K
HI NGƯỜI THÂN YÊU QUA ĐỜI, cuộc sống của người ở lại mới đau đớn làm sao. Ta thấy đau khi bước đi trên hành lang hoặc khi mở tủ lạnh. Ta thấy đau khi ngồi xuống mang vớ, khi đánh răng. Thức ăn trở nên vô vị. Màu sắc trở nên nhạt nhòa. Âm nhạc khiến ta nhói đau, và ký ức càng khiến ta đau đớn. Ta nhìn một điều gì đó mà bình thường thì nó rất đẹp - như bầu trời hoàng hôn màu tím hay một sân chơi có bọn trẻ nô đùa - nhưng giờ đây nó chỉ khiến nỗi mất mát thêm sâu. Nỗi đau này khiến ta cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết.
Một ngày sau khi cha qua đời, ba mẹ con chúng tôi - tôi, mẹ và anh Craig - lái xe tới một công ty dịch vụ mai táng ở South Side để chọn một cỗ quan tài và chuẩn bị cho tang lễ. Để thu xếp hậu sự, theo lời những người bên công ty mai táng. Tôi không nhớ gì nhiều về chuyến đi đó, chỉ nhớ cảm giác sững sờ và bần thần, vì ai cũng đang gặm nhấm nỗi đau riêng trong lòng. Dẫu thế, khi chúng tôi thực hiện cái nghi thức đáng sợ là chọn một cỗ quan tài vừa vặn để chôn cất cha, anh em tôi đã có cuộc tranh cãi đầu tiên và duy nhất kể từ khi cả hai trưởng thành.
Tôi muốn mua chiếc quan tài sang trọng và đắt tiền nhất ở đó, loại có đủ tay nâng và đệm. Tôi không có lý do đặc biệt nào cho ý muốn này. Đó chỉ là chuyện tôi muốn làm khi không biết làm gì khác. Chúng tôi đã được dạy phải tin vào sự tồn tại của thiên đàng và địa ngục, vì vậy tôi nghĩ là cha tôi đang trên đường về một cõi sau nào đó. Tuy nhiên, tính thực tế và thực dụng mà tôi được dạy từ nhỏ lại không cho phép tôi quá tin vào những lời an ủi khuôn sáo dù nhẹ nhàng và thiện ý mà người ta sẽ đổ đầy tai chúng tôi chỉ vài ngày sau đó trong tang lễ. Tôi không dễ cảm thấy an ủi với ý nghĩ cha tôi đã đến một nơi tốt đẹp hơn hoặc đang quây quần bên những thiên thần. Theo quan điểm của tôi, ông xứng đáng có một cỗ quan tài đẹp trước đã.
Trong khi đó, anh Craig lại khăng khăng rằng cha chỉ muốn cái gì đó đơn giản - khiêm tốn, thực tế và không hơn. Anh ấy nói như vậy mới đúng với tính cách của cha. Bất cứ cái gì khác cũng là quá phô trương.
Ban đầu chúng tôi chỉ tranh luận nhẹ nhàng, nhưng chẳng bao lâu sau đã to tiếng với nhau, trong lúc đó, ông chủ tiệm quan tài hiểu chuyện giả vờ không nghe thấy gì, còn mẹ vẫn cứ nhìn hai chúng tôi bằng ánh mất đờ đẫn vì nỗi đau trong lòng. Chúng tôi cãi nhau vì những lý do không hề liên quan tới chủ đề chính. Cả hai chúng tôi đều không quan tâm tới kết quả của trận cãi vã đó.
Cuối cùng, chúng tôi chôn cất cha trong một cỗ quan tài “vừa đủ” - không quá màu mè, cũng chẳng quá đơn điệu - và không bàn về chuyện đó nữa. Chúng tôi đã có một cuộc tranh cãi ngớ ngẩn và không đáng có, vì khi đối mặt với cái chết thì mọi sự trên đời đều có vẻ ngớ ngẩn và không phù hợp.
Sau đó anh Craig và tôi đưa mẹ về Đại lộ Euclid. Ba mẹ con tôi rã rời ngồi trong nhà bếp, và nỗi đau thương trong chúng tôi lại trỗi dậy khi nhìn thấy chiếc ghế thứ tư còn trống. Chẳng mấy chốc, cả ba chúng tôi đều sụt sùi. Chúng tôi ngồi đó, rất lâu, thổn thức cho đến khi kiệt sức và cạn nước mắt. Sau một ngày dài không nói gì, sau cùng mẹ tôi cũng lên tiếng.
“Nhìn chúng ta mà xem”, bà rầu rĩ.
Thế nhưng câu nói đó của bà nghe nhẹ nhàng, không sầu thảm hay nặng nề. Bà nói rằng ba người còn lại trong gia đình Robinson chúng tôi đã trở nên nhếch nhác đến buồn cười - mặt mũi gần như không còn nhận ra được nữa, mắt sưng húp, mũi chảy thò lò, đau đớn, bất lực một cách kỳ lạ ngay trong gian bếp nhà mình. Chúng tôi là ai? Chẳng phải chúng tôi đã biết rồi sao? Chẳng phải cha đã cho chúng tôi thấy rồi sao? Chỉ với vài từ đơn giản, mẹ đã đưa chúng tôi ra khỏi nỗi cô đơn và quay trở lại với cuộc sống, một việc mà chỉ có mẹ tôi có thể làm được.
Mẹ nhìn tôi và tôi nhìn anh Craig, bỗng nhiên giây phút đó có chút buồn cười. Chúng tôi biết tiếng cười đầu tiên sẽ đến từ phía chiếc ghế nay đã trống kia như thường lệ. Thế rồi chúng tôi bắt đầu cười khúc khích, cười lớn hơn nữa và cuối cùng cười phá lên thành những tràng dài. Tôi biết chuyện này có vẻ lạ lùng, nhưng chúng tôi cảm thấy cười thích hợp với mình hơn là khóc. Quan trọng là cha cũng thích như vậy, thế nên chúng tôi cứ để mình cười.
CHA QUA ĐỜI càng khiến tôi cảm nhận sâu sắc việc không có thời gian để ngồi suy nghĩ vẩn vơ xem cuộc đời mình sẽ ra sao. Cha tôi ra đi khi mới năm mươi lăm tuổi. Suzanne thì mới hai mươi sáu. Bài học ở đây rất đơn giản: cuộc sống ngắn ngủi nên đừng phí hoài. Khi tôi qua đời, tôi không muốn người ta nhớ về tôi qua hàng chồng báo cáo pháp lý tôi đã viết ra hay những thương hiệu mà tôi đã góp công bảo vệ. Tôi có cảm giác chắc chắn là mình có thể cống hiến nhiều thứ cho thế giới hơn. Đã tới lúc phải hành động.
Dù chưa biết chắc nơi mình muốn làm việc nhưng tôi vẫn viết thư tự giới thiệu và gửi đến những nhà tuyển dụng ở khắp Chicago. Tôi gửi đến những nhà lãnh đạo các quỹ, các tổ chức phi lợi nhuận phục vụ cộng đồng và các trường đại học lớn trong thành phố. Tôi liên hệ trực tiếp với ban pháp lý của họ - không phải vì tôi muốn làm việc trong mảng pháp lý, mà vì tôi nghĩ làm vậy thì họ sẽ thường phản hồi hồ sơ của tôi hơn. Thật may, cũng có một số nơi trả lời. Họ mời tôi dùng bữa trưa hoặc đến gặp mặt, ngay cả khi họ chẳng có việc gì dành cho tôi. Suốt mùa xuân và mùa hè năm ١٩٩١, tôi đến gặp bất kỳ người nào mà tôi nghĩ có thể cho tôi lời khuyên. Mục đích chính của tôi không phải là tìm một công việc mới, mà là để hiểu thêm về những việc khả thi và cách người ta đã thực hiện những việc đó như thế nào. Tôi nhận ra rằng chặng kế tiếp trong hành trình của tôi sẽ đơn giản là không tự khai mở và những tấm bằng danh giá của tôi sẽ không tự động mang đến cho tôi công việc mình mong muốn. So với tìm một công việc, hành trình tạo dựng sự nghiệp đòi hỏi bạn không chỉ đọc hết mấy trang thông tin liên lạc trong danh bạ cựu sinh viên, mà còn phải có những suy nghĩ và hành động thấu đáo hơn nhiều. Tôi cần dấn thân và học hỏi. Và thế là hết lần này đến lần khác, tôi trình bày tình thế lưỡng nan trong sự nghiệp của mình cho những người tôi gặp, hỏi về những điều họ đã làm và những nhân vật mà họ quen biết. Tôi nghiêm túc hỏi xem một luật sư không muốn hành nghề luật thì có thể làm những gì.
Một chiều nọ, tôi tới văn phòng của một người đàn ông thân thiện, chu đáo tên Art Sussman, cố vấn pháp lý nội bộ của Đại học Chicago. Hóa ra mẹ tôi từng có một năm làm thư ký cho ông, trong thời gian đó bà phụ trách ghi chép và bảo quản hồ sơ của phòng pháp lý. Đó là hồi tôi học năm thứ hai trung học, trước khi mẹ tôi nhận công việc ở ngân hàng. Chú Art ngạc nhiên khi biết tôi chưa từng tới chỗ làm để thăm mẹ, chưa từng đặt chân vào ngôi trường thuần phong cách Gothic này cho tới tận hôm nay, mặc dù nơi này chỉ cách nơi tôi lớn lên có vài cây số.
Nói thật thì tôi không có lý do gì để tới thăm trường Đại học Chicago. Trường trung học của tôi không tổ chức đi thực tế ở đây. Nếu hồi đó trường có tổ chức các sự kiện văn hóa cho cộng đồng thì có lẽ là gia đình tôi đã không nghe được thông tin. Chúng tôi không có bạn bè hay người quen học ở đó. Đại học Chicago là một ngôi trường tinh hoa, và với hầu hết những người mà tôi quen, tinh hoa nghĩa là không dành cho chúng tôi. Những tòa nhà đá xám của trường gần như ngoảnh mặt với các con đường bao quanh theo đúng nghĩa đen. Mỗi lần lái xe ngang qua đó, cha tôi thường trợn mắt ngán ngẩm khi thấy những nhóm sinh viên băng qua Đại lộ Ellis một cách ẩu tả, tự hỏi làm thế nào mà những con người thông minh như vậy lại chẳng bao giờ học được cách băng qua đường cho tử tế.
Cũng như nhiều người ở South Side, gia đình tôi vẫn giữ một quan điểm mà ai cũng thừa nhận là hạn hẹp và hoài nghi về Đại học Chicago, kể cả khi mẹ tôi đã có một năm làm việc vui vẻ ở đó. Khi tới lượt anh Craig và tôi học đại học, chúng tôi thậm chí còn không nghĩ tới chuyện nộp đơn vào Đại học Chicago. Vì một lý do kỳ lạ nào đó, trường Princeton lại cho chúng tôi cảm giác dễ tiếp cận hơn.
Khi biết tôi thật sự chưa từng đến đây, chú Art cảm thấy không sao tin nổi. “Cháu thật sự chưa bao giờ đến đây sao?”, ông hỏi. “Chưa bao giờ luôn hả?”
“Chưa bao giờ ạ.”
Tôi cảm nhận được một sức mạnh kỳ lạ khi dõng dạc trả lời câu đó. Dù trước đây chưa từng nghĩ nhiều về điều này, nhưng tôi chợt nhận ra mình đã có thể trở thành một sinh viên hoàn toàn ổn ở Đại học Chicago nếu khoảng cách giữa nhà trường và cộng đồng dân cư xung quanh đã không quá lớn như thế - giá như tôi đã biết đến ngôi trường và ngôi trường cũng biết đến tôi. Nghĩ đến đây, tôi cảm nhận được một điều gì đó là lạ trong lòng, một ý định nào đó đang lặng lẽ đâm chồi. Xuất thân của tôi cùng với cuộc sống mà tôi tự tay tạo dựng đã giúp tôi có một góc nhìn ý nghĩa. Tôi chợt nhận ra việc mình là người da đen và đến từ South Side đã giúp tôi thấy được những vấn đề mà một người như chú Art Sussman thậm chí còn không biết là có tồn tại.
Vài năm sau đó tôi mới có cơ hội làm việc cho Đại học Chicago và trực tiếp xử lý một số vấn đề về mối quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng, còn hiện tại thì chú Art chỉ có thể chuyển hồ sơ của tôi cho những người mà ông quen biết.
“Chú nghĩ cháu nên nói chuyện với Susan Sher”, ông nói và vô tình bắt đầu một điều mà đến tận hôm nay tôi vẫn cho là một dây chuyền phản ứng đầy cảm hứng. Chị Susan hơn tôi khoảng mười lăm tuổi. Chị là một luật sư có cổ phần tại một hãng luật lớn nhưng cuối cùng đã quyết định rút khỏi giới kinh thương, một điều mà tôi đang hy vọng sẽ làm được, mặc dù chị ấy vẫn đang hành nghề luật khi làm việc cho chính quyền thành phố Chicago. Chị Susan có đôi mắt xám đen, làn da sáng đặc trưng của nữ hoàng thời Victoria và giọng cười thường kết thúc với một cái khịt mũi tinh nghịch. Chị ấy tự tin một cách từ tốn, rất thành công và là người sau này đã trở thành bạn thân thiết của tôi. Khi chúng tôi gặp nhau, chị ấy đã nói, “Chị có thể thuê em ngay bây giờ nhưng em vừa nói là em không muốn làm luật sư nữa”.
Thay vào đó, chị Susan đã đưa ra một lời đề nghị mà giờ đây tôi cảm thấy cũng là một lời giới thiệu không kém tính “định mệnh” - chị gợi ý tôi mang hồ sơ đến gặp một đồng nghiệp mới của chị ở tòa thị chính, một luật sư doanh nghiệp “nhảy tàu” khác với khát khao được phục vụ cộng đồng, đồng thời cũng là một người đồng hương ở South Side và là người sau này đã thay đổi cuộc đời tôi không chỉ một mà rất nhiều lần. Chị Susan nói, “Người mà em thật sự cần gặp chính là Valerie Jarrett”.
Valerie Jarrett là phó chánh văn phòng thị trưởng Chicago vừa được bổ nhiệm và có những mối quan hệ sâu sắc với cộng đồng người Mỹ gốc Phi ở Chicago. Giống như Susan, chị đủ thông minh để tìm cho mình công việc tại một hãng luật cao cấp sau khi tốt nghiệp trường luật và sau đó cũng đủ hiểu bản thân để biết là mình muốn thoát ra khỏi môi trường doanh nghiệp. Valerie chuyển sang làm việc cho tòa thị chính chủ yếu nhờ nguồn cảm hứng từ Harold Washington, người Mỹ gốc Phi đầu tiên được bầu làm thị trưởng năm 1983, khi tôi đang học đại học xa nhà. Harold Washington là một chính trị gia có tài thuyết khách và tinh thần cởi mở. Cha mẹ tôi yêu mến ông vì cách ông thêm những câu trích của Shakespeare vào một bài diễn thuyết vốn rất bình dân và bởi nguồn năng lượng tràn trề mà ông thể hiện qua việc ăn gà chiên tại các sự kiện cộng đồng ở South Side. Quan trọng hơn cả, ông ấy không ưa bộ máy hủ lậu của Đảng Dân chủ đã kiểm soát Chicago từ rất lâu, một cỗ máy chuyên trao những hợp đồng béo bở cho các mạnh thường quân chính trị và nhìn chung là vẫn cho người da đen phục vụ trong hàng ngũ của đảng nhưng không cho họ được thăng tiến lên những vị trí bầu cử chính thức.
Với chiến dịch tranh cử xoay quanh việc cải cách hệ thống chính trị thành phố và chăm lo tốt hơn cho những khu dân cư bị bỏ bê, Washington đã đắc cử với khoảng cách sít sao. Ông là kiểu người gan lì. Ông có thể hạ gục các đối thủ bằng tài hùng biện lẫn trí tuệ của mình. Ông là một siêu anh hùng da đen có đầu óc siêu việt. Ông thường xuyên và không chút nao núng xung đột với những thành viên bảo thủ nhất của hội đồng thành phố, mà đa phần là người da trắng. Ông cũng được xem là một huyền thoại sống, nhất là đối với những công dân da đen của thành phố, những người cho rằng sự lãnh đạo của ông đang khơi dậy một tinh thần cấp tiến to lớn hơn. Tầm nhìn của Washington đã sớm trở thành nguồn cảm hứng cho Barack khi anh đến Chicago làm việc với vai trò người tổ chức sự kiện cộng đồng vào năm 1985.
Valerie cũng bị Washington cuốn hút. Khi gia nhập đội ngũ vào đầu nhiệm kỳ thứ hai của ông năm 1987, chị mới ba mươi tuổi. Chị cũng là mẹ của một bé gái và sắp ly hôn, thế nên quyết định từ bỏ công việc hấp dẫn ở hãng luật và chấp nhận bị giảm thu nhập để chuyển qua làm việc cho cơ quan nhà nước vào thời điểm đó là vô cùng bất lợi cho chị. Và chỉ sau vài tháng kể từ khi chị bắt đầu công việc, bi kịch đã xảy đến: Harold Washington đột ngột lên cơn đau tim và qua đời ngay tại bàn làm việc, chỉ ba mươi phút sau khi vừa tiến hành một cuộc họp báo về dự án nhà ở cho người có thu nhập thấp. Kết quả là một ủy viên người da đen đã được hội đồng thành phố bổ nhiệm vào vị trí của ông, nhưng thời gian tại chức của ông ấy khá ngắn ngủi. Trong một động thái mà nhiều người Mỹ gốc Phi xem là sự trở lại chóng vánh và đầy thất vọng với những lề thói cũ của người da trắng trong nền chính trị Chicago, cử tri đã bầu cho Richard M. Daley, con trai của nguyên Thị trưởng Richard J. Daley, người được xem là “bố già” của chủ nghĩa thân hữu có tiếng tại Chicago.
Dù có một số nghi ngại về cơ cấu mới, Valerie vẫn quyết định làm việc ở tòa thị chính, chị rời bộ phận pháp lý và chuyển thẳng vào văn phòng Thị trưởng Daley. Chị vui khi được làm việc ở đó, mà sự tương phản giữa hai công việc cũng là một phần lý do. Chị mô tả về sự nhẹ nhõm khi chuyển dịch từ mảng luật doanh nghiệp sang cơ quan chính phủ, giống như một cú nhảy vọt ra khỏi thứ luật pháp phi thực tế siêu bóng bẩy của tầng lớp thượng lưu, thứ đang được thực thi trong những tòa nhà chọc trời, và bước vào thế giới thật - một thế giới rất thật.
Tòa thị chính Chicago và Trụ sở Chính quyền Hạt là một tòa nhà mái bằng có mười một tầng được xây bằng đá granite xám nguyên khối chiếm trọn một dãy phố giữa đường Clark và đường LaSalle ở phía bắc của The Loop. So với những tòa tháp văn phòng cao chót vót xung quanh, tòa nhà trông thấp bé nhưng rất trang nghiêm với hàng cột kiểu Corinth bên ngoài và những hành lang rộng thênh thang được làm chủ yếu từ đá cẩm thạch. Bộ máy chính quyền hạt vận hành nửa tòa nhà quay mặt về hướng đông; thành phố sử dụng nửa tòa nhà phía tây, nơi có phòng làm việc của thị trưởng và các thành viên hội đồng thành phố cũng như thư ký thành phố. Vào cái ngày hè oi ả mà tôi đến để gặp Valerie Jarrett trong buổi phỏng vấn, tôi mới biết tòa thị chính rất đông đúc, theo kiểu vừa đáng mừng vừa đáng báo động.
Có người đến đăng ký kết hôn, có người đến để đăng ký xe. Người ta đến điền vào những bản khiếu nại về ổ gà trên đường phố, về chủ nhà, về đường ống cống và tất tần tật mọi thứ khác mà họ cảm thấy thành phố có thể cải thiện. Có những đứa trẻ nằm trong xe đẩy và những cụ già ngồi xe lăn. Có phóng viên và những nhà vận động hành lang, và cũng có những người vô gia cư đến để tránh nóng. Trên lối đi phía trước tòa nhà, một nhóm những nhà hoạt động xã hội đang giương biểu ngữ và hô hào điều gì đó, nhưng tôi không nhớ họ đang giận dữ chuyện gì. Tôi chỉ biết là mình vừa kinh ngạc vừa hoàn toàn bị cuốn hút bởi sự hỗn loạn có kiểm soát kỳ lạ của nơi này. Tòa thị chính thuộc về con người. Nó có sự ồn ào và gai góc quen thuộc mà tôi chưa từng cảm nhận được ở Sidley.
Hôm đó, Valerie dự định dành hai mươi phút để trò chuyện với tôi, nhưng rốt cuộc chúng tôi đã nói đến một tiếng rưỡi đồng hồ. Valerie là một phụ nữ Mỹ gốc Phi có dáng người gầy, da sáng, hôm đó chị mặc com-lê đặt may tuyệt đẹp. Chị nói năng nhỏ nhẹ và cực kỳ điềm tĩnh. Đôi mắt nâu của chị ánh lên nét tinh anh và tĩnh lặng. Chị cũng có một sự am hiểu ấn tượng về cách vận hành của thành phố Chicago. Chị yêu thích công việc của mình nhưng không tìm cách né tránh những nhức nhối mang tính quan liêu đặc thù trong cơ quan chính phủ. Có một điều gì đó ở chị khiến tôi cảm thấy thoải mái ngay lập tức. Nhiều năm sau, Valerie nói rằng chị ngạc nhiên khi tôi có thể đảo ngược quy trình phỏng vấn nhân sự cơ bản vào ngày hôm đó - tôi cho chị biết một số thông tin cơ bản và hữu ích về bản thân, nhưng bên cạnh đó tôi cũng chất vấn chị rất nhiều vì muốn biết mọi cảm nhận của chị về công việc đang làm và về cách ngài thị trưởng đối xử với nhân viên. Tôi kiểm tra mức độ phù hợp của công việc đối với mình không kém gì chị kiểm tra độ phù hợp của tôi đối với công việc.
Giờ đây khi nghĩ lại, tôi chắc chắn là khi đó tôi chỉ tận dụng một cơ hội hiếm hoi mà mình có để trò chuyện với một phụ nữ có xuất thân tương tự như tôi và đang đi trước tôi nhiều năm trên con đường sự nghiệp. Valerie có sự điềm tĩnh, táo bạo và khôn ngoan mà tôi hiếm khi thấy ở những người mình từng gặp. Tôi lập tức nhận ra chị là một người để tôi học hỏi và ở gần.
Trước khi tôi ra về, chị ngỏ ý mời tôi tham gia vào đội ngũ nhân viên của chị trong vai trò trợ lý Thị trưởng Daley và có thể bắt đầu công việc ngay khi tôi sẵn sàng. Tôi sẽ không còn hành nghề luật. Lương của tôi sẽ là sáu mươi ngàn đô-la một năm, khoảng phân nửa mức lương tôi đang có ở Sidley & Austin. Chị khuyên tôi nên dành thêm thời gian suy nghĩ xem tôi có thật sự sẵn sàng cho thay đổi này hay không. Đó là một cơ hội đáng cân nhắc, một cơ hội mà tôi quyết định nắm bắt.
Chưa bao giờ tôi đánh giá cao tòa thị chính. Là một người da đen trưởng thành ở South Side, tôi hầu như không tin vào chính trị. Từ trước đến nay chính trị thường được dùng để chống lại người da đen, như một phương tiện để cô lập và loại trừ chúng tôi, khiến chúng tôi không nhận được sự giáo dục xứng đáng, phải chịu cảnh thất nghiệp và nhận đồng lương thấp hơn năng lực của mình. Ông bà tôi từng sống qua thời khiếp đảm của các đạo luật Jim Crow, hứng chịu đủ sự nhục nhã từ nạn phân biệt đối xử liên quan đến nhà đất, và về cơ bản thì họ không tin tưởng bất kỳ cơ chế chính quyền nào. (Nếu bạn còn nhớ, ông Southside đã nghĩ rằng đến cả nha sĩ cũng muốn làm hại ông.) Cha tôi, người cả đời làm công chức nhà nước, đã phải phục vụ trong vị trí trưởng khu Đảng Dân chủ để có cơ hội thăng tiến trong công việc. Ông thích phần trách nhiệm xã hội của vai trò trưởng khu mà mình đảm nhiệm, nhưng luôn thất vọng trước chủ nghĩa thân hữu mà tòa thị chính áp dụng.
Vậy mà bỗng nhiên tôi lại đang cân nhắc một công việc trong tòa thị chính. Tôi băn khoăn khi thu nhập sẽ giảm, nhưng theo bản năng mà nói thì tôi cảm thấy một sự tò mò thích thú. Tôi đang cảm thấy một nỗi nhức nhối khác, một cú hích âm thầm đẩy tôi tới một tương lai có thể hoàn toàn khác so với những gì tôi đã vạch ra. Tôi gần như đã sẵn sàng để thực hiện cú chuyển mình đó, chỉ trừ một việc. Bây giờ tôi không còn một mình nữa. Khi chị Valerie gọi tôi vài ngày sau đó, tôi nói với chị là tôi vẫn đang cân nhắc. Sau đó tôi đã hỏi chị một câu mà bản thân tôi còn cảm thấy là khá kỳ lạ. Tôi nói, “Em có thể giới thiệu chị với chồng sắp cưới của em được không?”.
TÔI NGHĨ TÔI NÊN dừng lại một chút ở đây để đưa tất cả chúng ta quay về mùa hè oi ả năm ấy, về sự xáo trộn của những tháng ngày dài sau khi cha tôi qua đời. Barack đã bay đến Chicago để ở bên tôi lâu nhất có thể trong khoảng thời gian tang lễ của cha tôi, rồi anh quay về để hoàn tất chương trình học ở Harvard. Sau khi tốt nghiệp vào cuối tháng Năm, anh thu dọn đồ đạc, bán chiếc Datsun màu vàng chuối của mình và bay về Chicago, đến trình diện tại địa chỉ 7436 Đại lộ Nam Euclid, ngã vào vòng tay tôi. Tôi yêu anh. Tôi cảm thấy được anh yêu thương. Chúng tôi đã trải qua gần hai năm yêu xa, và cuối cùng thì giờ đây chúng tôi có thể trở thành một cặp yêu-gần. Như thế nghĩa là chúng tôi lại có những dịp cuối tuần nằm nướng trên giường, đọc báo, đi ăn sáng muộn và chia sẻ mọi tâm tình. Chúng tôi có thể dùng bữa tối nóng sốt vào thứ Hai, thứ Ba, thứ Tư và cả thứ Năm nữa. Chúng tôi có thể đi chợ và ngồi gấp quần áo trong lúc xem ti-vi. Giờ đây, vào những buổi tối khi tôi vẫn còn rưng rưng nỗi đau mất cha, Barack có thể ôm tôi và hôn lên trán tôi.
Barack cảm thấy nhẹ người khi học xong trường luật, anh hăm hở ra khỏi môi trường học thuật trừu tượng và bắt tay vào những công việc vừa hấp dẫn vừa thực tế hơn. Anh cũng thuyết phục được một nhà xuất bản ở New York tin vào tính khả thi của ý tưởng viết một quyển sách xoay quanh vấn đề chủng tộc và nhân dạng, điều mà một người tôn sùng sách vở như anh cảm thấy là một lợi ích to lớn. Anh được ứng trước một khoản tiền và có khoảng một năm để hoàn thành bản thảo.
Barack dường như luôn có rất nhiều phương án lựa chọn. Danh tiếng của anh - những lá thư giới thiệu đầy ưu ái từ các giáo sư của anh trong trường luật, câu chuyện trên tờ New York Times viết về việc anh được chọn làm chủ biên tập san Harvard Law Review - có vẻ đã mang đến cho anh hàng loạt cơ hội. Đại học Chicago tỏ ý muốn mời anh gia nhập chương trình giảng viên không lương và được sử dụng một văn phòng nhỏ trong năm đó - ý định của họ là anh sẽ viết sách ở đó và biết đâu cuối cùng sẽ ký hợp đồng giảng dạy trong vai trò trợ giảng ở trường luật của họ. Với hy vọng chiêu mộ được Barack về làm toàn thời gian, đồng nghiệp của tôi ở Sidley & Austin đã cho anh sử dụng một bàn làm việc trong khoảng tám tuần trước khi Barack tham gia kỳ thi vào đoàn luật sư vào tháng Bảy. Giờ đây anh cũng đang cân nhắc công việc tại Davis, Miner, Barnhill & Galland, một hãng luật công ích quy mô nhỏ chuyên về quyền công dân và bình đẳng về nhà ở, cũng là nơi có những luật sư có quan điểm gần với Harold Washington, mà đây lại là một sức hút lớn đối với Barack.
Barack là người nhìn thấy những cơ hội bất tận và chẳng bao giờ bận tâm thắc mắc liệu chúng có cạn kiệt hay không. Anh đã tận tâm tận lực để có được kết quả như ngày nay, nhưng anh không so sánh thành tích hay sự tiến bộ của bản thân với người khác như rất nhiều người mà tôi từng biết - hoặc như tôi thỉnh thoảng vẫn làm. Đôi khi anh dường như lãng quên cuộc sống tranh giành hơn thua ngoài kia, cùng với tất cả những thứ vật chất mà một luật sư tuổi ba mươi thường theo đuổi, chẳng hạn như một chiếc xe không khiến họ cảm thấy xấu hổ, một ngôi nhà có sân ở vùng ngoại ô hay một căn hộ phô trương ở trung tâm thành phố. Tôi đã quan sát thấy đặc điểm này nơi anh từ trước, nhưng giờ đây khi chúng tôi sống cùng nhau và khi tôi đang cân nhắc thực hiện bước chuyển mình đích thực đầu tiên của bản thân, tôi càng cảm thấy trân trọng đặc điểm này hơn.
Nói ngắn gọn thì Barack có lòng tin trong khi những người khác thì không. Anh ấy có một niềm tin đơn giản và vững chắc là nếu bạn giữ vững nguyên tắc của mình, mọi thứ sẽ suôn sẻ. Đến thời điểm này, tôi đã có rất nhiều cuộc trò chuyện hữu ích với rất nhiều người, xoay quanh việc làm thế nào để có thể rút lui khỏi một sự nghiệp có vẻ đang tiến triển tốt đẹp. Và rất nhiều lần tôi đã thấy vẻ lo ngại của họ khi tôi nói về những món nợ phải trả hoặc về việc chưa thể mua được một căn nhà. Tôi không khỏi nghĩ đến cách mà cha tôi đã cố tình giữ những mục tiêu của ông ở mức thật khiêm tốn, tránh mọi rủi ro để mang đến cho gia đình chúng tôi sự yên ổn. Tôi vẫn đang sống theo lời khuyên của mẹ: Hãy lo kiếm tiền trước và lo lắng về niềm vui trong công việc sau. Bên cạnh nỗi âu lo đó, tôi còn có một nỗi khao khát sâu kín và ý nghĩa hơn mọi ước muốn vật chất khác: tôi biết mình muốn có con, và có con sớm thì tốt hơn. Làm sao tôi thực hiện được mong muốn này nếu đột ngột khởi đầu lại trong một lĩnh vực hoàn toàn khác?
Khi Barack xuất hiện trở lại ở Chicago, anh trở thành liều thuốc xoa dịu của tôi. Anh chia sẻ mọi lo toan của tôi, lắng nghe tôi nói về mọi áp lực tài chính hiện có, và khẳng định với tôi rằng anh cũng háo hức muốn có con. Anh công nhận là chúng tôi không thể dự đoán xem chính xác thì mình sẽ xoay xở thế nào khi cả hai đều không muốn bị bó buộc trong cuộc sống thoải mái dễ đoán của nghề luật sư. Nhưng điều cốt lõi là chúng tôi không nghèo và tương lai chúng tôi còn nhiều hứa hẹn, có khi là hứa hẹn nhiều đến mức không thể tính trước được.
Anh là người duy nhất nói với tôi rằng hãy cứ làm đi, hãy dẹp mọi lo lắng và đi theo bất cứ điều gì mà tôi cho rằng sẽ giúp tôi hạnh phúc. Sẽ không sao cả khi dấn thân vào những điều mình chưa biết, vì sự bất định đó sẽ không giết chết tôi - và đây có thể được xem là một điều hoàn toàn xa lạ đối với tất cả các thành viên trong gia đình Shields/Robinson, từ thời ông Dandy và ông Southside.
Barack nói rằng, Đừng lo, em có thể làm được. Chúng ta sẽ tìm ra cách.
ĐÔI DÒNG về kỳ thi vào đoàn luật sư: đó là một công việc cần thiết, một nghi thức phải thông qua đối với bất kỳ luật sư mới ra trường nào có mong muốn hành nghề luật, và dù nội dung và cấu trúc của bài kiểm tra có thay đổi tùy theo bang, người ta vẫn đồng tình rằng kỳ thi này là một trải nghiệm kinh khủng - đó là một cuộc thi diễn ra trong hai ngày, kéo dài mười hai giờ để bạn chứng tỏ kiến thức của mình về mọi thứ từ luật hợp đồng tới những quy tắc khó dò về giao dịch bảo đảm. Từng có cùng ý định với Barack, bản thân tôi đã tham gia kỳ thi luật sư ở Illinois ba năm trước, vào mùa hè sau khi tốt nghiệp Harvard. Trước đó tôi đã có hai tháng ôn luyện với tinh thần kỷ luật tự giác gắt gao trong vai trò luật sư tập sự năm nhất tại Sidley, đồng thời tham gia lớp luyện thi và buộc mình phải đọc hết mấy quyển sách luyện thi dày cộp.
Đây cũng là mùa hè mà anh Craig kết hôn với chị Janis ở quê nhà chị tại Denver. Janis đề nghị tôi làm phù dâu, và tôi đã háo hức đón nhận vai trò này giữa lúc đang bận tối tăm mặt mũi, tự thuyết phục mình bằng một loạt lý lẽ - một trong số đó là tôi đã dành bảy năm vừa qua để nỗ lực hết mình ở Princeton và Harvard. Tôi xuýt xoa khi được xem các bộ váy cưới, tôi giúp lên kế hoạch cho tiệc độc thân của cô dâu, tôi làm mọi việc có thể để giúp ngày cưới vui càng vui hơn. Nói cách khác, tôi háo hức chờ mong thời khắc anh tôi đọc lời thề trăm năm hơn là ngồi xem xét lại những gì cấu thành một sai phạm pháp lý.
Đó là những ngày xưa cũ, khi kết quả bài kiểm tra được gửi qua đường bưu điện. Mùa thu năm ấy, khi kỳ thi đã qua và đám cưới cũng đã xong, tôi gọi cho cha từ công ty và nhờ ông kiểm tra xem thư đã đến hay chưa. Và thư đã đến. Tôi hỏi có phong thư nào gửi cho tôi hay không. Có. Có phải đó là thư từ Đoàn Luật sư Bang Illinois không? Tại sao, phải rồi, trên bì thư ghi vậy. Sau đó tôi nhờ cha mở phong thư, và đó là khi tôi nghe tiếng sột soạt, rồi đến một khoảng lặng dài nghẹt thở ở bên kia đầu dây.
Tôi đã trượt.
Cả đời mình tôi chưa bao giờ trượt bất cứ kỳ thi nào, trừ khi bạn muốn tính thời điểm tôi đứng trong lớp mẫu giáo và không thể đọc được từ “trắng” trên tấm giấy cô giáo đang cầm. Nhưng tôi đã thất bại ở bài thi luật sư. Tôi xấu hổ, chắc chắn là mình đã khiến những người từng dạy dỗ, khuyến khích hoặc tuyển dụng mình phải thất vọng. Tôi không quen vấp ngã. Tôi thường làm nhiều hơn mức cần thiết, đặc biệt là khi phải chuẩn bị cho một thời khắc trọng đại hay một bài kiểm tra quan trọng, nhưng lần này tôi đã sơ sẩy. Giờ đây tôi nghĩ đó chính là hậu quả của việc tôi không thật sự yêu thích quãng thời gian học ở trường luật. Tôi muốn ở bên cạnh con người hơn là sách vở, và đó là lý do quãng thời gian tốt đẹp nhất của tôi ở trường luật là làm tình nguyện viên cho Văn phòng Hỗ trợ Pháp lý của trường, nơi tôi có thể giúp ai đó nhận tấm chi phiếu an sinh xã hội hay đấu tranh với một vị chủ nhà quá quắt.
Dù vậy, tôi vẫn không thích thất bại. Tôi cảm nhận được dư vị đắng cay của nó trong suốt nhiều tháng trời, kể cả khi nhiều đồng nghiệp ở Sidley thú nhận rằng họ cũng không đậu ở lần thi đầu tiên. Cũng trong mùa thu năm đó, tôi hạ quyết tâm và ôn luyện để thi lại, nỗ lực đậu vào đoàn luật sư một cách dễ dàng. Cuối cùng thì thất bại của tôi không gây ra ảnh hưởng gì khác, ngoài việc làm tổn thương lòng tự hào và sự kiêu hãnh của tôi.
Tuy nhiên, vài năm sau, ký ức về câu chuyện thất bại kia khiến tôi càng thêm tò mò về Barack. Anh đang theo học các lớp luyện thi và luôn kè kè sách bên người, nhưng anh không vùi đầu đọc sách thường xuyên như tôi nghĩ - đúng hơn là như tôi sẽ làm, sau những gì đã qua. Nhưng tôi không thúc giục anh, cũng không đem bản thân ra làm một ví dụ về sự thất bại. Tôi và anh ấy rất khác nhau. Đầu của Barack là một chiếc vali chứa đầy thông tin, một chiếc máy vi tính trung tâm mà từ đó anh có thể trích xuất bất kỳ thông tin nào mình muốn. Tôi gọi anh là “anh chàng dữ kiện” vì dường như anh luôn có một số liệu thống kê nào đó phù hợp với từng ngóc ngách của một cuộc trò chuyện. Trí nhớ của anh rất-có-vẻ-là kiểu trí nhớ hình ảnh. Sự thật là tôi không lo lắng về việc anh có đậu kỳ thi sát hạch vào đoàn luật sư hay không, mà thật ra là tôi hơi khó chịu vì tôi thấy anh chẳng lo lắng gì về chuyện này.
Thế là ngay ngày anh ấy hoàn thành kỳ thi - ngày 31 tháng Bảy, năm 1991 - chúng tôi đặt bàn tại nhà hàng Gordon ở trung tâm thành phố để tổ chức ăn mừng sớm. Đó là một trong những nơi yêu thích nhất của chúng tôi, một nơi dành riêng cho những dịp đặc biệt, nơi có ánh sáng theo phong cách Art Deco, vải bàn ăn trắng tinh tươm và thực đơn thì có những món như trứng cá muối và atisô chiên giòn. Khi đó là giữa mùa hè, và chúng tôi đang hạnh phúc.
Ở Gordon, Barack và tôi luôn gọi đủ món. Chúng tôi uống martini và dùng món khai vị. Chúng tôi chọn một loại rượu ngon để dùng kèm với món chính. Chúng tôi trò chuyện một cách thong thả, mãn nguyện và có lẽ còn có đôi chút ngốc nghếch nữa. Khi gần kết thúc bữa ăn, Barack mỉm cười với tôi và nói về chuyện kết hôn. Anh nắm lấy tay tôi và nói rằng anh yêu tôi với cả tấm lòng, nhưng anh vẫn không thật sự thấy được lý do để kết hôn. Ngay lập tức, tôi thấy máu nóng dồn lên mặt. Giống như có một công tắc nào đó vừa được nhấn trong tôi - kiểu công tắc to đùng màu đỏ nhấp nháy giữa các bảng cảnh báo và bản đồ sơ tán mà bạn thường thấy trong mấy nhà máy hạt nhân. Thật sao? Chúng tôi thật sự phải nói chuyện này bây giờ sao?
Và thật sự là chúng tôi đã phải nói về chuyện đó. Chúng tôi đã nhiều lần bàn về chuyện hôn nhân, và gần như không có gì thay đổi. Tôi là kiểu người truyền thống còn Barack thì không. Rõ ràng là không ai trong chúng tôi dễ dàng thay đổi quan điểm của mình. Nhưng chuyện đó không ngăn cản chúng tôi - hai vị luật sư - bàn luận sôi nổi về chủ đề này. Ngồi giữa một nhà hàng sang trọng, nơi những người đàn ông mặc áo vét lịch lãm và những phụ nữ diện đầm xinh xắn đang thưởng thức bữa ăn ngon lành, tôi đã cố hết sức để giữ giọng mình thật điềm tĩnh.
“Nếu chúng ta cam kết với mối quan hệ này thì tại sao lại không hợp thức hóa cam kết đó? Phẩm giá của anh sẽ bị tổn hại nếu làm vậy hay sao?”, tôi hỏi một cách bình tĩnh nhất có thể.
Từ câu hỏi này, chúng tôi điểm qua một lượt những lập luận quen thuộc. Hôn nhân có thật sự cần thiết hay không? Tại sao kết hôn là cần thiết? Anh ấy bị làm sao thế này? Tôi bị làm sao thế này? Tương lai của chúng tôi sẽ ra sao nếu chúng tôi không thể giải quyết được chuyện này? Chúng tôi không cãi nhau mà là đang tranh luận, và tranh luận theo đúng kiểu của luật sư. Chúng tôi ra đòn và phản đòn, phân tích và kiểm tra chéo, nhưng rõ ràng tôi là người kích động hơn. Tôi là người nói nhiều hơn.
Cuối cùng, nhân viên bồi bàn mang đến một đĩa tráng miệng được đậy kín bằng nắp bạc, đặt nó xuống trước mặt tôi và giở nắp ra. Tôi bực mình đến mức gần như chẳng buồn nhìn xuống, nhưng rồi khi nhìn xuống, tôi thấy một chiếc hộp màu đỏ sẫm nằm ngay vị trí mà lẽ ra là một chiếc bánh sô-cô-la. Trong hộp là một chiếc nhẫn kim cương.
Barack âu yếm nhìn tôi. Anh đã bẫy tôi. Tất cả chỉ là một màn đánh lạc hướng. Cơn giận của tôi tan biến trong phút chốc, và thay vào đó là cảm giác ngạc nhiên vui sướng. Anh chọc tức tôi vì đây là lần cuối cùng anh lôi ra cái lập luận ngớ ngẩn của mình về hôn nhân, anh sẽ không nhắc lại thêm một lần nào nữa trong suốt quãng đời còn lại của chúng tôi. “Vụ án” này đã kết thúc. Anh quỳ một gối xuống, và bằng chất giọng vương một chút cảm xúc, anh chân thành hỏi tôi có thể cho anh vinh dự được kết hôn với tôi hay không. Sau này tôi mới biết anh đã đến gặp mẹ và anh trai tôi để xin phép trước khi ngỏ lời với tôi. Khi tôi gật đầu “đồng ý”, dường như tất cả những người trong nhà hàng đều vỗ tay chúc mừng.
Tôi đã sững sờ nhìn chăm chăm vào chiếc nhẫn trên ngón tay của mình suốt một hay hai phút gì đó. Tôi nhìn Barack để xác định chuyện này là thật. Anh đang mỉm cười. Anh đã khiến tôi hoàn toàn kinh ngạc. Theo cách nào đó, cả hai chúng tôi đều thắng. “Chà, như thế này thì em sẽ không càm ràm nữa”, anh nhẹ nhàng nói.
TÔI NHẬN LỜI CẦU HÔN CỦA BARACK, và không lâu sau đó tôi đồng ý với lời đề nghị của chị Valerie Jarrett về chuyện đến làm việc tại tòa thị chính. Trước khi bắt tay vào việc, tôi quyết định phải giới thiệu Barack với Valerie và sắp xếp một bữa tối để ba người chúng tôi có thể trò chuyện với nhau.
Tôi làm vậy vì một vài lý do. Thứ nhất, tôi thích chị Valerie. Tôi rất ấn tượng với chị, và dù có nhận công việc kia hay không thì tôi vẫn háo hức muốn được biết thêm về chị. Tôi biết Barack cũng sẽ có ấn tượng tốt về chị. Tuy nhiên, lý do quan trọng hơn là tôi muốn anh nghe câu chuyện của chị Valerie. Giống như Barack, chị đã trải qua một phần thời thơ ấu ở một đất nước khác - trong trường hợp của chị thì đó là Iran, nơi cha của chị là một bác sĩ làm việc tại bệnh viện - sau đó chị quay lại Mỹ để học tập, và điều này đã giúp chị có được cái nhìn tinh tường mà tôi đã thấy nơi Barack. Barack có chút bận tâm về chuyện tôi làm việc ở tòa thị chính. Cũng như chị Valerie, anh được truyền cảm hứng từ thuật lãnh đạo của Harold Washington khi ông còn là thị trưởng, nhưng rõ ràng không có cảm tình với cơ cấu theo lề thói cũ mà Richard M. Daley là người đại diện. Đó là tư chất của nhà tổ chức sự kiện cộng đồng trong anh: ngay cả khi Harold Washington còn tại nhiệm, anh đã không ngừng đấu tranh, mặc dù đôi khi đó là cuộc đấu tranh vô ích, với chính quyền thành phố Chicago để giành được sự ủng hộ dù là nhỏ nhất cho những dự án cộng đồng. Tuy anh luôn ủng hộ những triển vọng trong công việc của tôi, nhưng tôi nghĩ anh ấy đang thầm lo là tôi sẽ vỡ mộng hoặc cảm thấy bất lực khi làm việc dưới trướng Daley.
Chị Valerie chính là người có thể giải quyết bất kỳ lo ngại nào. Chị đã sắp xếp lại cả cuộc đời mình chỉ để làm việc cho Washington và rồi mất ông gần như ngay sau đó. Lỗ hổng mà cái chết của Washington để lại đã mang đến bài học kinh nghiệm cho tương lai, một câu chuyện mà sau này tôi cố gắng giải thích cho mọi người trên khắp nước Mỹ: ở Chicago, chúng tôi đã sai lầm khi trút mọi hy vọng cải cách lên đôi vai của một cá nhân mà không xây dựng một bộ máy chính trị để hỗ trợ cho tầm nhìn của con người đó. Cử tri, đặc biệt là cử tri theo chủ nghĩa tự do và da đen, xem Washington như đấng cứu thế, một biểu tượng, một nhân vật có thể thay đổi mọi thứ. Cách ông gánh vác trách nhiệm của mình thật đáng khâm phục, và ông đã truyền cảm hứng cho những người như Barack và chị Valerie để họ từ bỏ khối tư nhân và chuyển sang làm việc cho cộng đồng và dịch vụ công cộng. Nhưng khi Harold Washington qua đời, nguồn năng lượng mà ông tạo ra cũng lụi tàn theo.
Chị Valerie có đắn đo trước khi quyết định tiếp tục trụ lại văn phòng thị trưởng, nhưng chị đã giải thích cho chúng tôi lý do chị cảm thấy đó là một lựa chọn đúng đắn. Chị cảm thấy được tân Thị trưởng Daley ủng hộ và biết mình đang làm công việc hữu ích cho thành phố. Chị nói rằng mình trung thành với các nguyên tắc của Harold Washington hơn là cá nhân ông ấy. Bản thân cảm hứng là một thứ dễ cạn; bạn phải nỗ lực để củng cố nguồn cảm hứng của mình. Quan điểm này hợp ý tôi lẫn Barack, và qua bữa ăn tối hôm đó, tôi cảm thấy một chuyện đã định: Valerie Jarrett giờ đây chính là một phần cuộc sống của chúng tôi. Dù chưa bao giờ nói ra nhưng có vẻ cả ba chúng tôi theo cách nào đó đã đồng ý đồng hành cùng nhau trong một chặng đường rất dài.
GIỜ ĐÂY, KHI CHÚNG TÔI đã đính hôn, khi tôi đã nhận công việc mới và Barack đã đồng ý hợp tác với Davis, Miner, Barnhill & Galland - công ty luật công ích đã ra sức chiêu mộ anh - còn một chuyện cuối cùng chúng tôi cần làm: chúng tôi đi nghỉ mát, hay nói chính xác hơn là chúng tôi đã có một chuyến hồi hương. Chúng tôi bay khỏi Chicago vào một ngày thứ Tư cuối tháng Tám, chờ thật lâu ở phi trường Frankfurt nước Đức, và rồi bay thêm một chuyến tám giờ đồng hồ nữa để tới Nairobi vừa kịp trước hoàng hôn, ở đó chúng tôi bước ra ngoài, dưới ánh trăng Kenya và đặt chân vào một thế giới hoàn toàn khác.
Tôi đã tới Jamaica và quần đảo Bahamas, cũng như có vài lần đến thăm châu Âu, nhưng đây là lần đầu tiên tôi đi xa nhà đến vậy. Tôi lập tức cảm nhận được sự xa lạ của Nairobi ngay từ những vạt nắng sớm đầu tiên - hay thật ra tôi mới là một sự khác lạ đối với nơi này. Càng đi nhiều thì tôi càng yêu thích cảm giác đó hơn, cảm giác mà một nơi xa lạ mang đến khi không ngần ngại thể hiện sự khác biệt và mới mẻ của nó. Bầu không khí nơi đây có mùi vị khác với những gì tôi quen thuộc; đó là thứ mùi hương mà tôi không thể xác định được, có thể là mùi khói từ gỗ cháy hay mùi dầu diesel thoang thoảng, hoặc có lẽ là hương thơm ngọt ngào của một loài hoa nào đó đang nở rộ. Cũng vẫn là vầng mặt trời đó, nhưng trông không giống với vầng mặt trời mà tôi biết.
Auma, chị gái cùng cha khác mẹ của Barack đến đón chúng tôi ở sân bay và nồng nhiệt ôm chào chúng tôi. Chị em họ chỉ gặp nhau vài lần kể từ sáu năm trước, khi chị Auma đến Chicago, nhưng họ rất thân thiết với nhau. Chị Auma lớn hơn Barack một tuổi. Mẹ của chị, bà Grace Kezia, mang thai chị khi ông Barack Obama rời Nairobi đến Hawaii học năm 1959. (Họ còn có một người con trai tên Abongo, khi ấy vẫn còn là một đứa bé.) Sau khi về Kenya vào giữa thập niên 1960, ông Obama và bà Kezia có thêm với nhau hai đứa con khác.
Chị Auma có làn da màu gỗ mun, hàm răng trắng sáng và nói giọng Anh rất nặng. Nụ cười của chị rất tươi tắn và mang đến cảm giác dễ chịu. Khi đến Kenya, tôi quá mệt mỏi sau một hành trình dài đến mức gần như không thể trò chuyện cho ra hồn, nhưng khi ngồi trên băng ghế sau trong chiếc con bọ Volkswagen cũ kỹ của chị Auma để vào thành phố, tôi đã kịp để ý là chị cũng dễ cười hệt như Barack và đường cong hộp sọ của chị cũng tương tự anh. Rõ ràng là chị Auma cũng thừa hưởng bộ não của dòng họ: chị lớn lên ở Kenya và thường xuyên về thăm nơi này, nhưng chị học đại học ở Đức và vẫn đang sống ở đó để học tiếp chương trình tiến sĩ. Chị thông thạo tiếng Anh, Đức, Swahili và tiếng Luo địa phương. Cũng như chúng tôi, chị cũng chỉ về thăm nhà.
Chị Auma thu xếp cho tôi và Barack ở tại căn hộ để không của một người bạn, đó là căn hộ một phòng ngủ đơn sơ trong một tòa nhà đúc bằng bê-tông trơn vô cùng bình thường vừa mới được sơn màu hồng tươi. Trong vài ngày đầu, chúng tôi đuối sức vì lệch múi giờ tới mức cảm thấy dường như mình chỉ có thể hoạt động bằng phân nửa tốc độ bình thường. Hoặc đó có thể chính là nhịp độ của Nairobi, nơi vận hành bằng một thứ logic hoàn toàn khác với Chicago. Nơi này có những con đường và bùng binh theo phong cách Anh đông nghẹt khách bộ hành, người đi xe máy, xe hơi và matatu(1) - loại xe buýt cọc cạch rẻ tiền không chính thống mà bạn có thể bắt gặp ở mọi nơi, nổi bật với màu sơn rực rỡ và những bức vẽ và hình ảnh tạ ơn Chúa Trời, nóc xe chất cao những đống hành lý được ràng lại bằng dây, và xe đông khách tới mức đôi khi chỉ có thể bám vào thân xe, nhoài cả người ra bên ngoài.
Giờ thì tôi đã tới châu Phi. Đó là một trải nghiệm hoàn toàn mới mẻ, cuồng nhiệt và mệt lử. Chiếc Volkswagen màu xanh da trời của chị Auma cũ đến mức chúng tôi thường phải xuống đẩy thì nó mới vào số được. Tôi đã khờ dại mua đôi giày trắng mới để mang trong suốt chuyến đi, và chỉ trong một ngày, sau những lần đẩy xe, đôi giày đã ngả sang màu nâu đỏ và lấm lem đất cát của vùng Nairobi.
Barack thoải mái với Nairobi hơn tôi, vì anh đã từng tới đây một lần. Tôi đi đứng với bộ dạng kỳ lạ của một du khách, nhận thức rõ rằng dù có mang làn da đen thì ở đây chúng tôi vẫn là người ngoài. Thỉnh thoảng người ta nhìn chằm chằm vào chúng tôi trên đường. Đương nhiên tôi không kỳ vọng là mình hòa nhập được ngay với nơi này, nhưng tôi nghĩ mình đã đến đây với niềm tin ngây thơ là tôi sẽ cảm nhận được mối gắn kết theo bản năng với lục địa mà suốt thời thơ bé tôi luôn nghĩ đến như vùng đất quê hương trong huyền thoại, như thể tôi sẽ có được cảm giác trọn vẹn khi đến nơi này. Nhưng dĩ nhiên châu Phi chẳng nợ chúng tôi điều gì. Cảm giác chông chênh nửa nọ nửa kia khi là một người Mỹ gốc Phi ở châu Phi thật sự là một trải nghiệm lạ lùng. Cảm giác đó khiến tôi buồn bã một cách khó lý giải, giống như tôi không thuộc về nơi nào cả.
Nhiều ngày sau đó tôi vẫn cảm thấy lạc lõng, và hai chúng tôi đều bị rát cổ. Barack và tôi cãi nhau - tôi không nhớ nổi nguyên nhân chính xác là gì. Ngoài chuyện cảm thấy kinh ngạc trước những gì nhìn thấy ở Kenya, chúng tôi cũng cảm thấy mệt mỏi, điều này khiến chúng tôi lời qua tiếng lại với nhau, rồi cuối cùng, bất kể nguyên nhân ban đầu là gì, chuyện đó cũng trở thành một cuộc cãi vã. Tôi viết trong nhật ký, “Barack khiến tôi rất tức giận. Tôi nghĩ chúng tôi không có điểm chung nào cả”. Suy nghĩ của tôi đứt đoạn ngay tại đó. Tôi quẹt một đường qua hết phần còn lại của tờ giấy, như một cách thể hiện sự tức giận.
Như bất kỳ cặp đôi mới quen nhau nào, chúng tôi đang học cách cãi nhau. Chúng tôi không thường tranh cãi, và khi chúng tôi cãi nhau thì đó thường là những chuyện vụn vặt, một chuỗi những sự bực dọc bị dồn nén và chỉ trồi lên khi cả hai hoặc một trong hai chúng tôi quá mệt mỏi hoặc căng thẳng. Nhưng chúng tôi đã cãi nhau. Và dù tốt hay xấu thì tôi cũng có xu hướng la hét khi giận dữ. Khi có điều gì đó khiến tôi tức giận, tôi có thể cảm nhận sự bực tức đó trong cơ thể mình - một quả cầu lửa chạy dọc theo sống lưng và bùng nổ mạnh đến mức đôi khi tôi không nhớ nổi mình đã nói gì vào lúc đó. Trong khi đó, Barack thường vẫn giữ được vẻ bình tĩnh và lý trí, lời lẽ của anh vẫn tuôn ra một cách rõ ràng và hùng hồn (và điều đó thật khó ưa). Chúng tôi phải mất nhiều thời gian - nhiều năm ròng - để hiểu rằng đó chỉ là tính cách của mỗi chúng tôi, rằng mỗi chúng tôi là tổng hòa của những mã di truyền tương ứng cũng như tất cả những gì được cha mẹ và ông bà chúng tôi “cài đặt” vào. Dần dần chúng tôi cũng tìm ra được cách bộc lộ cũng như vượt qua những cơn giận vốn thỉnh thoảng vẫn xảy ra. Giờ đây, những trận cãi nhau của chúng tôi bớt nảy lửa hơn xưa, sau mỗi cuộc tranh cãi thì vấn đề cũng thường được giải quyết rốt ráo hơn, và dù có căng thẳng thế nào đi nữa thì chúng tôi vẫn biết là mình luôn yêu thương nhau.
Sáng hôm sau chúng tôi thức giấc và thấy bầu trời Nairobi trong xanh cùng với nguồn năng lượng tươi mới. Chúng tôi đã bớt mệt mỏi vì lệch múi giờ và cảm thấy như được quay về với con người vui vẻ bình thường của mình. Chúng tôi gặp chị Auma ở ga tàu trung tâm, và cả ba chúng tôi bắt chuyến tàu có những ô cửa sổ che mành để đi về phía tây, ra khỏi thành phố và đến nhà thờ của dòng họ Obama. Ngồi bên ô cửa sổ trong một khoang tàu đầy người Kenya - vài người xách gà sống trong giỏ, số khác mang theo những món đồ nội thất to cồng kềnh mà họ mua ở thành phố - một lần nữa tôi lại ngạc nhiên khi nhận ra cuộc sống cô-gái-Chicago kiêm luật-sư-bàn-giấy của mình đã thay đổi một cách kỳ lạ thế nào, và người đàn ông ngồi cạnh tôi đây - người đã xuất hiện tại văn phòng tôi vào một ngày nọ với một cái tên kỳ lạ và nụ cười Đông-ki-sốt - đã xáo trộn mọi thứ một cách tài tình ra sao. Tôi dán mắt vào cửa sổ khi khu Kibera, khu thành thị ổ chuột lớn nhất châu Phi, hiện ra trước mắt, phơi bày những túp lều thấp có mái tôn xiên xẹo, những con đường bùn lầy, cống lộ thiên và một sự nghèo nàn mà tôi chưa từng thấy hay tưởng tượng ra nổi.
Chúng tôi ngồi tàu suốt nhiều giờ đồng hồ. Cuối cùng Barack cũng giở một quyển sách, còn tôi vẫn tiếp tục dán mắt vào cửa sổ khi hình ảnh các khu ổ chuột của Nairobi nhường chỗ cho vùng nông thôn xanh biếc, và đoàn tàu sầm sập tiến về phía bắc thị trấn Kisumu, nơi chị Auma, Barack và tôi rời tàu và bước vào cái nắng thiêu đốt của vùng xích đạo, rồi leo lên một chiếc matatu để đi nốt chặng đường xóc nẩy cuối cùng qua những cánh đồng lúa mạch dẫn đến ngôi làng Kogelo, nơi bà nội của chị Auma và Barack sinh sống.
Tôi sẽ luôn nhớ loại đất sét màu đỏ đậm của vùng đất Kenya ấy, đậm tới nỗi trông gần như nguyên sơ, nhớ bụi đất bám dày vào làn da đen và mái tóc của bọn trẻ đang lên tiếng chào chúng tôi từ hai bên đường. Tôi nhớ cảm giác ướt đẫm mồ hôi và khát khô khi đi trên đoạn cuối con đường dẫn vào khu nhà của bà nội Barack, để đến với ngôi nhà xi măng được chăm chút tỉ mỉ, nơi bà đã sống suốt nhiều năm và canh tác một thửa rau, nuôi dăm ba con bò. Chị Auma và Barack gọi bà là bà nội Sarah. Bà có dáng người thấp và to con, với đôi mắt toát ra vẻ thông thái và nụ cười nhiều nếp nhăn. Bà không nói tiếng Anh mà chỉ dùng tiếng Luo, và bà vui vẻ ra mặt khi chúng tôi đã đi một chặng đường xa như vậy để đến thăm bà. Tôi cảm thấy mình thật cao khi đứng bên cạnh bà. Bà dò xét tôi với một sự tò mò có chút bối rối, như thể cố xác định xem tôi từ đâu đến và làm thế nào lại “hạ cánh” trước cửa nhà bà. Một trong những câu hỏi đầu tiên bà dành cho tôi là, “Cha hay mẹ của con là người da trắng?”.
Tôi cười phá lên và giải thích, với sự hỗ trợ của chị Auma, rằng tôi da đen từ trong ra ngoài, cơ bản là đen như người da đen ở Mỹ.
Bà Sarah thấy chuyện đó thật hài hước. Dường như đối với bà mọi chuyện đều hài hước, thậm chí bà còn trêu Barack vì anh không thể nói tiếng Luo. Tôi hoàn toàn ngạc nhiên khi thấy bà rất dễ vui vẻ. Khi trời sụp tối, bà hầm cho chúng tôi một con gà, ăn kèm với món cháo đặc ugali được nấu từ bột bắp nghiền. Suốt thời gian đó, hàng xóm và họ hàng cũng đến chào hỏi hai người trẻ tuổi của dòng họ Obama và chúc mừng tôi và Barack đã đính hôn. Tôi nhanh chóng thưởng thức các món ăn với tất cả lòng biết ơn, trong khi mặt trời đang lặn dần và màn đêm bắt đầu bao phủ ngôi làng, nơi không có điện mà chỉ có một dải sao sáng trên đầu chúng tôi. Thật là một phép màu khi tôi có mặt ở nơi này. Tôi ở cùng Barack trong một phòng ngủ đơn sơ, lắng nghe tiếng dế râm ran trong mấy cánh đồng bắp xung quanh, tiếng sột soạt của những loài thú mà chúng tôi không tài nào nhìn thấy được. Tôi nhớ mình đã choáng ngợp ra sao trước đất trời xung quanh, và đồng thời cũng cảm thấy ấm cúng và được chở che ngay bên trong ngôi nhà bé xíu ấy. Tôi có một công việc mới, một vị hôn phu, và một gia đình lớn có nhiều thế hệ - thậm chí là có cả một bà nội người Kenya đã chấp nhận mình. Tất cả đều là thật: tôi đã bị kéo ra khỏi thế giới của mình, và trong khoảnh khắc đó, mọi thứ đều tốt đẹp.
(1) Matatu: loại xe buýt cỡ nhỏ, phương tiện chuyên chở hành khách phổ biến ở châu Phi.