BARACK VÀ TÔI KẾT HÔN VÀO THỨ BẢY NĂM 1992, một ngày tháng Mười ngập nắng. Hai người chúng tôi đứng trước hơn ba trăm bạn bè và người thân trong Nhà thờ Trinity ở South Side. Đó là một lễ cưới lớn, và lễ cưới của chúng tôi cần lớn như vậy. Nếu tổ chức đám cưới tại Chicago thì chúng tôi không thể cắt giảm danh sách khách mời. Gốc rễ của tôi đã bám quá sâu ở nơi này. Tôi không chỉ có anh chị em họ mà còn có cả anh chị em họ của họ, và bọn họ còn có con cái - không có ai trong số họ bị tôi lược ra khỏi danh sách, và tất cả đều giúp ngày vui hôm ấy thêm phần hạnh phúc và ý nghĩa.
Các chú của tôi cũng có mặt. Gia đình bên ngoại xuất hiện không sót một ai. Tôi còn có hàng xóm và những người bạn học cũ, những người từ Princeton, từ Whitney Young đến tham dự lễ cưới. Cô Smith, vợ của thầy trợ lý hiệu trưởng vẫn còn sống cách chúng tôi không xa trên Đại lộ Euclid, đã giúp tổ chức tiệc; còn ông bà Thompson, hàng xóm đối diện nhà tôi, đã cùng ban nhạc jazz của gia đình họ trình diễn tại tiệc mừng diễn ra sau nghi thức kết hôn. Santita Jackson, rạng ngời trong bộ váy đen xẻ cổ sâu, là phù dâu cho tôi. Tôi còn mời những đồng nghiệp cũ tại Sidley và đồng nghiệp mới tại tòa thị chính. Những luật sư cao cấp trong công ty của Barack cũng có mặt, cùng với những người bạn trong ngành tổ chức sự kiện cộng đồng của anh. Nhóm bạn “đầu gấu” thời trung học của Barack cũng hòa vào không khí vui vẻ cùng những người họ hàng đến từ Kenya, họ đội trên đầu những chiếc mũ Đông Phi rực rỡ màu sắc. Buồn thay, chúng tôi đã mất Gramps - ông nội của Barack - vào mùa đông năm trước đó vì ung thư, nhưng mẹ và bà ngoại của anh đã tới Chicago, cả chị Auma và Maya, hai chị em gái cùng mẹ khác cha và cùng cha khác mẹ của anh cũng từ những lục địa khác bay đến - tất cả đều hội ngộ trong niềm thương yêu dành cho Barack. Đây là lần đầu tiên hai gia đình chúng tôi gặp nhau, và cảm giác đó rất vui vẻ.
Xung quanh chúng tôi ngập tràn yêu thương - tình yêu thương cởi mở và đa văn hóa của nhà Obama, cùng với tình yêu thương vững chãi của nhà Robinson-vùng-South-Side - tất cả giờ đây đều hòa quyện với nhau, giữa những hàng ghế bên trong thánh đường. Tôi nắm chặt khuỷu tay anh Craig trong lúc anh ấy dắt tôi lên lễ đường. Khi đến nơi, tôi bắt gặp ánh mắt của mẹ. Bà đang ngồi ở hàng ghế đầu, trông thật sang trọng trong bộ váy trắng đen đính cườm dài chấm sàn mà hai chúng tôi đã cùng chọn mua, cằm bà ngẩng cao và đôi mắt đầy vẻ tự hào. Dù nỗi đau mất cha vẫn hiện diện trong chúng tôi mỗi ngày, chúng tôi vẫn sống tiếp, vì đó cũng là điều ông mong muốn.
Sáng hôm đó Barack thức giấc với một cơn đau đầu tệ hại, nhưng nó đã tan biến một cách kỳ diệu khi anh ấy đến nhà thờ. Giờ đây anh đang diện bộ tuxedo thuê và mang đôi giày mới bóng lẫy, đứng cạnh bệ thờ và mỉm cười nhìn tôi với ánh mắt sáng rực. Hôn nhân vẫn còn là gì đó bí ẩn với anh ấy hơn là với tôi, nhưng trong mười bốn tháng chúng tôi đính hôn, anh ấy hoàn toàn dốc lòng dốc sức. Chúng tôi đã tỉ mỉ lựa chọn từng thứ cho ngày trọng đại của mình. Barack, người ban đầu đã nói là không hứng thú với những chi tiết vụn vặt của lễ cưới, rốt cuộc đã góp ý một cách đáng yêu, quyết đoán - và còn dễ đoán nữa - cho mọi thứ, từ bài trí hoa cho tới món tráng miệng sẽ phục vụ cho thực khách tại Trung tâm Văn hóa South Shore trong khoảng một giờ đồng hồ nữa. Chúng tôi đã chọn nhạc cưới cho mình, bài hát mà Santita sẽ trình bày bằng chất giọng xuất sắc của cô trên nền nhạc đệm của một nghệ sĩ dương cầm.
Đó là một bản nhạc của Stevie Wonder có tên “You and I (We Can Conquer the World)”. Tôi nghe bài này lần đầu tiên hồi còn bé, khoảng lớp ba hay bốn gì đó, khi ông Southside tặng tôi album nhạc Talking Book - chiếc đĩa hát đầu tiên của tôi, thứ vô cùng quý giá với tôi. Tôi giữ đĩa hát ở nhà ông và được phép mở nó lên bất cứ lúc nào tôi đến chơi. Ông Southside đã dạy tôi cách bảo quản đĩa than, cách lau sạch bụi trong các rãnh từ, cách nhấc kim khỏi bàn xoay và đặt nó xuống thật nhẹ nhàng vào đúng chỗ. Thường thì ông sẽ cho tôi được thoải mái một mình với âm nhạc, ông hạn chế xuất hiện để tôi có thể tự học, trong không gian riêng của mình, mọi điều mà đĩa nhạc có thể dạy được - chủ yếu từ việc hát to theo lời bài hát hết lần này tới lần khác bằng chất giọng nho nhỏ của một bé gái. In my mind, we can conquer the world / In love you and I, you and I, you and I…
Khi đó tôi chín tuổi. Tôi chẳng biết gì về tình yêu, cam kết hay chinh phục thế giới. Tất cả những gì tôi có thể làm là lờ mờ nhận ra tình yêu sẽ như thế nào và ai có thể xuất hiện vào một ngày nào đó để mang đến cho tôi cảm xúc mãnh liệt đó. Có khi nào đó là Michael Jackson? José Cardenal của đội Cubs? Hay là ai đó giống như cha? Thậm chí tôi còn không hình dung nổi anh ấy như thế nào, con người sẽ trở thành “anh” cho phần “em” của tôi.
Nhưng giờ đây hai chúng tôi đang có mặt tại đây.
Nhà thờ Trinity có tiếng là một chốn sôi động và ngập tràn yêu thương. Barack đã bắt đầu đến đây từ những ngày còn làm nhà tổ chức sự kiện cộng đồng, và mới gần đây, theo chân nhiều người bạn Mỹ gốc Phi trẻ trung và có trình độ trong thành phố, hai chúng tôi đã chính thức trở thành tín hữu của nơi này. Đức cha Jeremiah Wright - mục sư của nhà thờ, nổi tiếng là nhà thuyết giáo tinh tế và hết lòng quan tâm đến công bằng xã hội - giờ đây đang chủ trì hôn lễ của chúng tôi. Cha chào đón bạn bè và gia đình hai chúng tôi, sau đó Cha giơ cao nhẫn cưới của cả hai chúng tôi để mọi người đều nhìn thấy. Cha giảng giải ý nghĩa của sự tác hợp trong hôn nhân và của việc để cho một cộng đồng đầy tình yêu thương - cộng đồng những người biết đến mọi khía cạnh của Barack và tôi - làm chứng cho sự tác hợp này.
Tôi đã cảm thấy được sức mạnh của những gì chúng tôi thực hiện, ý nghĩa của nghi thức hôn phối khi hai chúng tôi đứng trên lễ đường với tương lai còn chưa rõ ràng, mọi điều chưa thấu tỏ vẫn chưa thấu tỏ, và chúng tôi chỉ nắm tay nhau cùng trao lời thề ước.
Dù tương lai ra sao, chúng tôi sẽ cùng nhau bước tới. Tôi đã dốc sức chuẩn bị cho ngày hôm ấy, tôi xem trọng sự trang nhã của buổi lễ, nhưng giờ đây tôi đã hiểu điều gì thật sự quan trọng, điều mà tôi sẽ mãi không bao giờ quên, đó chính là khi hai chúng tôi siết chặt tay nhau. Hành động đó khiến tôi vững tâm hơn bất cứ điều gì khác. Tôi có niềm tin vào cuộc hôn nhân này, vào người đàn ông này. Thế nên tuyên bố niềm tin đó là chuyện dễ dàng nhất trên đời. Khi nhìn Barack, tôi biết anh ấy cũng có cùng cảm nhận như tôi. Hôm đó, hai chúng tôi không ai khóc cả. Chẳng có giọng nói nào run rẩy vì xúc động. Chúng tôi chỉ hơi choáng váng một chút. Sau buổi lễ, chúng tôi đã quy tụ hàng trăm chứng nhân của mình lại và mời họ dùng tiệc mừng. Chúng tôi ăn uống và nhảy múa đến khi nhoài mệt vì hạnh phúc.
KỲ TRĂNG MẬT là thời gian nghỉ ngơi của chúng tôi, một chuyến đi đường trường bằng ô-tô ở phía bắc California, có rượu, ngủ nghê, tắm bùn và thức ăn ngon. Ngay sau lễ cưới, chúng tôi đã bay sang San Francisco, dành ra nhiều ngày ở thung lũng Napa, rồi đánh xe theo Xa lộ 1 đến Big Sur để đọc sách, nhìn ngắm đại dương xanh thẳm nơi này và thanh lọc tâm trí. Chuyến đi thật tuyệt vời, mặc dù cơn cảm cúm của Barack lại tái phát như chưa từng thuyên giảm, và những màn tắm bùn thì cứ dinh dính khó chịu.
Sau một năm bận rộn, chúng tôi sẵn sàng để quay lại với công việc hơn bao giờ hết. Vốn dĩ Barack có kế hoạch hoàn thành quyển sách và làm việc tại công ty mới vài tháng trước lễ cưới, nhưng rốt cuộc anh đã tạm hoãn phần lớn các dự định này. Khoảng đầu năm 1992, các nhà lãnh đạo của một tổ chức quốc gia phi đảng phái có tên Project VOTE! đã tiếp cận anh. Tổ chức này đang có các nỗ lực tiên phong để đăng ký tư cách cử tri cho các tiểu bang mà từ trước đến giờ tiếng nói của nhóm thiểu số luôn thấp. Họ hỏi Barack có thể điều hành quá trình đăng ký cử tri tại Illinois hay không, anh có thể mở văn phòng đại diện tại Chicago để đăng ký cho cử tri da đen trước thềm cuộc bầu cử tháng Mười Một hay không. Theo ước tính, có khoảng 400.000 người Mỹ gốc Phi ở Mỹ có thể đi bầu nhưng vẫn chưa đăng ký, phần đông họ đang sống ở Chicago và vùng lân cận.
Tuy có mức thù lao thấp thậm tệ, nhưng công việc lại phù hợp với niềm tin cốt lõi của Barack. Năm 1983, một cuộc vận động đăng ký tư cách cử tri tương tự ở Chicago đã góp phần đưa Harold Washington tiến vào văn phòng thị trưởng. Năm 1992, cuộc đua tranh một lần nữa lại trở nên sôi nổi: một ứng viên Mỹ gốc Phi khác, Carol Moseley Braun, đã khiến mọi người ngạc nhiên bằng chiến thắng sít sao cho vị trí đề cử của Đảng Dân chủ vào Thượng viện và kẹt giữa cuộc đua tranh gay gắt cho cuộc tổng tuyển cử. Trong khi đó Bill Clinton đang chạy đua với George H. W. Bush để giành vị trí tổng thống. Các cử tri thiểu số cần phải hành động ngay.
Nói Barack dấn thân vào công việc là vẫn chưa diễn tả được hết tình hình. Mục tiêu của Project VOTE! là đăng ký cử tri mới tại Illinois với tốc độ đáng sửng sốt là mỗi tuần mười ngàn người. Công việc cũng tương tự với những gì Barack từng làm khi còn tổ chức sự kiện quần chúng: trong suốt mùa xuân và hè, anh cùng cộng sự đã đến không biết bao nhiêu sảnh nhà thờ, đi từ ngôi nhà này sang ngôi nhà khác để trò chuyện với các cử tri chưa đăng ký bầu cử. Anh kết nối thường xuyên với các nhà lãnh đạo cộng đồng và nhiều lần kêu gọi hỗ trợ từ những mạnh thường quân giàu có, nhằm quyên tiền sản xuất các chương trình quảng cáo trên radio và tờ thông tin để phát tại các khu phố người da đen và các dự án nhà tập thể. Thông điệp của tổ chức rất kiên định và rõ ràng, đồng thời phản ánh đúng những gì tôi biết Barack cảm nhận trong thâm tâm: quyền lực của lá phiếu. Nếu bạn muốn thay đổi thì vào ngày bầu cử chớ nên ở nhà.
Mỗi tối, Barack về nhà ở Đại lộ Euclid và thường ngồi phịch xuống ghế, người nồng nặc mùi thuốc lá mà anh vẫn hút khi không có tôi bên cạnh. Anh có vẻ mệt mỏi nhưng không bao giờ cạn kiệt sinh khí. Anh ghi chép cẩn thận những tờ đơn đăng ký cử tri: đến giữa mùa hè thì họ đạt được con số trung bình cực kỳ ấn tượng là bảy ngàn cử tri một tuần, nhưng vẫn chưa đủ để đáp ứng mục tiêu đề ra. Anh lập kế hoạch làm thế nào để truyền tải thông điệp đến với mọi người, làm sao để có thêm tình nguyện viên và tìm ra nhiều người nữa. Dường như anh xem thử thách như một khối rubik - như một bài toán có thể giải được nếu biết xếp các khối vào đúng trật tự. Anh nói với tôi rằng những người khó với tới nhất là những người trẻ, tuổi từ mười tám tới ba mươi - họ là những người dường như không hề tin tưởng vào chính quyền.
Trong khi đó tôi lại hoàn toàn dấn thân vào bộ máy chính quyền. Khi ấy tôi đã làm ở văn phòng thị trưởng với chị Valerie được một năm, giữ vai trò trung gian giữa nhiều phòng ban của thành phố, bao gồm Y tế và Dịch vụ Con người. Công việc này bao quát và hướng đến con người đủ để khiến tôi cảm thấy tràn đầy năng lượng và hứng thú. Nếu trước kia tôi từng dành nhiều ngày trời để viết báo cáo trong một văn phòng yên tĩnh được trải thảm tinh tươm và có tầm nhìn ra Hồ Michigan, thì giờ đây tôi làm việc trong một căn phòng không có cửa sổ nằm ở những tầng trên cùng của tòa thị chính, với những công dân ồn ào liên tục ra vào tòa nhà mỗi ngày.
Tôi hiểu ra rằng các vấn đề của chính quyền rất phức tạp và không bao giờ dứt. Tôi đi lại như con thoi giữa những cuộc họp với nhiều trưởng phòng, làm việc với nhân viên của ủy viên thành phố và đôi lúc được cử đến những khu vực khác quanh Chicago để xử lý các khiếu nại cá nhân mà thị trưởng đã nhận được. Nhiệm vụ của tôi là kiểm tra những cái cây đã đổ và cần được dọn dẹp, hay nói chuyện với những mục sư đang bức bối về tình hình giao thông hoặc công tác thu gom rác trong vùng, tôi cũng thường đại diện cho văn phòng thị trưởng tại các buổi sinh hoạt cộng đồng. Tôi đã từng cắt ngang một trận cãi vã ỏm tỏi tại một buổi dã ngoại dành cho người cao tuổi ở North Side. Một luật sư tập đoàn chẳng bao giờ làm những chuyện như thế này, và vì lẽ đó tôi cảm thấy công việc của mình thật sự thú vị. Tôi đang trải nghiệm một Chicago theo cách mà trước đây tôi chưa từng được trải nghiệm.
Tôi cũng học được một điều rất giá trị khác sau khi dành nhiều thời gian hơn với Susan Sher và Valerie Jarrett, hai người phụ nữ mà theo nhìn nhận của tôi là vừa cực kỳ tự tin vừa cực kỳ nhân văn. Susan điều hành các cuộc họp bằng một sự duyên dáng sắc lạnh và không chút nao núng. Valerie không bao giờ ngại thể hiện quan điểm của mình trong một căn phòng đầy những người đàn ông có chính kiến, chị thường khéo léo đưa người ta vào bất kỳ phe nào mà chị đang ủng hộ. Chị như một sao chổi có vận tốc siêu nhanh, một người rõ ràng đã đi nhiều, biết nhiều và hiểu nhiều. Trước đám cưới của tôi không bao lâu, chị đã được đề bạt lên chức ủy viên thành phố, chịu trách nhiệm hoạch định và phát triển kinh tế cho thành phố, và chị đã mời tôi làm trợ lý. Tôi bắt đầu vào làm việc ngay sau khi trở về từ kỳ trăng mật.
Tôi tiếp xúc với chị Valerie nhiều hơn chị Susan, nhưng tôi cũng cẩn thận ghi chép tất cả những gì cả hai đang làm, tương tự như cách tôi đã quan sát chị Czerny, cố vấn của tôi ở trường đại học. Họ là những người phụ nữ biết rõ tiếng nói của mình và không ngại lên tiếng. Họ có thể khôi hài và khiêm tốn khi cần thiết, nhưng họ không nao núng trước khó khăn và chẳng bao giờ nghi ngờ sức mạnh mà quan điểm của mình mang lại. Và quan trọng không kém, họ là những người mẹ đang đi làm để nuôi con. Tôi quan sát họ rất kỹ ở khía cạnh này, vì biết rằng một ngày nào đó tôi sẽ trở thành một bà mẹ giống như thế. Valerie chưa bao giờ chần chừ bước ra khỏi một cuộc họp quan trọng khi có cuộc gọi từ trường của con gái chị. Tương tự, Susan sẽ không ngại nghỉ làm nếu một trong hai đứa con trai của chị bị sốt cao hay đang biểu diễn ở một buổi trình diễn âm nhạc do nhà trẻ tổ chức. Họ không cảm thấy có gì phải biện giải khi đặt nhu cầu của con cái lên ưu tiên hàng đầu, kể cả khi điều này đôi khi đồng nghĩa với việc ngắt ngang dòng công việc, và họ cũng không tìm cách phân chia giữa công việc và gia đình theo cách mà tôi vẫn thấy ở các đồng nghiệp nam ở Sidley thường làm. Thậm chí tôi còn không rõ họ có xem việc phân chia như thế là một lựa chọn để cân nhắc hay không, khi mà họ phải xoay xở để đáp ứng những kỳ vọng dành riêng cho người mẹ và đều đã ly hôn, một việc mà bản thân nó đã mang lại nhiều thách thức về tinh thần và cả tài chính. Họ không cố sức trở nên hoàn hảo, nhưng theo cách nào đó họ luôn tỏ ra xuất sắc. Tình bạn của họ sâu đậm và họ luôn hỗ trợ lẫn nhau, một điều càng khiến tôi thêm ấn tượng. Họ đã bỏ đi tất cả những lớp mặt nạ và sống thật với bản thân một cách tuyệt vời, mạnh mẽ và truyền cảm hứng.
VỢ CHỒNG CHÚNG TÔI trở về từ kỳ trăng mật ở phía bắc California và đối mặt với cả tin vui lẫn tin buồn. Tin vui đến từ cuộc bầu cử tháng Mười Một, một sự kiện mang lại làn sóng thay đổi đáng khích lệ. Bill Clinton đã chiến thắng áp đảo tại Illinois và trên cả nước, đẩy Tổng thống Bush ra khỏi vị trí chỉ sau một nhiệm kỳ. Carol Moseley Braun cũng chiến thắng thuyết phục, trở thành người phụ nữ Mỹ gốc Phi đầu tiên giành được một ghế trong Thượng viện. Một chuyện đáng mừng hơn nữa đối với Barack là ngày bầu cử cực kỳ hoành tráng: Project VOTE! đã trực tiếp đăng ký được tư cách cử tri cho một trăm mười ngàn người lần đầu tiên đi bầu, và chiến dịch kêu gọi cử tri đi bầu trên phạm vi rộng hơn của họ chắc chắn cũng đã góp vào con số này.
Lần đầu tiên trong một thập kỷ, hơn nửa triệu cử tri da đen ở Chicago đã đến các điểm bỏ phiếu, chứng minh rằng họ đã có sức mạnh tập thể để quyết định kết quả chính trị. Thực tế này gửi đi một thông điệp rõ ràng cho các nhà làm luật và các chính trị gia tương lai, cũng như tái lập cảm giác dường như đã mất đi khi Harold Washington qua đời: phiếu bầu của người Mỹ gốc Phi vẫn có giá trị. Bất cứ ai phớt lờ hay không nghĩ tới các nhu cầu và bức xúc của người da đen sẽ buộc phải trả cái giá rất đắt về chính trị. Bên trong thông điệp này còn có một thông điệp thứ hai dành cho chính cộng đồng người da đen, một lời nhắc nhở rằng tiến bộ là điều khả thi, và giá trị của chúng tôi là đáng kể. Tất cả những điều này khiến Barack rất phấn chấn. Dẫu mệt mỏi, anh vẫn yêu thích công việc vì những gì công việc ấy dạy cho anh về hệ thống chính trị phức tạp ở Chicago và chứng minh rằng khả năng tổ chức của anh có thể mang lại hiệu quả kể cả ở quy mô lớn hơn. Anh cộng tác với những nhà lãnh đạo trong quần chúng, với những công dân bình thường, với những viên chức được bầu, và điều đó đã mang lại kết quả như một phép màu. Rất nhiều kênh truyền thông đã nhận thấy tác động đầy ấn tượng của Project VOTE!. Một nhà báo của tờ Chicago đã mô tả Barack là “một kẻ nghiện việc cao ráo, dễ gần”, nói rằng một ngày nào đó anh cũng nên tranh cử - một ý tưởng mà Barack chỉ đơn giản nhún vai từ chối.
Và đây là tin xấu. Cái anh chàng nghiện việc cao ráo, dễ gần mà tôi vừa kết hôn đó cũng đã trễ hạn hoàn thành quyển sách vì quá bận bịu với việc đăng ký cử tri, tới mức anh chỉ có thể gửi cho nhà xuất bản một phần của bản thảo. Chúng tôi từ California về nhà và hay tin nhà xuất bản đã hủy hợp đồng, họ thông báo với người đại diện của Barack rằng anh giờ đây buộc phải trả lại bốn mươi ngàn đô-la đã tạm ứng trước đó.
Nếu có hoảng hốt thì anh đã không thể hiện ra cho tôi thấy. Tôi quá bận rộn với quá trình đón nhận vai trò mới tại tòa thị chính, trong đó bao gồm việc tham gia nhiều hơn nữa các cuộc họp quy hoạch và bớt đi những cuộc dã ngoại của các công dân cao tuổi mà công việc trước đó yêu cầu. Dù tôi không còn làm việc theo thời gian của một luật sư doanh nghiệp, nhưng các vấn đề lộn xộn trong thành phố cũng khiến tôi đau đầu và phải cố dành ra những buổi tối để thư giãn, để không xử lý công việc ở nhà mà thay vào đó là tự cho phép mình uống một hớp rượu vang, không nghĩ suy gì mà chỉ ngồi xem ti-vi. Nếu có học được điều gì từ sự dấn thân đến mức ám ảnh của Barack với tổ chức Project VOTE! thì đó là chẳng có ích gì khi lo lắng về những lo lắng của anh - một phần là vì tôi thường cảm thấy những lo lắng đó nằm ngoài khả năng giải quyết của mình. Sự rối ren khiến tôi bức bối, nhưng dường như nó lại tiếp thêm sinh khí cho anh. Anh giống một diễn viên xiếc chuyên tung hứng nhiều chiếc đĩa: nếu mọi việc quá yên ắng, anh xem đó như một dấu hiệu cho thấy có nhiều việc cần làm hơn. Tôi đã hiểu anh là một người thích gánh nhiều trọng trách, đảm nhận nhiều dự án mới mà không màng giới hạn về thời gian và công sức. Chẳng hạn, anh đã nhận lời làm việc trong hội đồng của một vài tổ chức phi lợi nhuận, đồng thời cũng đồng ý với công việc giảng dạy bán thời gian ở Đại học Chicago trong học kỳ mùa xuân sắp tới, bên cạnh đó anh cũng lập kế hoạch làm việc toàn thời gian ở công ty luật.
Và rồi vẫn còn đó quyển sách của anh. Đại diện của Barack tin là có thể bán lại ý tưởng của quyển sách đó cho một nhà xuất bản khác, dù điều đó nghĩa là Barack sẽ phải sớm hoàn thành bản thảo. Khi vẫn chưa bắt đầu công việc dạy học và công tác tại hãng luật vốn đã phải chờ anh một năm ròng, Barack đã nghĩ ra một giải pháp dường như cực kỳ hợp với mình: anh sẽ tự tách biệt bản thân để viết quyển sách, gác hết mọi xao nhãng hàng ngày bằng cách thuê lại một căn phòng nhỏ ở đâu đó và cật lực hoàn thành quyển sách. Chuyện này giống như thức trọn đêm để hoàn thành bài vở ở đại học vậy, chỉ là Barack ước tính anh sẽ tốn đâu đó chừng vài tháng để viết cho xong. Anh nói với tôi tất cả điều này vào một đêm nọ, ở nhà, khoảng sáu tuần sau khi chúng tôi kết hôn, sau đó mới “tinh tế” thả ra chi tiết cuối cùng: mẹ anh đã tìm được cho anh một căn phòng hoàn hảo. Trên thực tế, bà đã thuê nó giúp anh luôn rồi. Đó là một căn phòng rẻ tiền, yên tĩnh, nằm bên bãi biển. Ở Sanur. Ở trên đảo Bali của Indonesia, cách tôi khoảng mười lăm ngàn cây số.
NGHE NHƯ một câu chuyện đùa dở tệ đúng không? Chuyện gì xảy ra khi một người theo chủ nghĩa cá nhân, thích cô độc, kết hôn với một phụ nữ yêu gia đình, thích bạn bè, không ưa cô đơn dù chỉ một chút?
Tôi đoán đáp án cho câu hỏi này cũng là đáp án hay nhất và khả thi nhất cho hầu hết mọi câu hỏi phát sinh với bất cứ cuộc hôn nhân nào, dù cho bạn là ai và vấn đề đó là gì: bạn phải nghĩ cách tự thích nghi. Nếu bạn muốn duy trì mối gắn kết đó, bạn thật sự không có lựa chọn nào khác.
Điều đó nghĩa là vào đầu năm ١٩٩٣, Barack bay sang Bali và dành ra năm tuần một mình với các ý nghĩ của anh để viết nên bản thảo quyển sách Dreams from My Father, ghi chép đầy kín những xấp giấy màu vàng bằng nét chữ viết tay cẩn trọng, cô đọng ý tưởng của anh trong những lần chậm rãi bách bộ giữa những hàng cọ và sóng vỗ bờ. Trong khi đó, tôi ở căn nhà trên Đại lộ Euclid, sống một mình trên lầu với mẹ khi một mùa đông Chicago xám xịt khác ập tới, đánh gục cây cối và lối đi bên lề bằng băng tuyết. Tôi giữ cho mình luôn bận rộn, gặp bạn bè và tham gia các lớp tập thể dục vào buổi tối. Trong giao tiếp hàng ngày ở công sở hay quanh thành phố, tôi thường thấy mình bật ra cái từ ngữ mới mẻ lạ kỳ này - “chồng tôi”. Chồng tôi và tôi đang hy vọng sẽ mua một căn nhà. Chồng tôi là một tác giả đang hoàn thành một quyển sách. Nó vừa lạ lẫm lại vừa nghe vui vui, đồng thời gợi lại ký ức về một người đàn ông đang không có mặt ở đây. Tôi nhớ Barack khủng khiếp, nhưng tôi biện minh cho tình huống của chúng tôi, vì tôi hiểu rằng ngay cả khi cả hai chúng tôi chỉ vừa mới kết hôn, quãng thời gian xa cách này sẽ mang đến kết quả tốt đẹp.
Anh đã gánh vác sự ngổn ngang gây ra bởi quyển sách còn dang dở của mình và tự tách mình ra để “chiến đấu” với nó. Chắc hẳn điều này cũng là ý tốt anh dành cho tôi, để tôi không phải nhìn thấy sự ngổn ngang đó. Tôi đã kết hôn với một kẻ có suy nghĩ khác người thường, tôi cần phải nhắc nhở bản thân điều đó. Anh ấy đang xử lý công việc của mình theo lối hợp lý và hiệu quả nhất, thậm chí cả khi thoạt trông thì nó có vẻ như một kỳ nghỉ bên bãi biển - một kỳ trăng mật với chính mình (tôi không thể nghĩ khác vào những lúc cảm thấy cô đơn) sau kỳ trăng mật với tôi.
Anh và em, anh và em, anh và em. Chúng tôi đang học cách thích nghi, học cách gắn kết bản thân vào mô hình chúng tôi vững chắc và trường tồn. Mặc dù vẫn là hai con người như trước giờ vẫn vậy, vẫn là cặp đôi như bao năm qua, nhưng giờ đây chúng tôi đã có tên gọi mới, một nhân dạng mới để tranh luận với nhau. Anh ấy là chồng tôi. Tôi là vợ anh ấy. Chúng tôi đã đứng bên nhau giữa giáo đường và cùng tuyên xưng điều đó với nhau và với thế giới. Điều này có cảm giác như thể chúng tôi đều mắc nợ nhau những điều mới mẻ.
Đối với nhiều phụ nữ, kể cả bản thân tôi, từ “vợ” là một từ có ý nghĩa sâu sắc. Nó mang trong mình cả một lịch sử. Nếu bạn lớn lên trong thập niên ١٩٦٠ và ١٩٧٠ giống như tôi, “vợ” dường như là một kiểu phụ nữ da trắng sống bên trong các bộ phim truyền hình - hoạt bát, cầu kỳ, đỏm dáng. Họ chỉ ở nhà, chăm sóc con cái và chuẩn bị bữa tối. Đôi khi họ sẽ bắt đầu say sưa rượu sherry(1) hay ngả ngớn với người bán máy hút bụi, nhưng sự vui thú dường như chỉ dừng lại tại đó. Dĩ nhiên, mỉa mai ở chỗ tôi chính là người đã xem những bộ phim truyền hình ấy tại phòng khách trong ngôi nhà trên Đại lộ Euclid, trong khi người mẹ nội trợ của tôi đang chuẩn bị món ăn mà không một lời phàn nàn, còn người cha đáng kính thì đang nghỉ ngơi sau một ngày làm việc. Đời sống của cha mẹ cũng truyền thống như bất cứ thứ gì chúng tôi chứng kiến trên ti-vi. Đôi khi Barack còn đùa rằng thật ra thì thời thơ ấu của tôi giống hệt phiên bản người da đen của chương trình Leave it to Beaver, trong đó gia đình Robinson vùng South Shore cũng ổn định và hoạt bát như gia đình Cleaver ở Mayfield, nước Mỹ, dù dĩ nhiên chúng tôi nghèo hơn nhà Cleaver, vì cha tôi mặc đồng phục nhân viên công ích màu xanh chứ không phải bộ com-lê như ông Cleaver. Barack đưa ra so sánh này với một chút ghen tị, vì thời thơ ấu của anh ấy quá khác, nhưng đó cũng là một cách để đẩy lùi hình mẫu rập khuôn cho rằng người Mỹ gốc Phi chủ yếu sống trong các gia đình nghèo khổ, rằng gia đình người da đen không thể nào sống được giấc mơ trung lưu, ổn định như những người hàng xóm da trắng của chúng tôi.
Cá nhân tôi khi còn bé thì lại thích chương trình Mary Tyler Moore hơn, đó là chương trình mà tôi hào hứng mỗi khi xem. Mary có công việc, có tủ quần áo chỉn chu và một mái tóc rất tuyệt. Cô ấy độc lập và hài hước, và khác với những kiểu mẫu phụ nữ khác trên truyền hình, các vấn đề của cô thật sự thú vị. Cô ấy có những cuộc trò chuyện mà chủ đề không xoay quanh chuyện con cái hay nội trợ. Cô không để Lou Grant ra lệnh hay sai khiến, và cô cũng không nhất định phải tìm chồng. Cô ấy trẻ trung và đồng thời cũng thật sự trưởng thành. Vào thời mà Internet còn lâu lắm mới xuất hiện, khi cả thế giới được gói gọn chỉ trong ba kênh truyền hình, tất cả những điều đó rất có ý nghĩa. Nếu bạn là một đứa con gái biết suy nghĩ và có cảm giác mơ hồ rằng bạn muốn trưởng thành với vai trò nào đó hơn cả một người vợ, Mary Tyler Moore chính là nữ thần của bạn.
Và bây giờ tôi ở đây, hai mươi chín tuổi, đang ngồi trong căn hộ nơi tôi đã từng xem những phim truyền hình nói trên và ăn tất cả những bữa ăn được chuẩn bị bởi bà Marian Robinson kiên nhẫn và luôn hết lòng vì gia đình. Tôi đã có được rất nhiều - có học vấn, có cảm giác lành mạnh về bản thân, có một kho tham vọng - và tôi đủ khôn ngoan để biết ơn mẹ tôi vì đã gieo những điều tốt đẹp đó cho tôi. Bà đã dạy tôi đọc ngay cả khi tôi chưa vào nhà trẻ, giúp tôi đánh vần trong lúc tôi cuộn tròn như chú mèo con nằm trong lòng bà và đọc cho tôi nghe quyển Dick and Jane mượn của thư viện. Bà đã nấu ăn cho chúng tôi bằng sự quan tâm săn sóc, cho bông cải và đậu Bỉ vào món ăn và bắt hai anh em phải ăn cho bằng hết. Bà đã thêu tay váy dạ hội cho tôi. Điểm chính yếu là bà đã cho đi một cách bền bỉ kiên trì và đã cho đi tất cả. Bà để gia đình nhận định về bản thân bà. Tôi đã đủ lớn để hiểu ra rằng tất cả thời gian mà bà dành cho anh Craig và tôi là thời gian mà bà chẳng dành cho riêng bản thân mình.
Những may mắn to lớn mà tôi nhận được trong đời giờ đây lại khiến tôi phải suy nghĩ. Tôi được dạy dỗ để trở nên tự tin và không bị bó buộc bởi những giới hạn, để tin rằng tôi có thể theo đuổi và đạt được bất cứ điều gì mình mong muốn. Và tôi muốn mọi thứ. Vì như Suzanne sẽ nói - tại sao lại không? Tôi muốn sống với niềm vui của một phụ nữ khả kính, độc lập và có sự nghiệp - như Mary Tyler Moore, và đồng thời tôi cũng hướng đến sự ổn định, hy sinh có vẻ nhàm chán của một người vợ và một người mẹ - như mẹ tôi. Tôi muốn có cả đời sống công việc và đời sống gia đình, nhưng với một hứa hẹn rằng cuộc sống này sẽ không bao giờ lấn át cuộc sống kia. Tôi hy vọng có thể sẽ trở nên giống mẹ nhưng cũng không hoàn toàn giống mẹ. Đó là một điều kỳ cục và rối rắm. Tôi có thể có tất cả hay không? Tôi sẽ có tất cả hay không? Tôi hoàn toàn không biết.
Trong khi đó, Barack từ Bali trở về với làn da rám nắng và mang một túi đầy giấy, anh đã dùng những ngày biệt lập đó để hoàn thành quyển sách. Quyển sách về cơ bản đã xong. Chỉ trong vài tháng, đại diện của anh đã bán nó cho một nhà xuất bản khác, trả hết khoản nợ và bảo đảm được kế hoạch xuất bản. Đối với tôi, điều quan trọng hơn chính là chỉ trong vài giờ đồng hồ, chúng tôi đã trở lại với nhịp độ dễ thở của đời sống tân hôn. Barack ở đây, đã xong xuôi mọi việc, đã quay trở lại thế giới của tôi. Chồng tôi. Anh ấy mỉm cười trước những câu đùa của tôi, muốn biết về những gì tôi đã làm mỗi ngày và hôn tôi trước khi ngủ.
Những tháng tiếp theo, chúng tôi nấu nướng, làm việc, cười đùa và lên kế hoạch cùng nhau. Cũng trong mùa xuân năm đó, chúng tôi đã thu xếp tài chính đủ để tậu một căn hộ, dời ra khỏi số 7436 Đại lộ Euclid để vào một căn hộ xinh xắn ở Hyde Park, với sàn lát gỗ cứng và lò sưởi ốp gạch. Đó là một bệ phóng mới cho cuộc đời hai chúng tôi. Với sự động viên của Barack, tôi đón nhận thêm một rủi ro khác và lại tiếp tục thay đổi công việc - lần này là nói lời chia tay với chị Valerie và Susan ở tòa thị chính để có thể khám phá công việc phi lợi nhuận, thứ từ lâu luôn khiến tôi tò mò - và đảm nhiệm vai trò nhà lãnh đạo, một cơ hội có thể mang đến cho tôi sự phát triển bản thân. Vẫn còn nhiều điều tôi chưa thể giải quyết trong cuộc đời mình - bài toán làm thế nào để trở thành một người vừa tự do độc lập như Mary vừa nhẫn nhịn hy sinh như mẹ tôi vẫn chưa giải xong - nhưng giờ đây tất cả những câu hỏi sâu xa kia đã được gác qua một bên trong tâm trí tôi, nơi mà tạm thời chúng sẽ ở yên đó và không được nhắc tới. Tôi đã hiểu là từ giờ bất cứ nỗi âu lo nào cũng có thể từ từ tính, vì giờ đây chúng tôi đang là chúng tôi, và chúng tôi hạnh phúc. Và hạnh phúc là khởi đầu cho mọi sự.
(1) Rượu sherry: một loại rượu vang được làm từ nho trắng và được làm cho nặng thêm bằng cách tăng nồng độ cồn.