thất vọng nhỏ trong suốt một thời gian dài. Tôi hiểu điều đó. Tôi đã chứng kiến điều đó trong khu phố nhà mình, trong chính gia đình mình. Một nỗi đắng cay, một lỗ hổng trong niềm tin. Nó cư ngự trong ông nội và ông ngoại của tôi, nó nảy sinh từ mọi mục tiêu mà họ phải từ bỏ và mọi thỏa hiệp họ buộc phải lựa chọn. Nó xuất hiện trong cô giáo lớp hai khốn khổ vốn đã không còn muốn nỗ lực dạy dỗ chúng tôi ở trường Bryn Mawr. Nó tồn tại bên trong bà hàng xóm đã ngưng dọn cỏ và chẳng buồn bận tâm con mình đi đâu sau giờ học. Nó hiện diện trong từng mẩu rác bị người ta vô tâm vứt trên bãi cỏ công viên gần nhà chúng tôi và trong mỗi can rượu mạch nha được uống cạn khi trời còn chưa tối. Nó nằm trong mọi điều mà chúng ta cho rằng không thể cứu vãn, bao gồm cả bản thân chúng ta.
Barack không “lên lớp” những cư dân vùng Roseland, nhưng anh cũng chẳng cố gắng lấy lòng họ bằng cách che giấu đặc quyền của mình và cư xử cho giống với “người da đen” hơn. Khi họ đang sợ hãi chán chường, bị tước quyền công dân và bơ vơ bất lực, Barack đã táo bạo xoay chiều mũi tên sang hướng ngược lại - về hướng của hy vọng.
Tôi không phải là người cứ nhai đi nhai lại những mặt tiêu cực khi là một người Mỹ gốc Phi. Tôi được dạy dỗ phải suy nghĩ tích cực. Tôi lớn lên trong tình yêu của gia đình và với quyết tâm của cha mẹ trong việc nhìn thấy chúng tôi thành đạt. Tôi đã đứng cùng Santita Jackson giữa các cuộc tuần hành của Operation PUSH, lắng nghe cha cô kêu gọi người da đen hãy nhớ sự kiêu hãnh của mình. Mục đích của tôi luôn là phải vượt ra khỏi khu tôi sống - phải nhìn về phía trước và vượt qua. Và tôi đã làm được. Tôi nỗ lực lấy cho mình hai tấm bằng của Ivy League. Tôi có một chỗ trong văn phòng Sidley & Austin. Tôi đã khiến ông bà và cha mẹ tự hào. Nhưng khi lắng nghe Barack, tôi bắt đầu hiểu rằng niềm hy vọng trong anh vượt xa hơn rất nhiều so với phiên bản của tôi. Tôi nhận ra việc đưa bản thân thoát khỏi nơi bế tắc là một chuyện, cố gắng và giúp nơi đó không còn bế tắc nữa lại là một chuyện hoàn toàn khác.
Tôi lại đắm chìm trong cảm giác anh ấy thật đặc biệt. Dần dần, những nữ giáo dân xung quanh tôi cũng bắt đầu gật đầu đồng tình, bật lên những câu như “Ừ nhỉ” và “Đúng vậy!”.
Giọng của anh trở nên mạnh mẽ hơn khi gần kết thúc bài diễn thuyết. Anh không phải là người thuyết giáo, nhưng chắc chắn anh đang thuyết giảng một thứ: tầm nhìn. Theo nhìn nhận của anh, lựa chọn là thế này: hoặc bạn từ bỏ, hoặc bạn nỗ lực tạo ra thay đổi. “Điều gì tốt hơn cho chúng ta?”, Barack kêu gọi mọi người trong phòng. “Chúng ta chấp nhận thế giới như hiện có, hay chúng ta ra sức tạo nên một thế giới mà chúng ta nên có?”
Đó là một câu mượn từ quyển sách anh đã đọc khi mới làm nhà tổ chức sự kiện cộng đồng, và câu nói đó sẽ còn theo tôi suốt nhiều năm. Câu nói đó thể hiện được rõ nhất điều mà tôi hiểu là động lực của Barack. Một thế giới mà chúng ta nên có.
Người phụ nữ đang bế đứa trẻ bên cạnh tôi lúc này đã không thể kìm lòng. “Đúng thế!”, chị hét lớn. Chị đã hoàn toàn bị thuyết phục. “Amen!”
Amen, tôi tự nhủ. Bởi vì tôi cũng bị anh thuyết phục.
VÀO KHOẢNG GIỮA THÁNG TÁM, trước khi quay về trường luật, Barack thổ lộ là anh yêu tôi. Tình cảm giữa hai chúng tôi nảy nở nhanh chóng và tự nhiên đến độ bản thân khoảnh khắc đó không có gì đặc biệt đáng nhớ. Tôi không nhớ chính xác chuyện đã xảy ra khi nào và như thế nào. Đó chỉ là lời thể hiện dịu dàng và đầy ý nghĩa của một điều mà cả hai chúng tôi đều ngỡ ngàng khi nhận ra. Dù chỉ mới quen nhau đôi ba tháng, dù có vẻ gì đó không thực tế, nhưng chúng tôi đã yêu nhau.
Nhưng lúc này chúng tôi phải ứng phó với khoảng cách gần một ngàn năm trăm cây số chia cắt cả hai. Barack còn học hai năm nữa, và anh nói rằng sau khi tốt nghiệp, anh hy vọng sẽ an cư tại Chicago. Tôi không có ý định rời bỏ cuộc sống của mình tại Chicago trong thời gian này. Vẫn là một luật sư cấp trung non trẻ ở Sidley, tôi biết giai đoạn tiếp theo trong sự nghiệp của mình là cực kỳ quan trọng - thành tích của tôi sẽ quyết định tôi có thể trở thành luật sư cấp cao có cổ phần trong công ty hay không. Vì cũng từng học trường luật nên tôi cũng biết rõ Barack sẽ bận rộn đến mức nào. Anh được chọn làm biên tập viên cho tờ Harvard Law Review, một nguyệt san do sinh viên của trường tổ chức thực hiện và được xem là một trong những ấn bản về luật hàng đầu nước Mỹ. Được chọn vào đội ngũ biên tập là cả một vinh dự, nhưng điều đó cũng như thêm một công việc toàn thời gian vào thời khóa biểu vốn đã nặng nề của một sinh viên luật.
Vậy chúng tôi phải làm sao đây? Chúng tôi đành chọn điện thoại. Hãy nhớ bấy giờ là năm 1989, khi không phải lúc nào trong túi quần cũng sẵn một cái điện thoại cầm tay tiện dụng như bây giờ. Tin nhắn chưa tồn tại; không có emoji(6) nào để thay cho một nụ hôn. Điện thoại đòi hỏi cả hai chúng tôi phải dành thời gian lẫn sự sẵn sàng cho nhau. Những cuộc gọi riêng tư thường diễn ra ở nhà, vào ban đêm, khi chúng tôi đã mệt lả và cần đi ngủ.
Trước khi đi, Barack nói là anh ấy thích viết thư tay hơn.
“Anh không phải kiểu người thích nói chuyện qua điện thoại”, anh ấy nói vậy, như thể mọi chuyện đã được quyết định xong. Nhưng không. Chúng tôi đã trò chuyện với nhau cả mùa hè vừa qua. Tôi sẽ không giao phó tình yêu của chúng tôi cho tốc độ “rùa bò” của bưu điện. Lại thêm một điểm khác biệt nhỏ khác giữa hai chúng tôi: Barack có thể trải lòng mình qua ngòi bút. Anh lớn lên giữa những bức thư, hấp thu thứ dưỡng chất đến từ những phong thư mỏng manh được vận chuyển bằng đường hàng không do mẹ anh gửi sang từ Indonesia. Trong khi đó, tôi là kiểu người thích nói chuyện trực tiếp, người được nuôi lớn trong những bữa tối Chủ nhật ở nhà ông Southside, nơi mà đôi lúc bạn cần phải hét lên thì mọi người mới nghe thấy.
Gia đình tôi thích chuyện trò. Cha tôi mới vừa bán chiếc xe của ông để mua một chiếc xe tải đặc dụng phù hợp hơn với tình trạng khuyết tật của ông, và ông vẫn thường xuyên đến thăm các anh chị em họ của mình. Bạn bè, xóm giềng và các anh chị em họ của anh chị em họ vẫn đều đều xuất hiện ở Đại lộ Euclid và cắm rễ trong phòng khách nhà tôi để nghe ông kể chuyện và hỏi xin lời khuyên. Thậm chí David, anh bạn trai cũ của tôi hồi trung học, đôi khi cũng ghé vào để nhờ ông tư vấn. Cha tôi cũng không có vấn đề gì với điện thoại. Suốt nhiều năm, tôi đã chứng kiến ông gọi cho bà nội tôi ở South Carolina gần như mỗi ngày để thăm hỏi.
Tôi thông báo với Barack rằng nếu muốn mối quan hệ giữa hai chúng tôi tiến triển tốt đẹp, tốt hơn hết anh ấy nên thoải mái với việc sử dụng điện thoại. “Nếu em không nói chuyện được với anh thì chắc là em phải tìm một anh chàng khác có thể lắng nghe”, tôi đùa một chút.
Và thế là Barack trở thành anh chàng sử dụng điện thoại. Suốt mùa thu năm đó, chúng tôi nói chuyện với nhau thường xuyên nhất có thể. Cả hai đều bận rộn với thế giới riêng và thời gian biểu riêng của mình, nhưng vẫn chia sẻ với nhau những chi tiết nhỏ hàng ngày, cùng cảm thán về đống tài liệu về thuế doanh nghiệp mà anh ấy phải đọc, hay cùng nhau cười lớn về việc tôi bắt đầu tập trút bỏ những bức bối ở văn phòng vào những bài aerobic sau giờ làm. Nhiều tháng trôi qua, cảm xúc giữa chúng tôi ổn định và đáng tin cậy. Với tôi, tình cảm này đã trở thành một điều mà tôi không còn cần phải thắc mắc nữa.
Ở Sidley & Austin, tôi là một thành viên thuộc nhóm tuyển dụng cho văn phòng Chicago, nhận nhiệm vụ phỏng vấn các sinh viên Trường Luật Harvard cho chương trình thực tập mùa hè. Cơ bản thì đó là một quá trình chiêu mộ. Bản thân tôi cũng từng là sinh viên, từng trải nghiệm sức mạnh và sự cám dỗ của tổ hợp công nghiệp ngành luật doanh nghiệp, được trao cho một tập hồ sơ bìa cứng dày như từ điển liệt kê tất cả các hãng luật trên khắp nước Mỹ và được bảo rằng từng công ty trong đó đều muốn tuyển các luật sư tốt nghiệp Harvard. Dường như với giấy thông hành là tấm bằng Tiến sĩ Luật Harvard, bạn có một cơ hội làm việc tại bất kỳ thành phố nào, trong bất cứ lĩnh vực pháp lý nào, dù đó là một công ty tố tụng khổng lồ ở Dallas hay một văn phòng tư vấn pháp lý bất động sản nhỏ ở New York. Nếu bạn muốn tìm hiểu một công ty nào trong số đó, bạn đề nghị họ đến trường phỏng vấn. Nếu cuộc phỏng vấn đó suôn sẻ, bạn sẽ nhận được một chuyến “đi thực tế”, bao gồm một vé máy bay, một phòng khách sạn năm sao, một vòng phỏng vấn khác tại văn phòng của công ty, và cuối cùng là một bữa chiêu đãi hoành tráng với những nhà tuyển dụng giống như tôi. Khi còn học Harvard, tôi đã tận dụng các chuyến đi này để đến San Francisco và Los Angeles, một phần là để tìm hiểu các hoạt động của luật giải trí, nhưng thành thật mà nói thì cũng vì tôi chưa từng đến California.
Giờ đây, khi tôi đã làm việc tại Sidley và trải nghiệm vai trò một nhà tuyển dụng, mục tiêu của tôi là tuyển vào những sinh viên luật không chỉ thông minh và có quyết tâm cầu tiến, mà còn không bị giới hạn bởi tiêu chí “nam giới” và “da trắng”. Trong đội ngũ tuyển dụng có duy nhất một phụ nữ gốc Phi khác, đó là một luật sư thâm niên tên Mercedes Laing. Mercedes hơn tôi khoảng mười tuổi và chị là một người bạn thân kiêm người dẫn dắt tôi. Cũng giống tôi, chị có hai tấm bằng của Ivy League và thường xuyên tham dự những sự kiện mà trong đó không có ai giống mình. Chúng tôi đồng ý với nhau rằng khó khăn nằm ở chỗ không chấp nhận chuyện đó hoặc xem chuyện đó là lệ thường. Trong những cuộc họp về tuyển dụng, tôi luôn cương quyết - và tôi chắc chắn một số người còn nghĩ là tôi trâng tráo - tranh luận rằng hãng luật cần mở rộng phạm vi hơn khi tìm kiếm các tài năng trẻ. Cách thức bấy lâu của công ty là tiếp cận sinh viên của một nhóm trường luật đã chọn lọc, chủ yếu bao gồm trường Harvard, Stanford, Yale, Northwestern, Đại học Chicago và Đại học Illinois - những nơi mà hầu hết các luật sư hiện tại của công ty đã tốt nghiệp. Đó là một quá trình khép kín: một thế hệ luật sư tuyển dụng những luật sư mới, những người có trải nghiệm sống hệt như họ, và do đó sự đa dạng trong công ty gần như bằng không. Công bằng mà nói thì đây không phải là vấn đề của riêng Sidley, mà là vấn đề ở hầu hết mọi hãng luật lớn trên nước Mỹ (dù có được nhìn nhận hay không). Một khảo sát trên tập san National Law vào thời điểm đó cho thấy tại các hãng luật lớn, người Mỹ gốc Phi chiếm không tới 3% tổng số luật sư cấp trung và chưa tới 1% tổng số luật sư cấp cao có cổ phần trong công ty.
Để giúp khắc phục sự thiếu cân bằng này, tôi đề nghị công ty cân nhắc việc tuyển các sinh viên luật đến từ các trường cấp tiểu bang khác và từ những trường đại học từ xưa đến nay chỉ có người da đen theo học như Đại học Howard. Khi đội ngũ tuyển dụng tập trung tại phòng họp ở Chicago với một chồng sơ yếu lý lịch sinh viên cần xem xét, tôi lên tiếng phản đối mỗi khi một sinh viên nào đó tự động bị từ chối vì có một điểm B trên bảng điểm hay vì đã theo học chương trình cử nhân ở một trường kém danh tiếng hơn. Tôi nhấn mạnh rằng nếu công ty nghiêm túc trong việc tuyển dụng những luật sư thuộc nhóm thiểu số thì phải nhìn nhận các ứng viên một cách tổng thể hơn. Cần xem xét việc những ứng viên đó đã tận dụng mọi cơ hội mà họ có được trong đời như thế nào, chứ không phải chỉ đánh giá xem họ đã leo được đến đâu trên nấc thang học vấn của tầng lớp tinh hoa. Mục đích không phải là hạ thấp tiêu chuẩn cao của công ty, mà phải nhận thức được rằng nếu cứ tiếp tục đánh giá tiềm năng của các luật sư trẻ một cách cứng nhắc và thủ cựu thì công ty sẽ bỏ sót những người có thể đóng góp vào thành công chung. Nói cách khác, chúng ta cần phải phỏng vấn nhiều sinh viên hơn trước khi loại họ.
Vì lẽ này nên tôi thích đến Cambridge để tham gia tuyển dụng, vì việc đó giúp tôi có ảnh hưởng ít nhiều đến việc tuyển chọn sinh viên Harvard dự phỏng vấn. Dĩ nhiên, những chuyến đi này cũng cho tôi cái cớ để gặp Barack. Khi tôi đến đó lần đầu tiên, anh lái xe đến đón tôi. Đó là một chiếc Datsun mũi hếch màu vàng chuối đã qua sử dụng mà anh đã mua lại bằng khoản tín dụng sinh viên của mình. Khi anh vặn chìa khóa xe, động cơ xe rồ lên và chiếc xe giật một cái thật mạnh trước khi rung lắc đều đều giữa tiếng động cơ ồn ào, khiến chúng tôi lắc lư trên ghế ngồi. Tôi nhìn Barack với vẻ không thể tin nổi.
“Anh lái cái thứ này sao?”, tôi lớn giọng để át tiếng ồn của động cơ.
Anh nhá cho tôi một nụ cười tinh quái, nụ cười mang hàm ý “chuyện-này-đã-có-anh-lo” luôn khiến tôi tan chảy. “Chịu khó chờ thêm một hai phút thôi, rồi nó sẽ ổn”, anh nói và vào số. Vài phút sau, khi đã lái vào một con đường đông đúc, anh nói thêm, “Với lại, chắc là em đừng nhìn xuống”.
Tôi đã phát hiện thứ mà anh không muốn tôi thấy - một cái lỗ gỉ sét rộng khoảng mười xăng-ti-mét trên sàn xe, nhìn qua cái lỗ đó tôi có thể nhìn thấy lòng đường đang vụt qua bên dưới.
Sống cùng Barack chẳng bao giờ nhàm chán. Kể cả từ lúc ấy tôi đã biết như vậy. Đó sẽ là một cuộc sống màu vàng chuối và có hơi dựng tóc gáy đôi chút. Đồng thời tôi cũng chợt nhận ra là có thể người đàn ông này sẽ không bao giờ làm ra tiền.
Anh sống tại căn hộ một phòng ngủ đơn sơ ở Somerville, nhưng khi tôi đến để thực hiện công tác tuyển dụng, Sidley sắp xếp cho tôi ở tại Khách sạn Charles sang trọng sát bên trường đại học, nơi chúng tôi ngủ trên ga giường chất lượng cao trơn mát. Và Barack, người vốn không nấu nướng gì, có thể ăn no căng bữa sáng nóng sốt ở khách sạn trước khi vào lớp buổi sáng. Buổi tối anh sẽ đến phòng của tôi và làm bài tập, trên người là chiếc áo choàng vải bông xù dày cộp rộng thùng thình của khách sạn.
Mùa Giáng sinh năm đó chúng tôi cùng bay đến Honolulu. Tôi chưa bao giờ đến Hawaii nhưng tôi khá chắc là mình sẽ thích nơi này. Dù gì tôi cũng xuất thân từ Chicago, nơi mùa đông kéo dài đến tận tháng Tư, nơi mà việc có một chiếc xẻng xúc tuyết trong thùng xe là chuyện bình thường. Tôi có rất nhiều đồ len. Với tôi, tránh đông luôn là một chuyến đi vui vẻ. Thời đại học tôi đã có một chuyến tránh đông đến Bahamas với David, anh bạn học người Bahamas, và một chuyến khác đến Jamaica cùng cô bạn Suzanne. Trong cả hai chuyến đi đó tôi đều tận hưởng làn gió nhẹ nhàng mơn man trên da và niềm vui đơn giản mà tôi cảm nhận được mỗi khi được ở gần biển. Có lẽ không phải tình cờ mà tôi bị thu hút bởi những người sinh ra và lớn lên ở vùng đảo.
Ở Kingston, Suzanne đã dắt tôi tới những bãi biển cát trắng mịn, nơi chúng tôi lặn ngụp giữa những con sóng xanh màu ngọc bích. Cô ấy thành thạo dẫn tôi băng qua một khu chợ lộn xộn và liến thoắng trao đổi với những người bán hàng trên đường.
“Thử cái này đi!” Cô ấy nói to hết cỡ bằng giọng địa phương của mình, hào hứng đưa cho tôi những miếng cá nướng để nếm thử, rồi tới mấy miếng khoai mỡ chiên, những khúc mía cây và vài miếng xoài xắt lát. Cô ấy yêu cầu tôi nếm hết mọi thứ, nhất quyết phải cho tôi thấy ở đó có rất nhiều thứ đáng yêu đến dường nào.
Barack cũng không khác. Tới thời điểm đó, anh ấy đã có hơn mười năm sống trên đất liền, nhưng Hawaii vẫn có ý nghĩa sâu sắc đối với anh. Anh muốn tôi cảm nhận mọi thứ, từ những hàng cọ tán rộng trên đường phố ở Honolulu và bãi biển Waikiki hình lưỡi liềm, đến những ngọn đồi xanh rì uốn quanh thành phố. Trong khoảng một tuần, chúng tôi ở tại một căn hộ mượn tạm từ bạn bè của gia đình anh, và mỗi ngày chúng tôi đều ra biển để bơi lội và lười biếng phơi mình dưới nắng. Tôi đã gặp em gái Maya cùng mẹ khác cha của anh, cô gái mười chín tuổi thật tử tế, thông minh và đang học ở Barnard. Con bé có đôi gò má đầy đặn, đôi mắt nâu to tròn và những lọn tóc đen xoăn tít thả ngang vai. Tôi gặp ông bà Stanley và Madelyn Dunham của anh, hay “Toot và Gramps” như anh vẫn gọi. Họ vẫn sống tại tòa nhà cao tầng mà trước đây Barack từng sống, trong một căn hộ nhỏ được trang trí bằng các loại vải Indonesia mà bà Ann gửi về suốt nhiều năm.
Và tôi cũng gặp bà Ann, một phụ nữ đầy đặn, sôi nổi với mái tóc xoăn đen và chiếc cằm nhọn giống Barack. Bà đeo những món nữ trang bằng bạc to đùng, mặc một chiếc váy bằng vải batik(7) màu sáng và mang đôi xăng-đan to sụ đúng kiểu của một nhà nhân chủng học. Bà thân thiện với tôi và tò mò về gốc gác cũng như sự nghiệp của tôi. Rõ ràng là bà hết sức yêu thương con trai của mình - gần như là tôn sùng anh ấy - và có vẻ háo hức được ngồi trò chuyện với anh, kể cho anh nghe về luận án tiến sĩ mà mình đang làm và trao đổi ý kiến về những quyển sách nên đọc, hệt như đang trò chuyện với một người bạn cũ vậy.
Mọi người trong gia đình vẫn gọi anh là Barry, mà tôi cảm thấy thật là trìu mến. Theo tôi thấy thì dù đã rời quê nhà Kansas từ tận những năm 1940, ông bà ngoại của anh dường như vẫn là những con người vùng Midwest đang sống nhầm chỗ, như cách Barack vẫn luôn miêu tả về họ. Ông ngoại Gramps to lớn như một chú gấu và kể những câu chuyện đùa ngớ ngẩn. Bà ngoại Toot là một phụ nữ tóc muối tiêu có dáng vẻ hơi đẫy đà đang nỗ lực trở thành phó chủ tịch một ngân hàng ở địa phương. Bà chuẩn bị cho chúng tôi món bánh mì kẹp rau trộn cá ngừ cho bữa trưa. Buổi tối, bà đãi chúng tôi món bánh Ritz với cá trích làm món khai vị và dọn bữa tối lên những chiếc bàn gấp để mọi người có thể vừa ăn vừa xem tin tức trên ti-vi hay chơi một ván cờ sắp chữ Scrabble hấp dẫn. Họ là một gia đình trung lưu bình dị, không khác mấy so với gia đình tôi.
Điều này khiến cả tôi và Barack cảm thấy dễ chịu. Chúng tôi khác nhau nhưng vẫn hợp nhau theo một cách thật thú vị. Dường như sự thoải mái và thu hút giữa hai chúng tôi giờ đây đã được lý giải.
Ở Hawaii, sự mãnh liệt và lý trí của anh có vẻ giảm đi, còn bản tính thong dong thoải mái lại nổi lên. Anh đang ở nhà. Và nhà là nơi anh cảm thấy không cần phải chứng tỏ điều gì với bất kỳ ai. Chúng tôi trễ nải trong mọi việc mình làm, nhưng điều đó chẳng hề gì - thậm chí cả với tôi. Một ngày nọ, anh bạn thời trung học Bobby của anh ấy, một người làm nghề đánh cá thương mại, đã dùng thuyền của mình để chở chúng tôi đi lặn bằng ống thở và dạo biển một vòng. Đó là lúc tôi thấy Barack thư giãn nhất kể từ khi hai chúng tôi gặp nhau. Anh nằm ườn dưới bầu trời xanh với một chai bia lạnh và một người bạn cũ, không còn dán mắt vào những tin tức hàng ngày hay những tài liệu ở trường luật, cũng không bận tâm xem phải làm gì với sự bất bình đẳng trong thu nhập. Sự dịu êm nhuộm màu nắng của hòn đảo mở ra không gian cho cả hai chúng tôi, để chúng tôi có thể tận hưởng khoảng thời gian mình chưa từng có trước đó.
Rất nhiều bạn bè của tôi đánh giá những người tình tiềm năng của họ từ ngoài vào trong, tức là chú trọng trước hết vào vẻ ngoài và triển vọng tài chính của người đó. Nếu người mà họ chọn hóa ra không phải là người giỏi giao tiếp hay không cảm thấy thoải mái khi phải bộc lộ điểm yếu, thì họ lại họ có xu hướng nghĩ rằng thời gian hoặc những lời thề hẹn sẽ giải quyết được vấn đề. Nhưng Barack đã thể hiện trọn vẹn con người của anh ấy khi đến với cuộc sống của tôi. Ngay từ cuộc nói chuyện đầu tiên, anh ấy đã cho tôi thấy rằng anh không ngại bộc lộ điểm yếu hay nỗi sợ của bản thân và anh trân trọng sự thành thật. Trong công việc, tôi đã chứng kiến sự khiêm nhường của anh, cũng như sự sẵn lòng hy sinh nhu cầu và mong muốn của bản thân vì một mục đích cao cả hơn.
Còn giờ đây khi đang ở Hawaii, tôi có thể nhìn thấy những khía cạnh nho nhỏ khác trong tính cách của anh. Tình bạn bền vững của anh đối với những người bạn thời trung học cho thấy sự trước sau như một của anh trong tình cảm. Trong sự tận tâm anh dành cho người mẹ có ý chí mạnh mẽ của mình, tôi nhìn thấy sự tôn trọng sâu sắc mà anh dành cho phụ nữ và sự độc lập của họ. Không cần phải nói thẳng ra thì tôi cũng biết là anh ấy có thể đón nhận một người bạn đời có tiếng nói và đam mê riêng của mình. Đó là những điều mà bạn không thể cưỡng cầu trong một mối quan hệ, những điều mà ngay cả tình yêu cũng không thể thật sự vun đắp hay thay đổi được. Khi mở cửa thế giới của mình cho tôi bước vào, Barack đang cho tôi thấy mọi điều tôi cần biết về kiểu người bạn đời mà anh ấy sẽ trở thành.
Có một buổi chiều chúng tôi đã mượn một chiếc xe và lái đến khu North Shore của Oahu, nơi hai chúng tôi ngồi trên bờ biển trải dài như một dải ruy băng mềm mại và nhìn người ta lướt ván ngang những con sóng khổng lồ. Chúng tôi ở đó nhiều giờ liền và chỉ tâm sự cùng nhau khi từng con sóng nối tiếp nhau xô vào bờ, khi mặt trời lặn dần xuống đường chân trời và những người đi ngắm biển khác đang dọn đồ quay về. Chúng tôi trò chuyện đến khi bầu trời chuyển sang sắc hồng, rồi sang tím và cuối cùng là tối hẳn, đến khi lũ côn trùng bắt đầu hoành hành và chúng tôi bắt đầu đói. Nếu ban đầu tôi đến Hawaii để trải nghiệm điều gì đó thuộc về quá khứ của Barack, thì giờ đây chúng tôi đang ngồi trên bờ một đại dương khổng lồ, thể nghiệm một phiên bản nào đó của tương lai, cùng nói với nhau về ngôi nhà mà chúng tôi muốn ở vào một ngày nào đó, kiểu cha mẹ mà chúng tôi muốn trở thành.
TRỞ VỀ CHICAGO, tách ra khỏi Barack, thỉnh thoảng tôi vẫn tham gia những bữa tụ tập vào giờ vàng, dù hiếm khi ở lại lâu. Sự chú tâm đọc sách của Barack đã khiến tôi có hứng thú với sách. Giờ đây tôi thỏa mãn khi ngồi trên trường kỷ đọc một quyển tiểu thuyết hay vào tối thứ Bảy.
Khi chán, tôi gọi điện cho bạn cũ. Ngay cả khi giờ đây tôi có một anh bạn trai nghiêm túc, những cô bạn gái vẫn là người giúp mang đến sự ổn định cho tôi. Santita Jackson hiện đang lưu diễn khắp nước Mỹ trong vai trò ca sĩ hát bè cho Roberta Flack, nhưng chúng tôi vẫn trò chuyện với nhau mỗi khi có thể. Khoảng một năm trước, tôi và cha mẹ cùng ngồi trong phòng khách nhà mình, vô cùng tự hào xem Santita và các em của cô giới thiệu về cha của họ tại Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ năm 1988. Mục sư Jackson đã có một chiến dịch ứng cử tổng thống đáng nể, ông giành được khoảng một chục chiến thắng ở vòng bầu cử sơ bộ trước khi nhường vị trí đề cử cho Michael Dukakis. Trong quá trình đó, ông đã mang đến cho những hộ gia đình như nhà chúng tôi rất nhiều hy vọng và sự phấn khích mới mẻ, kể cả khi trong thâm tâm chúng tôi hiểu rằng ông rất khó lòng đắc cử.
Tôi thường xuyên trò chuyện với Verna Williams, một người bạn thân từ hồi ở trường luật, người mà cách đây không lâu vẫn còn sống ở Cambridge. Cô đã gặp Barack vài lần và rất mến anh, nhưng cô cũng trêu rằng tôi đã lơ là cái chuẩn mực cao đến mức khùng điên của mình rồi vì tôi chấp nhận quen một anh chàng hút thuốc. Angela Kennedy và tôi vẫn cười đùa thoải mái với nhau, cho dù cô ấy vừa làm giáo viên ở New Jersey vừa nuôi dạy đứa con trai còn bé và cố gắng giữ cho cuộc sống ổn định khi cuộc hôn nhân của cô đang dần đổ vỡ. Chúng tôi quen biết nhau khi còn là những cô sinh viên ngốc nghếch chưa hoàn toàn trưởng thành, và giờ đây chúng tôi là những người lớn có cuộc sống và những mối bận tâm của người trưởng thành. Chỉ riêng cái ý nghĩ đó thôi đôi khi đã khiến chúng tôi bật cười.
Trong khi đó, Suzanne vẫn là con người thích bay nhảy như hồi hai chúng tôi còn ở chung một phòng ký túc xá ở Princeton. Cô vẫn ra ra vào vào cuộc sống của tôi một cách khó đoán, tiếp tục đong đếm những giá trị trong cuộc sống của mình chỉ dựa trên tiêu chí có vui hay không. Có những quãng thời gian rất dài chúng tôi không liên lạc với nhau, nhưng khi gặp lại thì mối dây tình bạn của chúng tôi lại được gắn kết với nhau rất dễ dàng. Tôi vẫn gọi cô là Screwzy và cô gọi tôi là Miche. Thế giới của chúng tôi vẫn khác nhau như hồi còn đi học – cô la cà đến các bữa tiệc tại câu lạc bộ ẩm thực và đá quần áo dơ vào gầm giường, trong khi tôi tỉ mỉ dùng giấy màu đánh dấu các ghi chép môn Xã hội học 201 của mình. Suzanne giống như một người chị em có cuộc sống mà tôi chỉ có thể dõi theo từ xa, từ phía bên kia của cái khoảng trống khác biệt giữa hai chúng tôi. Cô ấy dễ khiến tôi phát điên, cô ấy duyên dáng, và cô ấy luôn là người bạn quan trọng đối với tôi. Cô ấy xin tôi lời khuyên và rồi cố ý phớt lờ nó. Hẹn hò với một ngôi sao nhạc pop hơi nổi tiếng và ưa tán tỉnh có phải là một ý tồi hay không? Có đấy, đó có thể là một ý kiến tồi, nhưng rồi cô ấy cũng sẽ hẹn hò với anh chàng đó, vì tại sao lại không? Chuyện khiến tôi bực bội nhất là cô ấy từ chối cơ hội nhập học một trường kinh doanh thuộc Ivy League sau khi tốt nghiệp đại học, vì cô cho rằng việc đó sẽ rất vất vả và do đó không có gì vui. Thay vào đó, cô ấy học chương trình Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh ít-căng-thẳng-hơn tại một trường đại học cấp tiểu bang, điều mà tôi xem là một lựa chọn lười biếng.
Các lựa chọn của Suzanne đôi khi như một sự đối đầu với cách sống của tôi, luôn chuộng sự thoải mái và ít nỗ lực. Giờ thì tôi có thể nói là tôi đã đánh giá cô ấy một cách thiếu công bằng qua những lựa chọn đó. Nhưng lúc ấy tôi chỉ nghĩ là mình đúng.
Chẳng bao lâu sau khi bắt đầu hẹn hò với Barack, tôi gọi cho Suzanne để tâm sự về tình cảm của mình dành cho Barack. Cô ấy rất hào hứng khi biết tôi đang hạnh phúc đến như vậy – đối với cô, hạnh phúc chính là đơn vị đo lường giá trị. Suzanne cũng có tin vui: cô bỏ công việc chuyên viên máy tính ở Cục Dự trữ Liên bang và sắp đi du lịch - không phải vài tuần mà là nhiều tháng trời. Suzanne và mẹ cô sắp có một chuyến phiêu lưu theo kiểu vòng quanh thế giới. Vì tại sao lại không?
Tôi không biết Suzanne có linh cảm được là có điều gì đó kỳ lạ đang xảy ra với các tế bào trong cơ thể của cô hay không, rằng một cuộc đột nhập âm thầm đã bắt đầu diễn ra. Tôi chỉ biết là vào mùa thu năm 1989, trong khi tôi phải ngồi dự những buổi họp dài trong phòng hội nghị ở Sidley thì mẹ con Suzanne đang cố không làm vấy cà ri lên những chiếc váy mùa hè của họ ở Campuchia và khiêu vũ đón bình minh trên những lối đi thênh thang của đền Taj Mahal. Khi tôi đang cân bằng sổ sách thu chi, thu gom quần áo đã giặt và nhìn những chiếc lá vàng héo úa rơi xuống Đại lộ Euclid, thì Suzanne đang lao qua Bangkok nóng ẩm trong một chiếc tuk-tuk và sung sướng bấm còi inh ỏi - theo tôi tưởng tượng. Trên thực tế, tôi không biết những chuyến đi của Suzanne ra sao và những nơi nào cô đã thật sự đặt chân đến, vì cô không phải là người thích gửi bưu thiếp hay giữ liên lạc mọi lúc mọi nơi. Suzanne quá bận sống, bận trải nghiệm tận cùng những gì thế giới mang tới.
Đến khi cô về lại nhà mình ở Maryland và có thời gian liên lạc với tôi thì tin tức mà tôi nhận được lại khác hẳn - nó đắng chát và quá tương phản với hình ảnh của Suzanne trong tâm trí tôi đến nỗi tôi không tài nào chấp nhận được.
“Mình bị ung thư”, Suzanne nói với tôi, giọng cô khàn đi vì xúc động. “Rất nặng.”
Bác sĩ vừa chẩn đoán cô mắc căn bệnh đó, một dạng ung thư hệ bạch huyết ác tính, và nó đã tấn công vào nội tạng của Suzanne. Cô mô tả phác đồ điều trị cho tôi nghe, nói về hy vọng gì đó vào kết quả, nhưng tôi bị choáng váng đến mức không còn nhớ chi tiết nữa. Trước khi cúp máy, cô ấy nói rằng số mệnh thật nghiệt ngã khi mẹ cô ấy cũng lâm trọng bệnh.
Tôi không chắc là mình có bao giờ tin là cuộc sống công bằng hay không, nhưng tôi luôn nghĩ chúng ta có thể tìm ra giải pháp cho mọi vấn đề. Bệnh ung thư của Suzanne chính là thứ đầu tiên thách thức quan điểm đó, nó tàn phá những lý tưởng của tôi. Vì ngay cả khi chưa chốt xong những chi tiết cụ thể, tôi vẫn có những hình dung nhất định về tương lai. Tôi có một kế hoạch mà tôi vẫn miệt mài duy trì từ năm nhất đại học, một kế hoạch được hình thành từ bản danh sách những việc cần làm được viết ngay ngắn mà tôi nhất định phải hoàn thành.
Đối với tôi và Suzanne, mọi thứ đáng lẽ phải diễn ra như thế này: chúng tôi sẽ trở thành phù dâu cho đám cưới của nhau. Chồng chúng tôi đương nhiên sẽ rất khác nhau, nhưng dù sao thì cả hai cũng sẽ rất hợp nhau. Chúng tôi sẽ có con vào cùng thời điểm, rồi hai gia đình sẽ cùng đi nghỉ dưỡng trên bờ biển Jamaica. Chúng tôi vẫn sẽ hơi chỉ trích về phương pháp nuôi dạy con của nhau, và chúng tôi sẽ là những người cô người dì mà bọn trẻ yêu thích. Tôi sẽ tặng con của Suzanne những quyển sách vào dịp sinh nhật chúng; còn cô ấy sẽ tặng con tôi mấy cây cà kheo. Chúng tôi sẽ cười và chia sẻ với nhau những bí mật, chúng tôi sẽ trợn mắt ngán ngẩm trước những điều mà mình cho là thuộc về phong cách quái gở của người kia. Đến một ngày nọ chúng tôi chợt nhận ra mình đã là hai quý bà chơi thân với nhau cả đời, và chúng tôi sẽ bối rối tự hỏi sao thời gian trôi qua nhanh quá.
Đối với tôi, đó chính là thế giới mà chúng tôi nên có.
BÂY GIỜ NHÌN LẠI, điều đáng chú ý là suốt mùa đông và mùa xuân đó, tôi chỉ làm những việc mình cần làm. Tôi là một luật sư, và luật sư thì làm việc. Chúng tôi luôn làm việc. Năng lực của chúng tôi cao bằng số giờ chúng tôi được thanh toán. Tôi tự nhủ mình không có lựa chọn nào khác. Tôi tự nhủ công việc là quan trọng. Và thế là mỗi sáng tôi có mặt tại trung tâm của Chicago, trong tòa nhà văn phòng đồ sộ có tên One First National Plaza. Tôi cắm đầu làm việc và tính tiền cho mỗi giờ công của mình.
Còn ở Maryland, Suzanne đang sống chung với bệnh tật. Cô vừa đương đầu với những lần khám bệnh và những ca phẫu thuật, đồng thời cố gắng chăm sóc cho mẹ, người cũng đang đấu tranh với một căn bệnh ung thư hiểm nghèo mà bác sĩ khẳng định là hoàn toàn không liên quan gì đến căn bệnh của Suzanne. Đó là sự rủi ro, xui xẻo, quái gở đến nỗi chỉ nghĩ đến thôi cũng đã là quá đáng sợ. Những thành viên còn lại trong nhà Suzanne không quá khắng khít với nhau, trừ hai cô chị em họ yêu quý đã hết lòng giúp đỡ Suzanne. Thỉnh thoảng Angela lái xe từ New Jersey đến thăm, nhưng cô ấy cũng bận rộn vừa chăm con vừa đi làm. Tôi nhờ Verna, một cô bạn ở trường luật, thay tôi ghé thăm Suzanne bất cứ khi nào có thể. Verna đã gặp Suzanne vài lần hồi chúng tôi ở Harvard, và thật tình cờ là cô ấy đang sống ở Silver Spring, trong tòa nhà đối diện bãi xe nhà Suzanne.
Tôi biết việc tôi nhờ là quá sức đối với Verna, bởi cô cũng vừa mất cha và cũng đang vật vã với nỗi đau riêng. Nhưng cô ấy là một người bạn đích thực, một con người biết cảm thông. Cô ấy gọi điện tới văn phòng tôi vào một ngày tháng Năm để kể lại chi tiết của một lần thăm.
“Mình đã chải tóc cho cô ấy”, Verna nói.
Lẽ ra khi nghe Suzanne cần phải nhờ người chải tóc, tôi đã phải biết rõ tình trạng bạn mình tệ như thế nào. Nhưng tôi đã trốn tránh sự thật. Phần nào đó trong tôi vẫn khăng khăng chuyện này không hề xảy ra. Tôi vẫn tin là sức khỏe của Suzanne sẽ cải thiện, ngay cả khi có hằng đống bằng chứng cho thấy điều ngược lại.
Cuối cùng, vào tháng Sáu, Angela là người gọi cho tôi và đi thẳng vào vấn đề. “Miche, nếu cậu có ý định tới thăm Suzanne thì tốt nhất là hãy đi ngay đi.”
Khi đó Suzanne đã nhập viện. Cô yếu tới mức không thể nói chuyện và thường xuyên rơi vào trạng thái mất ý thức. Tôi không thể né tránh chuyện này được nữa. Tôi gác điện thoại và mua vé máy bay. Tôi bay về miền đông, đón taxi tới bệnh viện, vào thang máy và lên đúng tầng, sau đó tôi đi theo hành lang dẫn tới phòng cô ấy và thấy bạn mình đang nằm trên giường bệnh. Angela và cô em họ đang trông chừng cô ấy, không ai nói một lời nào. Thì ra mẹ của Suzanne đã qua đời ít ngày trước, và giờ đây Suzanne đang hôn mê. Angela nhường chỗ cho tôi ngồi trên mép giường của Suzanne.
Tôi chăm chú nhìn Suzanne, nhìn khuôn mặt trái xoan hoàn hảo và làn da nâu đỏ của cô. Tôi cảm thấy được an ủi đôi chút khi thấy đôi gò má của cô vẫn còn mịn màng tươi trẻ và đôi môi cong nữ tính kia vẫn còn sức sống. Theo một cách kỳ lạ nào đó, dường như căn bệnh không hề ảnh hưởng đến bề ngoài của Suzanne. Mái tóc đen của cô vẫn óng và dài; ai đó đã tết nó thành hai bím tóc dài gần đến eo. Và dưới lớp mền kia vẫn là đôi chân của một cô gái ưa vận động. Suzanne trông vẫn trẻ trung như một cô gái hai mươi sáu tuổi ngọt ngào, xinh đẹp và có lẽ chỉ đang chợp mắt một chút.
Tôi hối hận vì đã không đến thăm bạn mình sớm hơn. Tôi hối hận vì trong mối quan hệ bạn bè khi gần khi xa của chúng tôi, có nhiều lần tôi đã khăng khăng rằng cô ấy quyết định sai trong khi có thể cô ấy đang làm đúng. Bỗng nhiên tôi thấy vui vì tất cả những lần cô ấy đã bỏ ngoài tai lời khuyên của tôi. Tôi mừng vì cô ấy đã không nỗ lực đến kiệt sức để nhận một tấm bằng kinh doanh thời thượng nào đó. Tôi mừng vì cô đã có một cuối tuần ngây ngất bên anh chàng ngôi sao nhạc pop mới nổi. Tôi mừng vì cô ấy đã đến tận Taj Mahal để ngắm bình minh với mẹ. Suzanne đã sống theo cách mà tôi chưa từng sống bao giờ.
Hôm đó tôi đã cầm bàn tay bất động của cô, nhìn hơi thở của cô yếu dần và những lần hít vào mỗi lúc một thưa. Đến một lúc, y tá khẽ gật đầu báo hiệu. Chuyện đó đang xảy ra. Suzanne đang rời đi. Đầu óc tôi tối sầm lại. Tôi không còn suy nghĩ được điều gì sâu xa nữa. Tôi không nhận ra sự sống hay sự mất mát nữa. Nếu còn nhận thức được điều gì thì đó là tôi đang giận dữ.
Thật quá đơn giản khi nói rằng việc Suzanne mắc bệnh và ra đi ở tuổi hai mươi sáu là bất công. Nhưng đó là thực tế, một thực tế lạnh lùng và xấu xí. Khi để cô lại trong phòng bệnh hôm đó, tôi đã nghĩ: Cô ấy đã ra đi, còn mình vẫn ở đây. Ngoài hành lang, nhiều bệnh nhân lớn tuổi và có vẻ bệnh nặng hơn cô nhiều, và họ vẫn đang ở đây, còn bạn tôi thì đã đi rồi. Tôi đón chuyến bay chật kín khách để về lại Chicago, lái xe qua một con đường cao tốc đông đúc và bước vào thang máy để đi lên văn phòng của mình. Tôi thấy người ta đang ngồi trong xe với dáng vẻ hạnh phúc, có người rảo bước trên vỉa hè trong trang phục mùa hè, có người ngồi thảnh thơi trong các quán cà phê, và có người đang làm việc trong văn phòng. Tất cả những người đó đều hoàn toàn không biết chuyện đã xảy ra với Suzanne - rõ ràng là họ cũng không nhận thức được rằng họ cũng có thể chết vào bất kỳ lúc nào. Thật vô lý khi thế giới cứ tiếp tục xoay vòng như thế. Thật vô lý khi mọi người vẫn còn đây, trừ Suzanne của tôi.
(1) Toni Morrison (1931): nữ nhà văn Mỹ từng đoạt giải Pulitzer cho tác phẩm hư cấu năm 1988 và giải Nobel Văn học năm 1993.
(2) Roger Ebert (1942-2013): nhà phê bình phim người Mỹ từng đoạt giải Pulitzer.
(3) Lowrider: một kiểu “độ” xe để hạ độ cao trọng tâm xe và làm xe chạy chậm lại.
(4) Stevie Wonder (1950): ca sĩ, nhạc sĩ, nhà sản xuất âm nhạc và nghệ sĩ chơi đa nhạc cụ người Mỹ, là nhân vật tiêu biểu cho âm nhạc đại chúng Hoa Kỳ nửa sau thế kỷ 20.
(5) Marvin Gaye (1939-1984): ca sĩ, nhạc sĩ nhạc soul và nhà sản xuất thu âm người Mỹ, được mệnh danh là Hoàng tử nhạc soul.
(6) Emoji: các biểu tượng và hình mặt cười được sử dụng trong tin nhắn điện tử và các trang Web.
(7) Vải batik: loại vải được tạo ra bằng kỹ thuật nhuộm sáp và in hoa văn bằng phương pháp thủ công truyền thống. Vải batik được xem là sản phẩm đặc trưng của Indonesia.