HÈ NĂM ĐÓ TÔI BẮT ĐẦU VIẾT NHẬT KÝ. Tôi sắm cho mình một quyển sổ màu đen có bìa bọc vải in hoa tím và đặt nó cạnh giường. Tôi mang quyển sổ theo mỗi khi đi công tác cho Sidley & Austin. Tôi không viết hàng ngày, thậm chí cũng không phải hàng tuần. Tôi chỉ cầm bút khi có thời gian và năng lượng để sắp xếp lại những cảm xúc lộn xộn của mình. Tôi dành một tuần để viết vài bài, rồi tôi không đụng đến quyển sổ suốt một tháng hoặc có khi lâu hơn. Bản chất tôi không phải là người thích suy xét nội tâm. Việc ghi lại suy nghĩ của bản thân hãy còn mới mẻ đối với tôi. Tôi nghĩ đây là thói quen mà tôi phần nào có được nhờ Barack, người xem việc viết lách như một cách trị liệu và làm rõ mọi điều. Anh đã duy trì việc viết nhật ký suốt nhiều năm trời, dù không đều đặn.
Anh quay lại Chicago trong kỳ nghỉ hè của trường Harvard, và lần này anh không thuê lại phòng trọ mà dọn hẳn vào căn hộ của tôi trên Đại lộ Euclid. Điều này không chỉ đồng nghĩa với việc chúng tôi đang học, học qua trải nghiệm thực tế, cách chung sống với nhau như một cặp đôi, mà còn có nghĩa là Barack trở nên thân thiết hơn với gia đình tôi. Anh ấy nói về thể thao với cha tôi khi ông chuẩn bị bắt đầu ca làm việc ở nhà máy nước. Đôi lúc anh ấy giúp mẹ tôi xách đồ từ ga-ra vào nhà. Cảm giác đó thật dễ chịu. Anh Craig đã đánh giá tính cách của Barack một cách thấu đáo và tỏ tường nhất có thể - anh ấy rủ Barack tham gia một trận bóng rổ quyết liệt vào dịp cuối tuần với một nhóm bạn thân của mình, phần lớn đều là cựu cầu thủ của đội tuyển trường đại học. Thật ra anh Craig đã làm vậy theo yêu cầu của tôi. Tôi rất coi trọng ý kiến của anh Craig về Barack, và anh tôi có thể đọc được cá tính của người khác, đặc biệt là qua một trận đấu bóng rổ. Barack đã vượt qua bài kiểm tra. Anh tôi nói anh ấy uyển chuyển trên sân, biết khi nào nên chuyền bóng và cũng không ngại ném rổ khi có chỗ trống. “Anh chàng không phải kiểu khư khư giữ bóng, nhưng rất gan góc”, anh Craig nhận định.
Barack đã nhận làm luật sư thực tập mùa hè tại một văn phòng luật ở trung tâm thành phố, gần với văn phòng của Sidley, nhưng thời gian anh ấy ở lại Chicago rất ngắn ngủi. Anh được bầu làm chủ nhiệm tập san Harvard Law Review cho năm học tiếp theo, đồng nghĩa với việc anh có trách nhiệm phát hành tám số báo, mỗi số ba trăm trang, và cần phải sớm về Cambridge để bắt tay vào việc. Cuộc đua vào vị trí chủ nhiệm tập san hàng năm luôn khốc liệt, bao gồm một màn đánh giá gắt gao và một cuộc bầu chọn do tám mươi biên tập viên sinh viên thực hiện. Được chọn vào vị trí này là một thành tựu lớn. Không những vậy, hóa ra Barack là người Mỹ gốc Phi đầu tiên được chọn trong lịch sử một trăm lẻ ba năm của tờ báo - một dấu mốc lớn lao tới mức tờ New York Times đã đưa tin kèm một bức ảnh Barack quấn khăn choàng cổ và mỉm cười trong trang phục áo khoác mùa đông.
Nói cách khác, bạn trai của tôi rất xuất sắc. Anh ấy có thể nhận được đủ loại công việc lương khủng ở bất kỳ hãng luật nào vào lúc ấy, nhưng anh lại muốn thực hành luật dân quyền ngay khi tốt nghiệp, cho dù điều đó đồng nghĩa với việc anh phải mất gấp đôi thời gian để trả hết tiền vay học phí. Gần như tất cả những người mà anh ấy quen biết đều giục anh đi theo con đường của rất nhiều biên tập viên tiền nhiệm của tờ Harvard Law Review và ứng tuyển vào vị trí thư ký ở Tòa án Tối cao, một chức vụ ngon lành. Nhưng Barack không có hứng thú với chuyện đó. Anh muốn sống ở Chicago. Anh có ý tưởng viết một quyển sách về chủng tộc tại Mỹ, và anh nói đã có kế hoạch tìm một công việc phù hợp với các giá trị cá nhân của anh, mà như vậy nghĩa là anh sẽ không làm trong mảng luật doanh nghiệp. Anh ấy hoạch định con đường của mình với một sự chắc chắn khiến tôi vô cùng kinh ngạc.
Đương nhiên sự tự tin bẩm sinh của anh thật đáng ngưỡng mộ, nhưng thành thật mà nói, cứ thử sống cùng với nó đi rồi biết. Với tôi, sống chung với một người có mục tiêu rõ ràng và mạnh mẽ như Barack - cùng ăn cùng ngủ với sự tự tin đó - là một điều mà tôi phải điều chỉnh để thích nghi. Đứng trước sự tự tin của anh, trước ý niệm của anh về việc anh có thể tạo ra thay đổi nào đó trên thế giới, tôi không khỏi có cảm giác thua kém khi so sánh với anh. Một cách vô tình, mục đích sống rõ ràng đó của anh giống như một thách thức đối với mục đích sống của tôi.
Thế nên trong nhật ký của mình, tôi đã viết ra lý do tôi bắt đầu viết nhật ký. Ngay từ trang đầu tiên, bằng nét viết tay cẩn thận, tôi ghi:
Một, tôi rất băn khoăn về việc mình muốn làm gì trong đời. Tôi muốn trở thành con người như thế nào? Tôi muốn đóng góp gì cho thế giới?
Hai, tôi đang ngày càng nghiêm túc trong mối quan hệ với Barack, và tôi cảm thấy mình cần giải quyết những vấn đề của bản thân cho tốt.
Quyển sổ bé có bìa in hoa này giờ đây đã sống qua vài thập kỷ và nhiều lần chuyển nhà. Nó đã được đặt trên kệ sách trong phòng thay đồ của tôi ở Nhà Trắng trong tám năm, cho đến tận gần đây tôi mới lấy nó ra khỏi chiếc hộp trong căn nhà mới để tìm cách tự làm quen lại với phiên bản cô luật sư trẻ của mình trước kia. Hôm nay tôi đọc lại những dòng chữ đó và hiểu chính xác những gì tôi từng cố gắng nói với chính mình - điều mà một nữ cố vấn nghiêm túc có thể đã nói thẳng với tôi. Thật ra thì nó rất đơn giản. Thứ nhất, tôi ghét làm luật sư. Tôi không thích hợp với công việc ấy. Tôi cảm thấy trống rỗng khi phải làm công việc của luật sư, mặc dù tôi làm khá giỏi. Đây quả là một sự thừa nhận đau lòng, nếu xét những nỗ lực tôi đã bỏ ra và khoản nợ tôi đã phải trả. Vì sự khao khát mù quáng là phải trở nên xuất sắc, vì nhu cầu làm mọi việc thật hoàn hảo, tôi đã bỏ qua những dấu hiệu và đã chọn sai đường.
Thứ hai, tôi đang yêu, yêu say đắm một chàng trai mà trí tuệ và tham vọng mãnh liệt của anh ấy có thể nuốt chửng trí tuệ và tham vọng của tôi. Tôi đã thấy chuyện đó xảy ra, nó như một cuộn sóng đang lao tới với lực dội mãnh liệt. Tôi không thể nào thoát khỏi con đường đó - tôi đã quá gắn bó với Barack, quá yêu anh ấy - nhưng tôi thật sự cần phải nhanh chóng đứng vững trên đôi chân của mình.
Điều này đồng nghĩa với việc tìm một nghề nghiệp mới, và điều khiến tôi ngạc nhiên nhất chính là tôi không hề có ý tưởng rõ ràng nào về việc mình muốn làm. Bằng cách nào đó, trong suốt những năm tháng học hành tôi chưa bao giờ suy nghĩ thấu đáo về đam mê của bản thân và các đam mê đó có thể phù hợp như thế nào với công việc mà tôi thấy có ý nghĩa. Hồi còn trẻ, tôi không khám phá gì cả. Tôi nhận ra sự chín chắn của Barack có được là nhờ những năm tháng anh làm nhà tổ chức sự kiện cộng đồng, và thậm chí là nhờ một năm vô cùng đáng thất vọng trước đó, năm anh đảm nhiệm vai trò nghiên cứu sinh tại một tập đoàn tư vấn luật doanh nghiệp ở Manhattan ngay sau khi tốt nghiệp đại học. Anh đã thử nhiều thứ khác nhau, biết đủ loại người và trong quá trình đó, anh đã nghiệm ra đâu là những ưu tiên của đời mình. Trong khi đó, tôi quá sợ phải va vấp, quá nóng lòng muốn có được sự tôn trọng và có cách trang trải cuộc sống, đến mức tôi thẳng tiến vào ngành luật mà chẳng nghĩ suy gì.
Trong vòng một năm, tôi có Barack và mất Suzanne, và sức ép của hai điều này khiến tôi chao đảo. Sự ra đi đột ngột của Suzanne đã đánh thức trong tôi cái ý nghĩ rằng tôi muốn có nhiều niềm vui và ý nghĩa hơn trong cuộc sống. Tôi không thể tiếp tục sống với cảm giác tự thỏa mãn được. Tôi vừa biết ơn nhưng cũng vừa trách cứ Barack vì sự hoang mang này. Tôi viết trong nhật ký, “Giả sử không có người đàn ông liên tục chất vấn tôi về những điều thôi thúc tôi và những điều khiến tôi đau đớn thì tôi có tự mình làm điều đó hay không?”.
Tôi đã nghĩ về những việc mình có thể làm, những kỹ năng mình có thể có. Tôi có thể trở thành giáo viên không? Hay một nhân viên học vụ? Tôi có thể điều hành một chương trình phụ đạo sau giờ học không, giống như những gì tôi đã làm cho chị Czerny ở Princeton nhưng chuyên nghiệp hơn? Tôi có ý định làm việc cho một quỹ hoặc tổ chức phi lợi nhuận nào đó. Tôi hứng thú với việc hỗ trợ những đứa trẻ chịu nhiều thiệt thòi. Tôi tự hỏi không biết có thể tìm thấy một công việc cần đến trí óc nhưng đồng thời cũng cho tôi đủ thời gian để làm công tác thiện nguyện, cảm thụ nghệ thuật hoặc có con cái hay không. Về cơ bản, tôi muốn một cuộc sống ý nghĩa. Tôi muốn cảm thấy trọn vẹn. Tôi viết ra một danh sách những điều mình quan tâm: giáo dục, vấn đề mang thai ở tuổi vị thành niên, lòng tự trọng của người da đen. Tôi biết là một công việc nghiêng về giá trị đạo đức nhiều hơn sẽ có mức lương thấp hơn. Danh sách kế tiếp của tôi bao gồm những chi tiêu thiết yếu của tôi - những gì còn lại sau khi tôi bỏ hết những thứ xa xỉ tôi đã tự cho phép mình hưởng thụ bằng đồng lương ở Sidley, những thứ như dịch vụ nếm rượu và quyền thành viên câu lạc bộ chăm sóc sức khỏe. Tôi phải trả sáu trăm đô-la hàng tháng tiền nợ học phí, bốn trăm lẻ bảy đô-la trả góp mua xe, tiền chi tiêu cho ăn uống, xăng dầu, bảo hiểm, và đại khái là khoảng năm trăm đô-la hàng tháng để trả tiền thuê nhà nếu tôi có ý định dọn ra khỏi căn nhà của cha mẹ tôi.
Không có gì là không thể, nhưng cũng không có gì trông có vẻ đơn giản cả. Tôi bắt đầu tìm kiếm cơ hội làm việc trong ngành luật giải trí với suy nghĩ rằng có lẽ ngành này sẽ thú vị và có thể giúp tôi đảm bảo thu nhập như hiện tại. Nhưng trong thâm tâm tôi, một điều đang dần dần trở nên chắc chắn: tôi không phù hợp với ngành luật. Một ngày nọ tôi chú ý một bài báo mà tôi đọc được trên tờ New York Times. Bài báo nói về sự mệt mỏi, căng thẳng và bất mãn đang lan tràn trong giới luật sư Mỹ, đặc biệt là phụ nữ. “Thật là thảm cảnh”, tôi viết vào nhật ký như vậy.
PHẦN LỚN THỜI GIAN của tháng Tám năm đó, tôi miệt mài làm việc trong một phòng hội nghị thuê tại một khách sạn ở Washington, D.C., nơi tôi được điều đến để hỗ trợ một vụ kiện. Sidley & Austin đang đại diện cho siêu tập đoàn hóa chất Union Carbide trong một vụ kiện chống độc quyền liên quan đến việc bán ra một loại cổ phiếu của hãng. Tôi ở Washington khoảng ba tuần nhưng không có nhiều thời gian để tham quan thành phố, vì cuộc sống của tôi hoàn toàn cống hiến cho những giờ làm việc trong căn phòng đó với một vài đồng nghiệp ở Sidley, chuyên tâm mở những thùng hồ sơ được chuyển đến từ trụ sở công ty và xem qua hàng ngàn trang tài liệu bên trong.
Có thể bạn không nghĩ tôi là kiểu người cảm thấy hứng thú khi phải làm việc với ngành sản xuất hóa phẩm, nhưng thật sự tôi có hứng thú. Tôi vẫn đang làm những việc liên quan đến luật, nhưng đặc điểm của công việc và sự thay đổi hoàn cảnh đã giúp tôi bớt lẩn quẩn với những câu hỏi lớn hơn đang bắt đầu trỗi dậy trong tâm trí mình.
Cuối cùng, vụ kiện hóa chất cũng đã được giải quyết ngoài tòa án, đồng nghĩa với việc phần lớn những tài liệu tôi đọc đã không còn ý nghĩa gì nữa. Chuyện đó rất khó chịu nhưng cũng là một sự đánh đổi bình thường trong lĩnh vực pháp lý, lĩnh vực mà việc chuẩn bị cho một vụ kiện không bao giờ được ra tòa là rất bình thường. Vào buổi tối mà tôi bay về Chicago, tôi cảm thấy một nỗi sợ đang đè nặng khi biết mình sắp phải quay về lề thói sinh hoạt hàng ngày và sắp bước vào màn sương hồ nghi của bản thân.
Mẹ đến đón tôi ở sân bay O’Hare. Chỉ nhìn thấy bà thôi cũng giúp tôi thoải mái. Bà giờ đã ngoài năm mươi và đang làm trợ lý cấp cao toàn thời gian tại một ngân hàng ở trung tâm, mà theo mô tả của bà thì về cơ bản đó là nơi một đám đàn ông ngồi ở bàn làm việc chỉ vì cha của họ cũng từng là nhân viên ngân hàng. Mẹ tôi là người mạnh mẽ. Bà không chịu được những kẻ ngu ngốc. Bà để tóc ngắn và mặc quần áo tiện dụng, không màu mè. Mọi thứ nơi bà đều toát ra vẻ bản lĩnh và trầm tĩnh. Vẫn như hồi anh Craig và tôi còn bé, bà không can dự vào cuộc sống riêng của chúng tôi. Bà thể hiện tình yêu dưới dạng sự tin cậy. Bà xuất hiện khi chuyến bay của bạn hạ cánh. Bà chở bạn về nhà và cho bạn ăn nếu bạn thấy đói. Sự điềm tĩnh vững vàng của bà mang đến cho tôi cảm giác được nương náu, như thể đó là nơi trú ẩn an toàn.
Tôi thở dài khi chúng tôi đi về phía nội thành.
“Con ổn chứ?”, mẹ tôi hỏi.
Tôi nhìn bà trong ánh sáng nhập nhoạng của xa lộ. “Con không biết nữa. Chỉ là…”
Và cứ thế, tôi nói ra những cảm nhận của mình. Tôi nói với bà rằng tôi không hạnh phúc với công việc, thậm chí là với ngành nghề mình đã chọn - tôi thật sự cảm thấy không hạnh phúc. Tôi kể với bà về sự bồn chồn của mình, sự tuyệt vọng muốn có một thay đổi lớn nhưng lo lắng là mình sẽ không kiếm đủ tiền nếu làm vậy. Đó là những cảm xúc trần trụi. Tôi lại buông ra một tiếng thở dài khác. “Con chỉ không cảm thấy trọn vẹn”, tôi nói với bà.
Bây giờ tôi đã hiểu cảm giác của mẹ khi nghe tôi nói câu đó. Bà đã đi làm trở lại được chín năm nay, chủ yếu chỉ để có thêm tiền cho tôi vào đại học. Còn trước đó, chính bà đã lựa chọn không đi làm suốt nhiều năm trời, chỉ để có thời gian khâu vá đồng phục cho anh em chúng tôi, nấu nướng cho cha tôi - người cũng vì gia đình đã dành ra tám giờ mỗi ngày để theo dõi máy đo trong nhà máy lọc nước. Mẹ tôi, người vừa lái xe một giờ đồng hồ để đón tôi ở sân bay, người đang cho tôi sống ở tầng trên của căn nhà mà không phải trả một đồng tiền thuê, và người sẽ phải thức giấc vào bình minh hôm sau để giúp người cha bị tật của tôi sửa soạn đi làm, khó lòng nuông theo nỗi bận tâm của tôi về sự thỏa mãn trong công việc.
Tôi chắc chắn sự thỏa mãn này đối với bà cũng như tính tự phụ của người giàu. Tôi nghĩ trong suốt ba mươi năm bên nhau, cha mẹ tôi chưa bao giờ nói về điều đó dù chỉ một lần.
Mẹ không đánh giá tôi vì có những suy tư như thế. Bà không phải kiểu người thích dạy đời hay cố khiến cho người ta thấy những gì bà đã hy sinh. Bà lặng lẽ ủng hộ mọi lựa chọn của tôi. Thế nhưng lần này bà vừa bấm đèn xi-nhan để đưa hai chúng tôi ra khỏi cao tốc và rẽ vào khu phố của mình, vừa liếc nhìn tôi với vẻ châm biếm và cười khẽ. Bà nói, “Nếu con đã hỏi thì ý mẹ là hãy lo kiếm tiền trước, còn chuyện vui trong công việc thì tính sau”.
CÓ NHỮNG SỰ THẬT mà chúng ta đối mặt và những sự thật mà chúng ta phớt lờ. Tôi dành sáu tháng kế tiếp để âm thầm cố gắng củng cố sức mạnh bản thân mà không tạo ra bất kỳ thay đổi đột ngột nào. Trong công ty, tôi gặp luật sư phụ trách phòng ban của tôi để đề nghị được nhận những nhiệm vụ nhiều thử thách hơn. Tôi cố gắng tập trung vào những dự án mà tôi cho là có nhiều ý nghĩa nhất, bao gồm việc tuyển dụng một nhóm thực tập sinh mới và đa dạng hơn cho chương trình thực tập mùa hè. Đồng thời tôi cũng để ý tin tuyển dụng trên báo và cố hết sức để giao thiệp với những người không phải là luật sư. Theo cách này hay cách khác, tôi nghĩ mình nên nỗ lực hướng đến một phiên bản nào đó của cảm giác viên mãn.
Về phần gia đình mình, tôi cảm thấy bất lực trước một thực tế mới. Bàn chân của cha tôi bắt đầu sưng tấy không rõ lý do. Da của ông trông lốm đốm và sẫm màu một cách bất thường. Vậy mà bất cứ khi nào tôi hỏi ông cảm thấy ra sao, ông vẫn cho tôi cùng một câu trả lời, với cùng một mức độ quả quyết như suốt nhiều năm qua.
“Cha không sao”, ông đáp, như thể tôi không cần phải hỏi câu hỏi kia. Sau đó ông đổi sang chủ đề khác.
Mùa đông lại về ở Chicago. Tôi thức giấc vào các buổi sáng giữa tiếng hàng xóm cạo tuyết khỏi kính chắn gió của mấy chiếc ô-tô đang đậu ngoài đường. Gió thốc và tuyết rơi ngày càng dày thêm. Mặt trời vẫn chiếu những tia nắng yếu ớt. Qua cửa sổ văn phòng làm việc trên tầng bốn mươi bảy tại Sidley, tôi thấy một vùng lãnh nguyên băng giá xám xịt trên mặt Hồ Michigan và bầu trời màu xám kim loại bên trên. Tôi mặc áo len và mong thời tiết sẽ ấm lên khi băng tan. Như tôi đã nói, mùa đông ở vùng Midwest là một bài tập về sự chờ đợi - chờ sự khuây khỏa, chờ chim hót, chờ bông hoa nghệ tím đầu tiên vươn mình ra khỏi tuyết. Trong quá trình chờ đợi đó, bạn không có lựa chọn nào khác ngoài việc tự động viên chính mình.
Cha tôi vẫn không đánh mất sự vui vẻ và lạc quan cố hữu. Thỉnh thoảng anh Craig về nhà để dùng bữa tối cùng gia đình, chúng tôi vẫn quây quần quanh bàn ăn và cười đùa hệt như xưa, chỉ là giờ đây chúng tôi có thêm Janis, vợ của anh Craig. Janis vui vẻ và quyết đoán, là một chuyên gia phân tích viễn thông làm việc ở trung tâm thành phố, và cũng như những người khác, chị hoàn toàn bị cha tôi chinh phục. Còn anh Craig vẫn là hình mẫu lý tưởng của nhiều người về con đường sự nghiệp sau khi tốt nghiệp Princeton. Anh đang học MBA và giữ chức phó chủ tịch Ngân hàng Continental, vợ chồng anh đã tậu một căn hộ khang trang ở Hyde Park. Anh mặc com-lê đặt may riêng và đến dùng bữa bằng chiếc Porsche 944 Turbo. Lúc bấy giờ tôi không hề biết rằng những thứ đó không hề khiến anh hạnh phúc. Giống như tôi, anh ấy cũng có một cuộc khủng hoảng cá nhân, và trong những năm sau đó anh sẽ loay hoay với câu hỏi liệu công việc mình đang làm có thật sự ý nghĩa hay không, liệu những phần thưởng mà anh hằng tìm kiếm có phải là điều anh thật sự mong muốn hay không. Tuy nhiên, vì biết cha xúc động đến dường nào về những thành tựu mà các con đạt được, anh em chúng tôi chưa bao giờ nói về sự bất mãn của mình trên bàn ăn.
Trong một lần về thăm nhà, khi chuẩn bị ra về, anh Craig đã lo lắng nhìn cha và hỏi câu hỏi quen thuộc về tình hình sức khỏe của ông, để rồi nhận lại câu trả lời cho qua chuyện, “Cha không sao”.
Tôi tin là chúng tôi chấp nhận tình trạng này vì nó ổn định, và ổn định chính là điều mà chúng tôi mong muốn. Cha tôi đã sống với căn bệnh đa xơ cứng nhiều năm qua và luôn xoay xở tốt. Chúng tôi vui vẻ duy trì lý giải đó, kể cả khi ông đang suy yếu rành rành. Chúng tôi nói với nhau là ông ổn vì ông vẫn thức dậy và đi làm hàng ngày. Ông ổn vì chúng tôi đã thấy ông ăn thêm một phần thịt vào tối hôm đó. Ông ổn, đặc biệt là nếu bạn không quá để ý bàn chân của ông.
Tôi có nhiều cuộc nói chuyện căng thẳng với mẹ, tôi hỏi bà tại sao cha không đi khám bệnh. Nhưng cũng giống tôi, bà chưa hề bỏ cuộc mà đã khuyên nhủ cha tôi đi gặp bác sĩ và đã bị phớt lờ rất nhiều lần. Đối với cha tôi, bác sĩ không bao giờ mang tới tin tốt lành, và do đó họ là người mà chúng tôi cần tránh xa. Là người thích trò chuyện nhưng ông lại không muốn nói về vấn đề của bản thân. Ông xem đó là tự buông thả với bản thân. Ông muốn sống theo cách của mình. Để thích nghi với bàn chân sưng phồng, ông chỉ đơn giản nhờ mẹ tôi mua cho một đôi bốt bảo hộ lao động to hơn.
Chúng tôi tiếp tục bế tắc với chuyện khám chữa bệnh của cha đến hết tháng Một và tháng Hai năm đó. Cha tôi di chuyển chậm chạp trong đau đớn, ông dùng một cây nạng bằng nhôm để đi lại quanh nhà và thường phải dừng lại để lấy sức. Giờ đây ông phải mất nhiều thời gian hơn vào buổi sáng để di chuyển từ giường qua nhà tắm, từ nhà tắm vào bếp, và cuối cùng là từ bếp ra cửa sau để xuống bậc tam cấp vào ga-ra lấy xe đi làm. Bất chấp những gì diễn ra ở nhà, ông cương quyết là mọi việc ở nhà máy lọc nước đều ổn thỏa. Ông dùng một chiếc xe scooter gắn động cơ để di chuyển qua lại giữa các lò đun và tự hào về việc không ai có thể thay thế được ông. Trong hai mươi sáu năm trời, ông chưa từng nghỉ một ca làm việc nào. Nếu có lò đun nào đó bị quá nhiệt, cha tôi tuyên bố mình là một trong số ít công nhân có đủ kinh nghiệm để ngăn chặn thảm họa xảy ra một cách nhanh chóng và hiệu quả. Để thể hiện sự lạc quan của mình, mới đây ông đã nộp đơn xin được thăng chức.
Mẹ tôi và tôi cố gắng liên kết những chuyện ông kể với những điều chúng tôi tận mắt nhìn thấy. Đó là một việc càng lúc càng khó khăn hơn. Những buổi tối khi ở nhà, cha dành nhiều thời gian xem các trận bóng rổ và khúc côn cầu trên ti-vi, ông ngồi trên ghế với vẻ yếu ớt và mệt nhọc. Ngoài bàn chân, chúng tôi còn để ý thấy dường như có thứ gì khác đang sưng lên trong cổ ông và nó khiến giọng của ông run run kỳ lạ.
Cuối cùng, một đêm nọ chúng tôi quyết định phải can thiệp. Anh Craig chưa bao giờ là người đóng vai phản diện, và mẹ tôi vẫn đang giữ thái độ trung hòa do bà tự đặt ra trước vấn đề sức khỏe của cha tôi. Trong một cuộc nói chuyện như thế này, vai trò của một người cứng rắn gần như luôn rơi vào tôi. Tôi nói với cha rằng ông cần được hỗ trợ y tế, ông cần làm điều đó vì chúng tôi, và rằng tôi dự định gọi cho bác sĩ của ông vào sáng mai. Ông miễn cưỡng đồng ý và hứa là nếu tôi đã hẹn thì ông sẽ đi. Tôi động viên ông hãy ngủ thêm vào sáng hôm sau để cơ thể được nghỉ ngơi thật tốt.
Tối hôm đó, trước khi đi ngủ, tôi và mẹ cảm thấy nhẹ nhõm vì cuối cùng chúng tôi cũng giành được một chút quyền kiểm soát tình hình.
TUY NHIÊN CHA TÔI không phải lúc nào cũng giữ đúng ý định ban đầu. Nghỉ ngơi đối với ông là một hình thức đầu hàng. Buổi sáng, tôi đi xuống nhà và nhận ra mẹ tôi đã đi làm, còn cha tôi thì đang ngồi bên bàn ăn với chiếc nạng đặt ngay bên cạnh. Ông mặc bộ đồng phục màu xanh hải quân và đang vất vả mang giày. Ông đang sửa soạn đi làm.
Tôi lên tiếng, “Cha à, con nghĩ là cha sẽ nghỉ ngơi chứ. Mọi người sắp đưa cha đi khám bệnh mà…”.
Ông nhún vai. “Cha biết, cục cưng à”, ông nói với giọng lạo xạo vì vấn đề gì đó ở cổ. “Nhưng lúc này thì cha ổn.”
Sự bướng bỉnh của ông được bọc trong vô số lớp vỏ của lòng kiêu hãnh đến mức tôi không thể nào tức giận được. Không có cách nào để thuyết phục ông làm khác đi. Cha mẹ đã dạy chúng tôi phải giải quyết chuyện riêng của mình, đồng nghĩa với việc tôi phải tin tưởng để ông tự giải quyết vấn đề của ông, cho dù vào thời điểm đó ông còn không mang nổi đôi giày. Thế nên tôi đã để ông tự xử lý. Tôi kìm nén nỗi lo lắng của mình, tôi hôn ông và quay lại phòng để chuẩn bị đi làm. Tôi nghĩ mình sẽ gọi đến văn phòng của mẹ sau và nói cho bà biết là mẹ con chúng tôi cần phải lên chiến lược để buộc người đàn ông này nghỉ ngơi đôi chút.
Tôi nghe tiếng cửa sau đóng lại. Vài phút sau, tôi trở xuống nhà bếp và không thấy ai ở đó. Cây nạng của cha được đặt cạnh cửa sau. Tôi chợt cảm thấy thôi thúc để đi tới và nhìn qua lỗ kính nhỏ trên cửa, vị trí cho tôi một góc nhìn rộng ra thềm sau và lối đi ra ga-ra. Tôi chỉ muốn xác nhận là xe của ông đã rời đi.
Nhưng chiếc xe vẫn còn ở đó, và cha tôi cũng vậy. Ông đội nón lưỡi trai, mặc áo khoác và xoay lưng về phía tôi. Ông chỉ mới đi được nửa đường cầu thang thì đã phải ngồi xuống. Tôi có thể thấy sự mỏi mệt từ dáng vẻ của ông, từ cái đầu nghiêng sang một bên và từ vẻ nặng nề như sắp ngã quỵ khi ông tựa vào tay vịn cầu thang. Tình hình của ông trông không có vẻ nghiêm trọng, mà chỉ có thể là do ông quá mệt nên không thể đi tiếp được. Rõ ràng là ông đang cố gắng dồn sức để xoay người và đi trở vào trong nhà.
Tôi nhận ra rằng tôi đang nhìn thấy ông trong khoảnh khắc bại trận.
Cô đơn biết chừng nào khi phải sống hơn hai mươi năm với căn bệnh như thế, phải kiên cường không một lời phàn nàn dẫu cơ thể đang bị ăn mòn từ từ và không cách nào ngăn cản được. Nhìn thấy cha như vậy trên bậc thềm, tôi cảm thấy đau đớn hơn bao giờ hết. Theo bản năng, tôi muốn chạy ra ngoài và dìu ông vào lại ngôi nhà ấm áp, nhưng tôi cưỡng lại ý nghĩ đó vì biết rằng làm như vậy chỉ giáng thêm một đòn vào lòng tự trọng của ông. Tôi hít một hơi và xoay người bước đi.
Tôi nghĩ nếu ông quay vào nhà tôi sẽ nhìn thấy ông. Tôi sẽ giúp ông tháo đôi ủng lao động, rót nước cho ông và dìu ông vào ghế. Tất cả sẽ diễn ra trong sự công nhận ngầm giữa chúng tôi, rằng giờ đây chắc chắn ông sẽ cần được hỗ trợ.
Trở lên phòng mình, tôi ngồi lắng nghe tiếng sập cửa vang lên. Tôi chờ năm phút, rồi thêm năm phút nữa trước khi bước xuống nhà dưới và lại nhìn qua lỗ kính nhỏ để chắc chắn là ông đã có thể đứng vững. Nhưng trên bậc thềm không có ai. Bằng cách nào đó, bất chấp những chỗ sưng phù và sai biệt trong cơ thể mình, cha tôi đã quyết tâm bước xuống những bậc thang kia, băng qua lối đi đang đóng băng và ngồi vào xe của mình, chiếc xe mà giờ đây hẳn đã chạy được nửa đoạn đường đến nhà máy. Ông không bỏ cuộc.
SUỐT NHIỀU THÁNG QUA Barack và tôi đã suy đi tính lại dự định kết hôn. Chúng tôi đã bên nhau được một năm rưỡi và vẫn duy trì tình yêu có vẻ như không gì lay chuyển được. Anh ấy đang trong học kỳ cuối ở Harvard và vùi đầu trong đống công việc của tờ Harvard Law Review, nhưng chẳng bao lâu nữa anh sẽ quay về Chicago để đến Hiệp hội Luật sư Illinois và tìm việc. Kế hoạch là anh ấy sẽ quay về Đại lộ Euclid, và lần này có vẻ anh sẽ ở đây lâu dài. Đối với tôi thì đây là một lý do nữa để cảm thấy mùa đông quá lê thê.
Chúng tôi chia sẻ với nhau quan điểm cá nhân về hôn nhân, và đôi lúc tôi lo lắng khi thấy những quan điểm này có vẻ rất khác nhau. Với tôi, kết hôn là chuyện tốt đẹp, là một chuyện mà tôi luôn kỳ vọng mình sẽ thực hiện - tương tự như việc có con luôn là điều tốt đẹp, căn cứ vào sự quan tâm của tôi dành cho những em búp bê của mình hồi còn bé. Barack không phản đối hôn nhân, nhưng anh cũng không đặc biệt vội vã kết hôn. Với anh, tình yêu giữa chúng tôi là tất cả. Đó là nền tảng đủ để đảm bảo cho một cuộc sống trọn vẹn và hạnh phúc bên nhau - dù có nhẫn hay không có nhẫn.
Đương nhiên, chúng tôi là sản phẩm của quá trình nuôi dạy. Barack có trải nghiệm về hôn nhân như một cái gì đó đến rồi lại đi: mẹ anh kết hôn hai lần, ly hôn hai lần, và sau mỗi lần như vậy bà đều có thể sống tiếp, chăm lo cho sự nghiệp và con cái của mình. Trong khi đó cha mẹ tôi kết hôn sớm và trọn đời. Đối với họ, mọi quyết định đều là quyết định chung, mọi nỗ lực đều là nỗ lực chung. Trong suốt ba mươi năm, gần như họ chưa từng xa nhau.
Barack và tôi muốn gì? Chúng tôi muốn một mối quan hệ hiện đại phù hợp với cả hai. Anh xem hôn nhân là sự gắn kết yêu thương của hai con người có thể song hành với nhau trong cuộc sống mà không phải từ bỏ những giấc mơ hay tham vọng riêng. Còn với tôi, hôn nhân giống như một vụ sáp nhập trọn vẹn, một sự tái cấu trúc hai cuộc sống thành một, trong đó hạnh phúc gia đình luôn được ưu tiên hơn mọi kế hoạch hay mục tiêu nào khác. Tôi không thật sự muốn cuộc sống như cha mẹ tôi. Tôi không muốn sống mãi trong cùng một căn nhà, làm cùng một công việc và chưa bao giờ có cho mình một không gian riêng, nhưng tôi thật sự muốn có sự ổn định từ năm này sang năm khác, từ thập kỷ này sang thập kỷ khác như cha mẹ. Tôi viết trong nhật ký, “Tôi thật sự nhận ra giá trị của những con người có sở thích, tham vọng và mơ ước của riêng mình, nhưng tôi không tin là có cặp đôi nào nên đánh đổi hạnh phúc chung vì ước mơ riêng”.
Tôi nghĩ chúng tôi sẽ xác định cảm xúc của mình về chuyện hôn nhân khi Barack quay lại Chicago, khi thời tiết ấm lên, khi chúng tôi lại có những cuối tuần bên nhau. Tôi chỉ cần chờ đợi, dù đợi chờ thật khó khăn. Tôi khao khát sự bền vững. Từ phòng khách căn hộ trên lầu của mình, đôi khi tôi có thể nghe tiếng cha mẹ rì rầm với nhau bên dưới. Tôi nghe thấy mẹ cười lớn khi cha tôi kể chuyện cho bà nghe. Tôi nghe thấy họ tắt ti-vi để chuẩn bị đi ngủ. Giờ đây tôi đã hai mươi bảy tuổi, và có những ngày tất cả những gì tôi muốn là cảm thấy được trọn vẹn. Tôi muốn nắm bắt từng thứ mà tôi yêu thương và giữ chúng thật chặt. Tính tới thời điểm đó, tôi đã nếm đủ mất mát để hiểu rằng sẽ còn nhiều mất mát sắp tới.
TÔI LÀ NGƯỜI ĐÃ HẸN bác sĩ cho cha, nhưng rốt cuộc thì mẹ mới là người đưa ông tới đó - trên xe cứu thương. Chân ông đã phồng lên và nhũn tới mức ông phải thú nhận là việc bước đi trên đôi chân của mình có cảm giác như đang giẫm lên kim. Khi đến lúc phải nhập viện, ông không thể nào đứng nổi. Hôm đó tôi đang ở công ty, nhưng về sau mẹ đã diễn tả lại cho tôi rằng cha được các hộ lý lực lưỡng khiêng ra khỏi nhà, và ông vẫn còn cố nói đùa với họ trên đường đi.
Ông được chở thẳng đến Bệnh viện Đại học Chicago. Sau đó là những chuỗi ngày dành cho việc thử máu, kiểm tra mạch, những khay thức ăn vẫn còn nguyên và hàng chục bác sĩ ra ra vào vào. Trong lúc đó, cơ thể cha tôi tiếp tục phù lên. Mặt ông chảy xệ, cổ to ra, giọng nói yếu ớt hẳn đi. Chẩn đoán chính thức của bác sĩ là cha tôi mắc hội chứng Cushing, có thể liên quan hoặc không liên quan đến chứng đa xơ cứng của ông. Hệ nội tiết của ông giờ đây đã rối loạn. Một bản chụp cắt lớp cho thấy trong cổ của ông có một khối u lớn tới mức có thể làm ông nghẹt thở.
“Tôi không biết tại sao mình lại không nhận thấy là ở đó có khối u”, cha tôi nói với bác sĩ bằng giọng ngạc nhiên như thật, như thể ông chưa từng cảm thấy bất kỳ triệu chứng nào dẫn tới tình trạng hiện tại, như thể ông chưa từng trải qua hàng tuần, hàng tháng, nếu không muốn nói hàng năm trời, phớt lờ những đau đớn của mình.
Chúng tôi - mẹ, anh Craig, chị Janis và tôi - thay nhau vào thăm nuôi ông ở bệnh viện. Chúng tôi thay phiên nhau vào viện suốt nhiều ngày liên tục, trong lúc bác sĩ cho ông uống đủ thứ thuốc và đủ loại ống dẫn cũng như thiết bị được gắn lên người ông. Chúng tôi cố gắng hiểu những gì các chuyên gia nói với mình, nhưng không hiểu được bao nhiêu. Chúng tôi kê gối cho ông và kể những chuyện vô bổ về các trận bóng rổ ở trường đại học và về thời tiết bên ngoài. Dù ông không còn đủ sức để nói nhưng chúng tôi biết ông đang lắng nghe. Chúng tôi là một gia đình biết lập kế hoạch, nhưng giờ đây dường như mọi chuyện đều không còn theo kế hoạch gì nữa. Cha đang dần rời xa chúng tôi, như thể đang chìm dần vào một đại dương vô hình nào đó. Chúng tôi níu kéo bằng cách gợi lại những kỷ niệm xưa và nhìn thấy chúng có thể gợi lên chút ánh sáng trong đôi mắt ông. Cha còn nhớ chiếc Deuce and a Quarter mà hai anh em tụi con từng nhảy nhót tưng bừng trên băng ghế to kềnh đằng sau mỗi lần nhà mình đi du lịch vào mùa hè không? Cha còn nhớ đôi găng tay đấm bốc mà cha mua cho tụi con không, và cả hồ bơi ở Khu nghỉ dưỡng Dukes Happy Holiday nữa? Vậy cha có nhớ đã từng làm đạo cụ cho lớp dạy operetta của bà Robbie không? Hay những bữa ăn ở nhà ông Dandy? Cha còn nhớ hồi mẹ làm món tôm chiên xù vào đêm Giao thừa không?
Một tối nọ, tôi ghé thăm và thấy cha tôi một mình, còn mẹ đã về nhà, nhân viên điều dưỡng thì tập trung ở phòng trực ngoài hành lang. Căn phòng yên ắng. Cả tầng bệnh viện đều yên ắng. Đó là tuần đầu tiên của tháng Ba, khi tuyết mùa đông mới vừa tan khiến cả thành phố như rơi vào tình trạng ẩm ướt không bao giờ dứt. Cha tôi khi ấy đã nằm viện khoảng mười ngày. Ông mới năm mươi lăm tuổi nhưng giờ đây trông như một cụ già với đôi mắt vàng vọt và đôi cánh tay nặng nề đến mức không thể nhấc lên nổi. Ông tỉnh táo nhưng không thể nói được - vì tình trạng phù nề hay vì cảm xúc, tôi cũng không biết nữa.
Tôi ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh giường ông và nhìn ông hít thở nặng nhọc. Ông siết nhẹ tay tôi để trấn an khi tôi đặt tay mình vào tay ông. Cha con tôi im lặng nhìn nhau. Có quá nhiều điều cần nói, nhưng đồng thời chúng tôi cũng có cảm giác như thể mình đã nói hết mọi điều. Chỉ còn lại một thực tế duy nhất. Chúng tôi đang đi đến hồi kết. Ông sẽ không bình phục. Ông sẽ bỏ lỡ cả phần đời còn lại của tôi. Tôi đang mất đi sự an ổn, sự dễ chịu và vui vẻ mà ông vẫn mang đến mỗi ngày. Tôi cảm nhận nước mắt tôi đang lăn dài trên má.
Cha vẫn nhìn tôi chăm chăm, ông nâng bàn tay của tôi lên và liên tục hôn tay tôi. Đó là cách ông nói, Ngoan nào, đừng khóc. Ông đang thể hiện nỗi buồn thương và sự khẩn nài, và ông cũng đang bày tỏ điều gì đó điềm tĩnh và sâu kín hơn, một thông điệp mà ông muốn tôi hiểu rõ. Bằng những nụ hôn ấy, ông đang nói rằng ông hết lòng thương yêu tôi và ông tự hào về người phụ nữ mà tôi đã trở thành. Ông đang nói rằng ông biết mình phải đến bệnh viện sớm hơn. Ông đang xin sự tha thứ. Ông đang nói lời từ biệt.
Đêm đó, tôi ở lại đến khi ông ngủ thiếp đi rồi mới rời khỏi bệnh viện giữa màn đêm buốt giá và lái xe về nhà trên Đại lộ Euclid, nơi mẹ tôi đã tắt hết đèn. Giờ đây chúng tôi cô độc trong ngôi nhà của mình, chỉ có tôi và mẹ, cùng với một tương lai nào đó mà chúng tôi sắp đón nhận. Bởi vì trước khi mặt trời mọc, cha tôi đã ra đi. Cha tôi - Fraser Robinson III - lên cơn đau tim và đã qua đời vào đêm đó, ông đã trao cho chúng tôi tất cả mọi thứ.