CÔNG VIỆC MỚI KHIẾN TÔI LO LẮNG. Tôi được tuyển vào vị trí giám đốc điều hành cho một cơ sở mới toanh tại Chicago của Public Allies, một tổ chức cũng vừa mới được thành lập. Public Allies giống một công ty khởi nghiệp của một công ty khởi nghiệp và thuộc một lĩnh vực mà tôi không hề có kinh nghiệm. Public Allies chỉ thành lập mới được một năm ở Washington, D.C., và là đứa con tinh thần của Vanessa Kirsch và Katrina Browne, những người vừa tốt nghiệp đại học và muốn hỗ trợ nhiều người hơn nữa xây dựng sự nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ công và phi lợi nhuận. Barack đã gặp gỡ cả hai ở một buổi hội thảo và trở thành thành viên hội đồng quản trị của tổ chức, cuối cùng anh gợi ý họ liên hệ với tôi về chuyện tìm người cho vị trí đang cần tuyển dụng.
Mô hình này tương tự mô hình đang được áp dụng tại tổ chức phi lợi nhuận Teach for America, và vào thời điểm ấy vẫn còn tương đối mới mẻ: Public Allies tuyển dụng những người trẻ tuổi tài năng, tập trung đào tạo và tư vấn thật tốt cho họ, rồi đặt họ vào vị trí tập sự mười tháng có trả lương trong các tổ chức cộng đồng và các cơ quan nhà nước, với hy vọng là họ có thể phát triển và có những đóng góp ý nghĩa. Mục tiêu lớn hơn là những cơ hội đó có thể trao cho những người được tuyển - những người mà tổ chức xem là Người đồng hành(1) - cả kinh nghiệm lẫn động lực để tiếp tục làm việc trong lĩnh vực công hay phi lợi nhuận trong nhiều năm sau, từ đó giúp xây dựng một thế hệ những nhà lãnh đạo cộng đồng mới.
Bản thân tôi rất đồng cảm với ý tưởng đó. Tôi vẫn còn nhớ năm cuối ở Princeton, rất nhiều sinh viên trong số chúng tôi đã tham gia các kỳ thi vào trường y và trường luật, hoặc ăn mặc chỉn chu để tham gia phỏng vấn cho các chương trình đào tạo tại các tập đoàn lớn mà chưa một lần cân nhắc, hay thậm chí là không nhận ra, vô số những công việc hướng đến cộng đồng đang chờ đợi ngoài kia (ít nhất thì trường hợp của tôi là vậy). Public Allies là phương tiện để thay đổi thực tế ấy, là công cụ giúp mở rộng chân trời cho những người trẻ tuổi đang bận tâm về sự nghiệp của mình. Nhưng điều tôi đặc biệt thích chính là các nhà sáng lập của tổ chức không chú trọng “rải” những sinh viên của Ivy League vào những cộng đồng nơi thành thị, mà tập trung tìm kiếm và hun đúc những tài năng sẵn có ở đó. Bạn không cần bằng đại học để trở thành một Ally. Bạn chỉ cần chứng chỉ tốt nghiệp trung học hay bằng tốt nghiệp trung học, có độ tuổi từ mười bảy đến ba mươi, có tố chất lãnh đạo, mặc dù những tố chất đó có thể chưa được tận dụng.
Public Allies tập trung vào tiềm năng - tìm kiếm, bồi đắp và phát huy tiềm năng đó trong thực tế. Tìm kiếm những thanh niên có tài năng nhưng chưa được khai phá và trao cho họ cơ hội làm một điều gì đó thật ý nghĩa thật sự là một trọng trách. Với tôi, công việc đó gần giống như định mệnh. Sau bao nhiêu lần mơ mộng nhìn khu South Side từ cửa sổ tầng bốn mươi bảy ở Sidley, rốt cuộc đây mới là một lời mời để tôi có thể tận dụng những gì mình đã biết. Tôi biết có rất nhiều tiềm năng cần được khai phá trong những khu phố giống với khu phố nhà tôi, và tôi khá chắc là mình biết cách phát hiện ra những tiềm năng đó.
Khi nghĩ về công việc mới này, tâm trí tôi đã tha thẩn nhớ về thời thơ ấu, cụ thể là vào khoảng thời gian một tháng mà tôi từng trải qua hồi năm lớp hai tại trường tiểu học Bryn Mawr, trước khi mẹ tôi cảm thấy cần phải đưa tôi ra khỏi nơi đó. Khi ấy, tôi chẳng cảm thấy gì khác ngoài việc thấy vui vì bản thân may mắn. Còn giờ đây, tôi nghĩ nhiều hơn đến hai mươi đứa trẻ đã bị bỏ lại trong lớp học đó, mắc kẹt với một cô giáo thiếu sự quan tâm lẫn động lực. Tôi biết mình chẳng giỏi giang gì hơn những đứa trẻ đó. Lợi thế của tôi chỉ là có được một người ủng hộ, đó là mẹ tôi. Giờ đây khi đã trưởng thành, tôi càng nghĩ nhiều hơn về chuyện này, đặc biệt là khi người ta khen ngợi những thành tựu của tôi như thể không hề có điều gì lạ lùng hay phũ phàng đã từng xảy ra. Những học sinh lớp hai vô tội đó đã phải mất một năm học. Vào thời điểm này, tôi đã chứng kiến nhiều chuyện đủ để biết rằng ngay cả những bất lợi nho nhỏ cũng có thể kết thành một bất lợi to lớn nhanh đến mức nào.
Trở lại câu chuyện ở Washington, D.C., các sáng lập viên của Public Allies đã tập hợp được một lớp mười lăm Ally mới đang làm việc trong nhiều tổ chức thuộc các lĩnh vực khác nhau trên khắp thành phố. Họ cũng gây quỹ đủ để triển khai một chi nhánh mới ở Chicago, trở thành một trong những tổ chức đầu tiên nhận được ngân sách liên bang thông qua chương trình công ích AmeriCorps, một chương trình được thiết lập dưới sự chỉ đạo của Tổng thống Clinton. Đó là lúc tôi gia nhập tổ chức, vừa háo hức vừa lo lắng. Dù vậy, khi thỏa thuận các điều khoản trong công việc, tôi đã có một phát hiện hiển nhiên về công việc phi lợi nhuận: nó không hái ra tiền. Ban đầu, tôi được đề nghị một số tiền lương rất thấp, thấp hơn rất nhiều so với mức lương hiện tại ở tòa thị chính thành phố Chicago, vốn dĩ chỉ mới bằng một nửa số tiền tôi kiếm được khi làm luật sư. Tóm lại, đó là mức lương thấp đến nỗi tôi thật sự không thể đồng ý được. Điều này dẫn đến một phát hiện thứ hai về một số tổ chức phi lợi nhuận, đặc biệt là những công ty khởi nghiệp do người trẻ tuổi thành lập như Public Allies, cũng như về nhiều con người có trái tim hào hiệp và tràn đầy nhiệt huyết đang làm việc ở đó: khác với tôi, có vẻ họ phù hợp với công việc phi lợi nhuận, họ có điều kiện thuận lợi để lựa chọn công việc tốt đẹp này - đó là họ không có gánh nặng phải trả nợ học phí đại học, hoặc có lẽ họ được thừa kế một gia sản nào đó, và do đó không phải lo dành dụm cho tương lai.
Rõ ràng là nếu muốn gia nhập Public Allies, tôi sẽ phải thương lượng và yêu cầu họ đáp ứng chính xác nhu cầu của tôi về chuyện lương bổng, mà đó lại là con số lớn hơn nhiều những gì họ dự định sẽ trả cho tôi. Đây đơn giản là thực tại của tôi. Tôi không thể e dè hay xấu hổ về nhu cầu của bản thân. Tôi vẫn còn khoảng sáu trăm đô-la nợ học phí phải trả hàng tháng bên cạnh những khoản chi thông thường, và tôi kết hôn với một người đàn ông cũng có gánh nặng tài chính riêng từ thời học trường luật. Các nhà lãnh đạo của tổ chức gần như không thể tin vào con số mà tôi đã vay để chi trả học phí và số tiền mà tôi phải trả hàng tháng, nhưng họ đã mạo hiểm chấp nhận và dành ra một quỹ mới để có thể mời tôi gia nhập.
Và với thỏa thuận này, tôi bắt tay vào việc và hăng hái sử dụng cơ hội mà mình có được để tạo ra những điều tốt đẹp. Đây thật sự là cơ hội đầu tiên để tôi xây dựng mọi thứ từ con số không: thành hay bại sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào những nỗ lực của tôi, chứ không phải của cấp trên hay một ai khác. Tôi dành trọn mùa xuân năm 1993 làm việc điên cuồng để sắp xếp văn phòng và thuê vài nhân viên để có thể sẵn sàng cho lớp Ally đầu tiên vào mùa thu. Chúng tôi đã tìm thấy một văn phòng giá thấp trong một tòa nhà trên Đại lộ Michigan và thu xếp để nhận một đống bàn ghế đã qua sử dụng do một công ty tư vấn luật tặng khi công ty này bài trí lại văn phòng.
Đồng thời, tôi tận dụng gần như tất cả các mối quan hệ mà Barack và tôi có được ở Chicago, tìm kiếm những mạnh thường quân và những người có thể giúp chúng tôi đảm bảo một nguồn quỹ hỗ trợ lâu dài, đó là chưa kể những người đang công tác trong lĩnh vực công ích, những người sẵn lòng đón nhận một Ally vào tổ chức của mình trong năm sắp tới. Chị Valerie Jarrett đã giúp tôi bố trí công việc tại văn phòng thị trưởng và sở y tế, nơi các Ally sẽ làm việc trong một dự án chủng ngừa cho trẻ em vùng phụ cận. Barack liên lạc với mạng lưới các nhà tổ chức sự kiện cộng đồng quen biết của anh để kết nối chúng tôi với những cơ hội giảng dạy, cố vấn và hỗ trợ pháp lý. Nhiều luật sư ở Sidley đã viết chi phiếu góp tiền và giúp giới thiệu tôi với những mạnh thường quân quan trọng.
Với tôi, phần hào hứng nhất chính là đi tìm các Ally. Với sự giúp đỡ từ các tổ chức trên toàn quốc, chúng tôi đã đăng tin tìm ứng viên tại các trường đại học khắp nước Mỹ, đồng thời cũng tìm kiếm những tài năng xung quanh mình. Tôi và đội ngũ của mình đã đến các trường cao đẳng cộng đồng và một vài trường trung học lớn xung quanh Chicago. Chúng tôi gõ cửa những ngôi nhà trong dự án Cabrini-Green, tham dự những cuộc họp mặt cộng đồng và vận động cho các chương trình hỗ trợ những người mẹ đơn thân. Chúng tôi hỏi bất cứ ai mà mình gặp được, từ các mục sư, giáo sư cho đến quản lý của cửa hàng McDonald’s trong vùng, nhờ họ chỉ ra những người trẻ tuổi thú vị nhất mà họ biết. Ai đang lãnh đạo? Ai đang sẵn sàng cho một điều gì đó to lớn hơn những gì họ đã có? Đó là những người mà chúng tôi khuyến khích ứng tuyển bằng cách động viên họ hãy tạm quên đi những trở ngại mà bình thường vẫn cản trở họ thực hiện những điều tốt đẹp kể trên, đồng thời chúng tôi cũng cam kết rằng tổ chức sẽ làm mọi điều trong khả năng để giúp họ trang trải cuộc sống - dù là cung cấp một thẻ xe buýt miễn phí hay hỗ trợ chi phí nuôi con.
Sang mùa thu, chúng tôi đã có một tập thể hai mươi bảy Ally làm việc khắp Chicago. Họ giữ vai trò thực tập sinh trong nhiều tổ chức khác nhau, từ tòa thị chính cho đến một công ty hỗ trợ quan hệ cộng đồng cho trường trung học Latino Youth ở Pilsen. Tập thể các Ally là một nhóm đa dạng, giàu nhiệt huyết, đầy lý tưởng và khát vọng, cũng như có hoàn cảnh rất khác nhau. Trong số đó có người từng là thành viên băng đảng xã hội đen, một phụ nữ Latin lớn lên ở vùng tây nam Chicago và đã từng học ở Harvard, một cô gái vừa chớm đôi mươi sống tại Khu nhà ở xã hội Robert Taylor, đang nuôi con nhỏ và dành dụm tiền để học đại học, và một chàng trai hai mươi sáu tuổi sống ở Đại lộ Grand đã bỏ học giữa chừng nhưng vẫn tiếp tục trau dồi kiến thức bằng sách thư viện và về sau đã trở lại học tiếp để lấy chứng chỉ tốt nghiệp.
Mỗi thứ Sáu, cả nhóm Ally tụ tập tại văn phòng của một trong những công ty thực tập, dành nguyên ngày để báo cáo, kết nối với nhau và cùng tham gia một loạt những buổi tập huấn phát triển nghiệp vụ. Tôi yêu thích những ngày đó hơn bất kỳ điều gì khác. Tôi yêu cái cách mà căn phòng trở nên ồn ào mỗi khi các Ally xuất hiện, quẳng ba lô vào góc nhà, cởi bỏ những lớp áo khoác dày cộp rồi ngồi thành vòng tròn. Tôi vui khi mình có thể giúp họ giải quyết vấn đề, dù đó chỉ là cách sử dụng Excel, ăn mặc sao cho phù hợp với công việc văn phòng, hay mạnh dạn hơn khi nêu lên suy nghĩ của bản thân trong một căn phòng toàn những người có trình độ học vấn cao hơn và tự tin hơn. Đôi khi tôi phải cho một Ally nào đó phản hồi không vui lắm. Nếu biết họ đi làm trễ hay không nghiêm túc thực hiện các trách nhiệm được giao, tôi nghiêm khắc cho họ biết chúng tôi kỳ vọng họ làm tốt hơn. Khi các Ally chán nản với những cuộc họp cộng đồng được tổ chức kém hay những khách hàng phiền phức, tôi khuyên họ hãy nhìn sự việc dưới nhiều góc độ khác nhau, nhắc nhở họ về sự may mắn tương đối mà họ đang có.
Tuy nhiên, trên hết, chúng tôi vui mừng với từng bài học hoặc tiến bộ mới. Và có rất nhiều bài học và tiến bộ như thế. Không phải tất cả các Ally về sau đều sẽ làm việc trong lĩnh vực cộng đồng hay phi lợi nhuận, và không phải ai cũng có thể vượt qua được những rào cản khi có xuất thân kém lợi thế hơn, nhưng theo thời gian, tôi vui mừng khi thấy biết bao Ally đã thành công và cam kết làm việc lâu dài vì mục đích chung. Một số còn trở thành nhân viên của Public Allies, một số thậm chí đang là lãnh đạo các tổ chức chính phủ và làm trong các tổ chức phi lợi nhuận. Hai mươi lăm năm sau khi thành lập, Public Allies vẫn phát triển lớn mạnh với những chi nhánh ở Chicago và hơn hai chục thành phố khác, cùng hàng ngàn cộng tác viên trên khắp đất nước. Trên suốt con đường sự nghiệp của mình, đây là một trong những lúc tôi cảm thấy thỏa mãn nhất, vì tôi biết mình đã góp phần làm nên thành công đó, đã giúp tạo ra một điều gì đó vững bền.
Tôi chăm chút cho Public Allies như một đứa con tinh thần, tự hào nhưng cũng khá vất vả. Mỗi đêm khi đi ngủ, tôi vẫn nghĩ về những gì cần phải làm, và mỗi buổi sáng khi thức giấc, tôi đã nghĩ xong danh sách các việc cần làm trong ngày hôm đó, tuần đó và tháng đó. Sau khi cho tốt nghiệp lớp đầu tiên bao gồm hai mươi bảy Ally vào mùa xuân, chúng tôi chào đón một nhóm bốn mươi bạn trẻ khác vào mùa thu và tiếp tục phát triển. Nhìn lại, tôi nghĩ đó chính là công việc tuyệt vời nhất tôi từng thực hiện, vì cái cảm giác mạo hiểm tuyệt vời mà tôi nhận được khi tham gia và vì mỗi chiến thắng đều vô cùng xứng đáng với những nỗ lực mà chúng tôi bỏ ra - dù cho đó là chiến thắng hết sức nhỏ bé như tìm được công việc phù hợp cho một người nói tiếng Tây Ban Nha hay giải quyết những nỗi sợ của Ally khi làm việc ở nơi xa lạ.
Thật vậy, lần đầu tiên trong đời, tôi cảm thấy mình đang thực hiện một điều gì đó thật sự có ý nghĩa, có tác động trực tiếp đến cuộc sống của người khác mà đồng thời vẫn gắn kết với cả thành phố quê hương và nền văn hóa của chính mình. Công việc ấy cũng giúp tôi hiểu rõ hơn những gì Barack đã cảm nhận khi anh làm nhà tổ chức sự kiện cộng đồng hoặc tham gia chiến dịch Project VOTE!, đó là sự nỗ lực hết sức cho một trận chiến khó khăn - kiểu trận chiến duy nhất mà Barack yêu thích và sẽ luôn yêu thích - vì anh biết dù nó sẽ rút cạn năng lượng của anh nhưng đồng thời cũng sẽ mang lại tất cả những gì anh cần.
TRONG LÚC TÔI tập trung vào Public Allies, Barack đã bước vào giai đoạn tương đối ổn định và dễ dự đoán hơn - nhưng vẫn là theo chuẩn của anh. Anh đang dạy một lớp về phân biệt chủng tộc và luật tại Trường luật Đại học Chicago, và ban ngày anh làm việc ở hãng luật, chủ yếu giải quyết những vụ án liên quan đến quyền bầu cử và nạn phân biệt đối xử nơi công sở. Thỉnh thoảng anh vẫn tham gia các buổi tập huấn về tổ chức cộng đồng, dẫn dắt một nhóm học viên của tôi ở Public Allies trong một vài buổi học tổ chức vào thứ Sáu. Trong Barack là một sự hiện diện hoàn hảo của một trí thức tuổi ba mươi hướng về cộng đồng, người đã thẳng thừng từ chối bất cứ lựa chọn uy tín hay mang lại nhiều tiền của hơn cho mình để theo đuổi những nguyên tắc của bản thân. Anh ấy đã thành công, theo những gì tôi biết. Anh ấy đã tìm thấy được một sự cân bằng quý giá. Anh ấy là luật sư, giáo viên và nhà tổ chức sự kiện cộng đồng. Anh còn trở thành một tác giả có sách sắp được xuất bản nữa.
Từ Bali trở về, Barack đã dành ra hơn một năm viết bản thảo thứ hai quyển sách của mình vào thời gian rảnh. Anh ấy thức khuya làm việc trong một căn phòng nhỏ mà chúng tôi đã biến thành phòng làm việc ở phía sau căn hộ - một căn phòng đầy kín sách vở mà tôi gọi yêu là “cái ổ”. Thỉnh thoảng tôi sẽ vào đó, giẫm lên mấy chồng giấy tờ của anh để ngồi lên chiếc ghế đôn đặt trước ghế làm việc của anh, cố giúp anh thư giãn bằng một câu nói đùa và một nụ cười, để lôi anh trở về từ cánh đồng xa xôi nào đó mà anh đang phi nước kiệu băng qua trong tâm trí. Những lúc đó anh cũng vui vẻ trước sự “không mời mà đến” của tôi, nhưng với điều kiện là tôi không nán lại quá lâu.
Tôi đã hiểu được rằng Barack là kiểu người cần một cái ổ, một góc biệt lập để anh có thể đọc và viết mà không bị ai quấy rầy. Nơi đó giống như một căn gác có cửa mở thẳng ra vùng trời thênh thang trong tâm trí anh. Có vẻ anh được tiếp thêm năng lượng khi ở trong đó. Tôi tôn trọng điều này, vì thế ở những căn nhà mà chúng tôi sinh sống, chúng tôi đều cố tạo ra một chỗ như vậy - một góc yên tĩnh hay một hốc tường đều được. Đến tận hôm nay, mỗi khi chúng tôi đến Hawaii hay đảo Martha’s Vineyard và thuê một ngôi nhà, Barack sẽ luôn đi tìm cho mình một căn phòng trống có thể dùng làm “ổ” trong kỳ nghỉ. Ở đó anh có thể lần giở sáu hay bảy quyển sách đang đọc đồng thời và vứt báo xuống sàn nhà. Với anh, những cái ổ kiểu vậy là một chốn linh thiêng, nơi các ý tưởng ra đời và mọi thứ trở nên sáng tỏ. Còn đối với tôi, đó là một nơi mất trật tự và gây bực bội. Cho nên dù ở đâu thì mấy cái ổ kiểu đó của anh cũng phải đáp ứng được một yêu cầu của tôi, đó là nó phải có một cánh cửa để tôi có thể đóng lại. Lý do vì sao thì đã quá rõ rồi.
Quyển Dreams from My Father cuối cùng cũng được xuất bản vào mùa hè năm 1995. Quyển sách nhận được nhiều nhận xét tích cực nhưng chỉ bán được một số lượng khiêm tốn, nhưng chẳng sao. Điều quan trọng là Barack đã tìm được cách xử lý câu chuyện cuộc đời mình, ghép lại những mảnh rời rạc của bản sắc Phi châu - Kansas - Indonesia - Hawaii - Chicago trong anh, và bằng cách đó anh đã viết ra một bản mô tả trọn vẹn về bản thân. Tôi tự hào về anh. Qua cách anh kể chuyện, có vẻ anh đã tìm được sự bình yên khi nhắc đến người cha có phần bí ẩn của mình. Đương nhiên, cảm giác bình yên đó đến từ những nỗ lực một chiều của Barack khi anh tự mình lấp đầy mọi khoảng trống và cố hiểu được mọi bí ẩn mà ông Obama tạo ra. Nhưng điều này cũng phù hợp với những gì anh luôn làm trong đời. Tôi nhận ra là từ khi còn bé, anh luôn tìm cách tự giải quyết mọi chuyện.
QUYỂN SÁCH ĐÃ HOÀN TẤT nên cuộc sống của anh có một khoảng không gian mới, và đúng với bản tính của mình, Barack muốn tận dụng không gian đó ngay lập tức. Cuộc sống cá nhân của anh lúc này phải đối mặt với một tin xấu: mẹ anh, bà Ann, bị chẩn đoán ung thư buồng trứng và phải chuyển từ Jakarta về lại Honolulu để chữa trị. Theo những gì chúng tôi được biết, bà đang được chăm sóc y tế rất tốt, và phương pháp hóa trị có vẻ đã phát huy tác dụng. Ông bà Maya và Toot đã đến giúp chăm sóc cho bà ở Hawaii, và Barack thường xuyên liên lạc với họ. Nhưng bệnh tình của bà được phát hiện quá muộn, sau khi các tế bào ung thư đã di căn, vì vậy rất khó biết điều gì sẽ xảy ra. Tôi biết điều này làm tâm trí Barack trĩu nặng.
Cùng thời điểm đó ở Chicago, cuộc tranh luận chính trị bắt đầu căng thẳng trở lại. Thị trưởng Daley được bầu nhiệm kỳ thứ ba vào mùa xuân 1995, và giờ ai nấy cũng đang hướng về cuộc bầu cử năm 1996, khi mà Illinois sẽ chọn ra một thượng nghị sĩ mới và Tổng thống Clinton sẽ ứng cử nhiệm kỳ thứ hai. Một chuyện gây xôn xao dư luận hơn là có một hạ nghị sĩ liên bang đương nhiệm đang bị điều tra hình sự về tội xâm phạm tình dục, điều này tạo ra cửa ngỏ cho một ứng viên Đảng Dân chủ khác vào vị trí hạ nghị sĩ liên bang đại diện cho Quận Hai của tiểu bang, quận này bao gồm một phần lớn South Side. Alice Palmer - một thượng nghị sĩ có tiếng của tiểu bang, người đại diện khu Công viên Hyde và South Shore, đồng thời là người mà Barack quen biết khi tham gia chiến dịch Project VOTE! - đã nói riêng với anh là bà đang có ý định ứng cử vị trí để ngỏ này. Điều này có nghĩa là chiếc ghế thượng nghị sĩ tiểu bang của bà sẽ bỏ trống, từ đó mở ra khả năng là Barack có thể tranh cử vào vị trí đó.
Anh ấy có hứng thú không? Anh ấy có tranh cử không?
Khi đó tôi vẫn chưa thể biết được, nhưng những câu hỏi này đã chi phối cuộc sống của chúng tôi trong suốt mười năm tiếp theo, gần như lúc nào cũng vang lên văng vẳng mỗi khi chúng tôi thực hiện bất kỳ chuyện gì. Anh sẽ làm sao? Anh ấy có thể làm không? Anh ấy có làm không? Anh ấy có nên làm không? Nhưng trước tất cả những câu hỏi này luôn là một câu hỏi khác do chính Barack đặt ra và đặc biệt được ưu tiên mỗi khi anh định tranh cử bất kỳ vị trí nào. Lần đầu tiên anh đặt ra câu hỏi đó là ngày anh cho tôi biết về Alice Palmer và chiếc ghế trống của bà, cũng như về suy nghĩ mà anh đang cân nhắc, rằng có thể anh không chỉ là luật sư/giáo sư/nhà tổ chức/tác giả mà là tất cả những vai trò ấy cộng thêm vai trò một nhà lập pháp của tiểu bang. Đó là câu: “Em nghĩ sao hả Miche?”.
Với tôi, câu trả lời thật ra chẳng bao giờ là khó nghĩ. Tôi không nghĩ việc Barack ra tranh cử là một ý kiến hay. Lập luận cụ thể của tôi có thể sẽ có chút khác biệt mỗi khi câu hỏi đó xuất hiện trở lại, nhưng lập trường chung của tôi vẫn vậy, vẫn đứng vững như cây cù tùng bám rễ sâu xuống lòng đất - mặc dù bạn có thể thấy rõ ràng là câu trả lời của tôi không thể ngăn chặn được chuyện gì cả.
Về cuộc tranh cử chiếc ghế thượng nghị sĩ bang Illinois năm 1996, lập luận của tôi thế này: tôi không thật sự đánh giá cao các chính trị gia, và do đó cũng chẳng mặn mà với ý tưởng chồng tôi sẽ trở thành một chính trị gia. Hầu hết những điều tôi biết về nền chính trị tiểu bang đều đến từ báo chí, và không có điều nào trong số đó là thật sự tốt đẹp hay hữu ích. Tình bạn giữa tôi với Santita Jackson, con gái của một chính trị gia, đã khiến tôi có cảm giác chính trị gia thường buộc phải xa nhà. Nhìn chung, trong suy nghĩ của tôi thì các nhà lập pháp gần giống với những con rùa có cái mai cứng cáp bảo vệ, da đồi mồi nhăn nheo, chuyển động chậm chạp và đầy tư lợi. Mà theo tôi thì Barack quá đỗi chân thành, có quá nhiều dự định táo bạo nên khó có thể chịu được việc đấu đá tranh giành và những hiềm thù ganh tị không ngừng diễn ra bên trong trụ sở Quốc hội bang ở Springfield xa xôi.
Trong thâm tâm, tôi tin là có những cách tốt đẹp khác để một người tử tế có thể tạo ra ảnh hưởng. Thật lòng mà nói, tôi nghĩ anh ấy sẽ bị ăn tươi nuốt sống trong thế giới đó.
Tuy nhiên, có một phản đề đã nhen nhóm đâu đó trong góc khuất ý thức của tôi. Nếu Barack tin là anh ấy có thể làm một điều gì đó trong chính trị, thì tôi là ai mà lại ngăn cản anh? Tôi là ai mà đạp đổ ý tưởng đó khi anh thậm chí còn chưa làm thử? Suy cho cùng, anh là người duy nhất đã vẫy gọi tôi tiến lên phía trước khi tôi muốn từ bỏ sự nghiệp luật sư, là người dẫu có chút lo lắng khi tôi có ý định làm việc ở tòa thị chính nhưng vẫn ủng hộ tôi, và là người ngay lúc này đây đang làm nhiều công việc khác nhau, một phần là để bù vào khoản thu nhập bị giảm sút khi tôi trở thành người làm-điều-tốt toàn thời gian ở Public Allies. Trong sáu năm chúng tôi bên nhau, anh ấy chưa một lần nghi ngờ bản năng hay năng lực của tôi. Điệp khúc của anh vẫn luôn là: Đừng lo. Em có thể làm được. Chúng ta sẽ tìm ra cách.
Và thế là tôi đồng tình với ý định tranh cử lần đầu của anh, chèn thêm một lời cảnh báo rất mực vợ hiền, “Em nghĩ anh sẽ thất vọng đó. Nếu được bầu, anh sẽ mắc kẹt ở đó và không làm được gì nữa, dù anh có cố gắng đến đâu. Chuyện đó sẽ khiến anh phát điên”.
“Có lẽ là vậy”, Barack nói, kèm theo một cái nhún vai tư lự. “Nhưng biết đâu anh có thể làm được điều gì đó tốt đẹp. Ai mà biết được?”
“Cũng đúng”, tôi nhún vai đáp lại. Tôi không việc gì phải xen ngang sự lạc quan của anh. “Ai mà biết được chứ?”.
CHUYỆN NÀY CHẲNG CÓ AI mà không biết: chồng tôi thật sự đã trở thành một chính trị gia. Anh ấy là một người tử tế muốn tạo ra tác động nào đó trên thế giới, và bất chấp sự hoài nghi của tôi, anh ấy quyết đây chính là cách tốt nhất để đạt được điều đó. Bản chất niềm tin của anh ấy chính là như vậy.
Barack được bầu vào thượng viện bang Illinois tháng Mười Một năm 1996 và tuyên thệ nhậm chức vào hai tháng sau đó, tức là đầu năm 1997. Ngạc nhiên thay, tôi lại thích thú quan sát chiến dịch vận động của anh. Và tôi đã giúp thu thập chữ ký để đưa anh đến vòng bỏ phiếu, gõ cửa từng nhà tại khu phố tôi từng sinh sống vào các ngày thứ Bảy, lắng nghe ý kiến của người dân về tiểu bang và chính quyền ở đó - tất cả những điều mà họ cho rằng cần phải chỉnh đốn. Với tôi, điều này gợi nhớ những dịp cuối tuần hồi tôi còn bé và thường theo cha bước lên những thềm cửa đó để ông thực hiện bổn phận trưởng khu của mình. Ngoài việc này ra, tôi không quá cần thiết đối với quá trình tranh cử, và như thế lại cực kỳ hợp với tôi. Tôi có thể xem chiến dịch tranh cử như một thú vui, tiện tay thì làm, tận hưởng quá trình đó, rồi quay về công việc của riêng mình.
Không lâu sau khi Barack công bố tranh cử, mẹ anh qua đời ở Honolulu. Sức khỏe của bà suy nhược nhanh đến mức anh ấy không kịp đến bên bà để nói lời vĩnh biệt. Điều này khiến anh đau đớn. Mẹ Ann Dunham là người đã dẫn anh vào thế giới văn chương bay bổng và dạy anh biết sức mạnh của những lập luận rõ ràng. Nếu không có bà, anh ấy hẳn sẽ không thể cảm nhận được những cơn mưa mùa gió bão ở Jakarta hay thấy được những ngôi đền nước tại Bali. Không có bà, anh ấy hẳn sẽ không bao giờ hiểu được việc đi từ lục địa này sang lục địa khác dễ dàng và phấn khích đến mức nào, cũng như không biết cách trân trọng những điều không thân thuộc. Bà là một nhà thám hiểm, một người can đảm đi theo tiếng gọi của con tim. Tôi nhìn thấy tinh thần của bà nơi Barack, thể hiện qua những điều lớn lẫn nhỏ. Nỗi đau mất mát này như một lưỡi dao cắm sâu vào lòng vợ chồng tôi, ngay cạnh lưỡi dao đã cứa vào khi chúng tôi mất cha tôi.
Lúc này đã là mùa đông và cơ quan lập pháp đang trong kỳ họp, chúng tôi phải xa nhau gần như cả tuần. Barack lái xe bốn giờ đồng hồ đến Springfield vào các đêm thứ Hai và ở trong một khách sạn rẻ tiền mà rất nhiều nhà lập pháp khác cũng đang trú lại. Anh thường về nhà vào cuối ngày thứ Năm. Anh có một văn phòng nhỏ ở tòa nhà nghị viện và một nhân viên bán thời gian ở Chicago. Anh đã giảm khối lượng công việc ở hãng luật, nhưng để duy trì tốc độ trả nợ, anh đã nhận thêm giờ dạy ở trường luật và lên lịch dạy vào những ngày anh không phải đến Springfield, cũng như sẽ dạy thêm khi thượng viện không ở trong kỳ họp. Hai chúng tôi tâm sự với nhau qua điện thoại mỗi đêm, trao đổi những điều cần chú ý và chia sẻ những câu chuyện trong ngày. Vào các ngày thứ Sáu, chúng tôi sẽ hẹn hò nhau tại một nhà hàng tên Zinfandel ở trung tâm Chicago sau khi cả hai đã xong việc.
Giờ đây khi nhớ lại những đêm hẹn hò đó, tôi vẫn cảm thấy nôn nao một cảm giác dễ chịu. Tôi thích ánh sáng mờ ảo và ấm cúng của nhà hàng Zinfandel. Tôi sẽ luôn là người đến trước vì tính đúng giờ của mình. Tôi sẽ chờ Barack, và vì đó là cuối tuần, vì tới lúc này tôi đã quá quen với chuyện anh ấy sẽ đến trễ, nên tôi chẳng còn thấy phiền hà gì nữa. Tôi biết cuối cùng thì anh ấy cũng sẽ xuất hiện, và tim tôi sẽ loạn nhịp như thường lệ khi nhìn thấy anh bước vào cửa, đưa áo khoác cho nhân viên lễ tân nhà hàng trước khi len lỏi qua những dãy bàn rồi cười lộ cả hàm răng khi nhìn thấy ánh mắt tôi. Anh sẽ hôn tôi và cởi áo vét, choàng nó ra sau ghế rồi ngồi xuống. Chồng tôi. Thói quen này khiến tôi vững tâm. Gần như tối thứ Sáu nào chúng tôi cũng gọi cùng một thực đơn - bò hầm, bắp cải Brussel cùng với khoai nghiền - và khi thức ăn được dọn lên, chúng tôi sẽ ăn sạch.
Đó là thời hoàng kim của chúng tôi, của sự cân bằng trong cuộc hôn nhân, anh theo đuổi những mục đích của anh và tôi theo đuổi mục đích của tôi. Chỉ trong tuần đầu hoạt động trong thượng viện ở Springfield, Barack đã công bố mười bảy dự luật mới - ắt hẳn là một con số kỷ lục, và ít nhất cũng là bằng chứng cho nhiệt huyết của anh. Một số dự luật được thông qua, nhưng hầu hết sẽ nhanh chóng bị thượng viện do Đảng Cộng hòa kiểm soát loại ra, bị phủ quyết bởi tinh thần đảng phái và sự hoài nghi mà các đồng nghiệp mới của anh xem như chuyện thường. Ngay những tháng đầu tiên đó tôi đã thấy chính trị là một trận chiến, hệt như tôi đã dự đoán, và đó là trận chiến hao hơi tổn sức, có sự xa lánh và phản bội, có những kẻ chơi bẩn và những sự thỏa hiệp mà thỉnh thoảng sẽ khiến người ta đau đớn. Nhưng đồng thời tôi nhận ra dự đoán của Barack cũng đúng. Anh ấy phù hợp một cách kỳ lạ với cuộc tranh đấu của quá trình làm luật, anh điềm tĩnh giữa cơn bão, quen làm người ngoài cuộc, đón nhận thất bại với vẻ thong dong đậm chất Hawaii của mình. Anh vẫn hy vọng, cương quyết hy vọng và tin rằng một phần nào đó trong tầm nhìn của anh sẽ thắng thế vào một ngày nào đó, bằng một cách nào đó. Anh đã từng nếm đòn, nhưng chuyện đó không khiến anh phiền lòng. Dường như anh sinh ra dành cho cuộc chiến này. Anh có bị móp méo nhưng vẫn sáng bóng, như một chiếc ấm đồng cũ.
Bản thân tôi cũng đang trong giai đoạn chuyển đổi. Tôi đã chọn một công việc khác và rời khỏi Public Allies, tổ chức mà tôi đã tận tâm gầy dựng và phát triển. Suốt ba năm trời, tôi đã cống hiến cho tổ chức bằng tất cả nhiệt huyết, gánh vác từ chuyện lớn tới chuyện nhỏ để vận hành tổ chức, thậm chí kiêm luôn nhiệm vụ thay giấy cho máy photocopy. Khi Public Allies lớn mạnh và có thể vận hành lâu dài nhờ nguồn quỹ và sự hỗ trợ từ liên bang trong suốt nhiều năm, tôi cảm thấy giờ đây mình đã có thể yên tâm ra đi. Và thật tình cờ là vào mùa thu năm 1996, một cơ hội mới bỗng từ trên trời rơi xuống. Chú Art Sussman, vị luật sư tại Đại học Chicago mà tôi đã gặp vài năm trước, đã gọi điện đến và thông báo về một vị trí mới trong trường.
Hóa ra Đại học Chicago đang tìm kiếm một phó hiệu trưởng chuyên trách quan hệ cộng đồng, cam kết tạo ra sự kết nối hiệu quả hơn với thành phố, đặc biệt là với khu South Side xung quanh trường, bao gồm việc xây dựng một dự án công ích cộng đồng nhằm kết nối sinh viên với các cơ hội làm tình nguyện tại địa phương. Cũng giống vị trí của tôi tại Public Allies, công việc mới này liên quan đến một thực tế mà tôi từng kinh qua. Như tôi đã chia sẻ với chú Art nhiều năm trước, Đại học Chicago, nơi có những bức tường ngăn cách với cộng đồng xung quanh, luôn cho tôi cảm giác khó chạm tới và ít quan tâm đến tôi hơn các trường ở vùng East Coast mà tôi đã đăng ký theo học. Giảm bớt những rào cản, giúp sinh viên gắn bó với thành phố hơn và giúp cư dân gắn kết với trường hơn là những việc khiến cho tôi cảm thấy như được truyền cảm hứng.
Ngoài nguồn cảm hứng này, còn có những nguyên nhân sâu xa hơn khiến tôi quyết định thay đổi công việc. Trường Đại học Chicago mang đến sự ổn định mà một tổ chức phi lợi nhuận vẫn còn tương đối mới không thể có được. Lương của tôi cũng cao hơn, thời gian làm việc hợp lý hơn, đồng thời ở đây có sẵn nhân viên phụ trách tiếp giấy cho máy photocopy và sửa máy in nên tôi không còn phải bận tâm mấy chuyện đó nữa. Tôi giờ đây đã ba mươi hai tuổi và bắt đầu cân nhắc hơn về khối lượng công việc mình muốn gánh vác. Trong những đêm hẹn nhau ở Zinfandel, Barack và tôi thường tiếp tục cuộc trò chuyện mà chúng tôi đã nói với nhau suốt nhiều năm qua, dưới nhiều hình thức khác nhau, về tác động của chúng tôi, về việc mỗi người chúng tôi có thể tạo ra sự khác biệt ở đâu và bằng cách nào, cũng như về cách phân bổ thời gian và năng lượng hiệu quả nhất.
Về phần tôi, một vài câu hỏi trước kia, như tôi là ai và tôi muốn trở thành ai đang bắt đầu xuất hiện trở lại và cứ lởn vởn trong tâm trí tôi. Tôi đã chọn công việc mới một phần là để tạo thêm không gian cho cuộc sống của vợ chồng tôi, một phần cũng vì chế độ phúc lợi y tế ở đó tốt hơn các nơi mà tôi từng làm việc qua. Và điều này hóa ra lại rất quan trọng. Một tối thứ Sáu khác tại bàn ăn trong nhà hàng Zinfandel, khi Barack và tôi nắm tay ngồi đối diện nhau trong ánh nến lãng mạn, món bò hầm đã vét sạch và món tráng miệng đang sắp được dọn lên, chúng tôi biết hạnh phúc của mình chưa trọn vẹn. Chúng tôi đang muốn có con nhưng chuyện này không mấy suôn sẻ.
HÓA RA ngay cả hai con người tận tụy dám nghĩ dám làm với một tình yêu sâu sắc và đạo đức nghề nghiệp vững vàng cũng không thể chỉ dùng ý chí để có con. Khả năng sinh sản không phải là thứ mà bạn có thể chinh phục. Thật khó chịu khi nỗ lực không dẫn đến kết quả tương ứng. Đối với tôi và Barack, chuyện này vừa bất ngờ vừa đáng thất vọng. Có vẻ như dù chúng tôi cố gắng đến mấy thì tôi vẫn không có thai. Có giai đoạn tôi đã tự nhủ đây đơn giản chỉ là vấn đề vợ chồng gần gũi với nhau, hậu quả của việc Barack cứ đi đi về về Springfield. Sinh hoạt của vợ chồng tôi không diễn ra theo chu kỳ của hormone, mà theo lịch họp của cơ quan lập pháp Illinois. Tôi nghĩ đây là điều mà chúng tôi có thể tìm cách thay đổi.
Nhưng các nỗ lực và điều chỉnh của chúng tôi vẫn không có hiệu quả. Sau nhiều năm tính toán cẩn thận để tránh đậu thai, giờ đây tôi chỉ mong muốn điều ngược lại. Tôi xem đó như một nhiệm vụ. Có một lần tôi thử thai và thấy kết quả dương tính, chuyện này đánh bay mọi lo lắng và khiến cả hai chúng tôi mừng rỡ vô cùng, nhưng vài tuần sau đó tôi bị sẩy thai. Mỗi khi nhìn thấy những người mẹ vui vẻ dắt con đi trên đường, trong tôi lại day dứt một nỗi khao khát, sau đó đau đớn vì cảm giác bất lực. Niềm an ủi duy nhất chính là Barack và tôi đang sống cách vợ chồng anh Craig chỉ một dãy nhà, hai người họ đã có hai đứa con đáng yêu là Leslie và Avery. Tôi cảm thấy bình tâm mỗi khi ghé qua chơi đùa và đọc truyện cho các cháu.
Nếu phải kể ra những chuyện mà không ai có thể diễn tả cho bạn hiểu cho đến khi bạn đích thân trải nghiệm, thì tôi sẽ bắt đầu với chuyện sẩy thai. Sẩy thai là một trải nghiệm khiến bạn cảm thấy đơn độc, nhụt chí và đau đớn đến tận tâm can. Khi bị sẩy thai, bạn thường lầm tưởng đó là thất bại của bản thân, nhưng chuyện đó không đúng. Hoặc có thể bạn xem đó là một bi kịch, nhưng điều đó cũng không đúng, dù ngay thời điểm đó bạn có cảm thấy tồi tệ đến thế nào đi nữa. Điều mà chẳng ai nói với bạn là tình trạng sẩy thai rất phổ biến và rất nhiều phụ nữ gặp phải tình trạng này, nhưng bạn không thể hình dung được vì không ai nói nhiều về chủ đề này. Tôi hiểu ra điều này sau khi đề cập đến chuyện sẩy thai của mình với vài người bạn, những người đã đáp lại tôi bằng tình yêu thương và sự hỗ trợ, cũng như an ủi tôi bằng chính câu chuyện sẩy thai của họ. Điều này không thể xóa nhòa nỗi đau, nhưng bằng cách khơi lại niềm đau của chính mình, họ giúp tôi điềm tĩnh hơn khi đối mặt với nỗi đau của bản thân, giúp tôi nhận ra chuyện mà tôi đã trải qua cũng chỉ là một trục trặc sinh học bình thường, là chuyện trứng đã được thụ tinh nhưng không thể tiếp tục hành trình, có lẽ vì một lý do hợp lý nào đó.
Một người bạn đã giới thiệu cho tôi một bác sĩ chuyên khoa hiếm muộn mà vợ chồng chị từng đến khám. Barack và tôi đã đến đó để kiểm tra sức khỏe, nhưng sau đó, bác sĩ cho biết cả hai chúng tôi đều không có vấn đề gì cả. Vậy là cũng không biết vì sao tôi không thể có thai. Bác sĩ khuyên tôi sử dụng Clomid, một loại thuốc kích thích rụng trứng trong vài tháng. Khi Clomid cũng không có tác dụng, ông ấy khuyên chúng tôi chuyển sang thụ tinh nhân tạo. Chúng tôi vô cùng may mắn khi bảo hiểm y tế của Đại học Chicago sẽ chi trả phần lớn số tiền này.
Cảm giác khi đó giống như có một tấm vé số được ăn cả ngã về không, chỉ là trong trường hợp này thì có liên quan đến khoa học. Thật không may là khi liệu trình sơ khởi vừa hoàn thành thì cơ quan lập pháp của tiểu bang cũng bắt đầu kỳ hoạt động mùa thu và “bắt cóc” anh chồng ngọt ngào, biết quan tâm chăm sóc của tôi, khiến tôi phải một mình xoay xở để hoàn thành liệu trình khó khăn này. Điều này bao gồm việc tôi phải tự tiêm thuốc cho mình mỗi ngày trong suốt vài tuần liền. Theo kế hoạch, tôi sẽ sử dụng loại thuốc đầu tiên để hãm trứng và sau đó dùng một loại thuốc khác để kích thích trứng rụng trở lại, với mục đích sản sinh ra một loạt trứng khỏe mạnh.
Toàn bộ quá trình đó cùng với việc không biết kết quả sẽ ra sao khiến tôi lo lắng, nhưng tôi muốn có con. Đó là một nhu cầu luôn hiện diện trong tôi. Hồi còn là một cô bé con, khi đã chán ngấy làn da nhựa của búp bê, tôi năn nỉ mẹ sinh cho tôi một đứa em, một đứa em bằng xương bằng thịt. Tôi hứa với mẹ là tôi sẽ đảm nhiệm mọi trọng trách. Khi bà không đồng ý, tôi đã lùng sục ngăn tủ đựng đồ lót của bà để tìm lọ thuốc ngừa thai của bà, nghĩ rằng biết đâu nếu tôi đem giấu chúng thì sẽ có được kết quả như mong muốn. Tất nhiên là tôi đã không đạt được mục đích, nhưng vấn đề ở đây là tôi đã chờ đợi điều này từ rất lâu. Tôi muốn có một gia đình và Barack cũng muốn. Và thế là giờ đây tôi đang ngồi một mình trong phòng tắm của căn hộ, cố gom góp hết can đảm để đâm kim tiêm vào đùi mình, vì khao khát biến những mong mỏi kia thành hiện thực.
Có lẽ đó cũng là lần đầu tiên tôi cảm nhận được nỗi oán giận của mình đối với chính trị và cả sự tận tụy không gì lay chuyển được của Barack trong công việc. Hoặc có lẽ tôi chỉ đang cảm thấy cái gánh nặng sâu kín của phụ nữ. Dù sao đi nữa, Barack đã đi xa và tôi thì ở đây, gánh vác trách nhiệm này. Tôi đã cảm nhận được là mình sẽ phải hy sinh nhiều hơn anh. Trong những tuần tiếp theo, anh sẽ lo liệu công việc như bình thường, còn tôi thì đi siêu âm mỗi ngày để kiểm tra tình trạng và chất lượng trứng. Anh ấy không phải trích máu. Anh ấy không cần bất cứ buổi hẹn nào để kiểm tra cổ tử cung. Anh ấy, chồng tôi, đã làm những gì anh có thể làm được một cách tận tâm và đầy yêu thương. Anh đọc tất cả những bài viết về thụ tinh trong ống nghiệm và trò chuyện với tôi suốt cả đêm về chủ đề này, nhưng nhiệm vụ duy nhất trên thực tế của anh chỉ là xuất hiện ở phòng khám và cung cấp một ít tinh trùng. Và sau đó, nếu muốn thì anh có thể đi uống một ly martini. Anh không có lỗi, nhưng những chuyện đó thật không công bằng, và đối với bất kỳ phụ nữ nào coi trọng sự bình đẳng thì thực tế này có thể hơi khó khăn một chút. Tôi là người phải thay đổi tất cả, phải tạm ngưng đam mê và mơ ước sự nghiệp của mình, để hoàn thành phần mơ ước này của hai chúng tôi. Có lúc tôi đã tính đến chuyện bỏ cuộc, nhưng rồi tôi tự hỏi, Mình muốn có con hay không? Có, tôi rất muốn có con. Và thế là tôi cầm ống tiêm lên rồi tự tiêm vào đùi mình.
KHOẢNG TÁM TUẦN SAU, các nỗ lực của tôi đã được đền đáp và cảm giác tủi thân trách hờn đã được xóa sạch khi máy siêu âm phát hiện tiếng tim thai yếu ớt trong cơ thể tôi. Tôi có thai. Điều đó là thật. Trách nhiệm và sự hy sinh bỗng mang một ý nghĩa hoàn toàn khác, như một khung cảnh được phủ lên những sắc màu mới mẻ, hay tất cả những món đồ nội thất trong nhà được sắp xếp lại sao cho giờ đây mọi thứ đều phù hợp một cách hoàn hảo. Tôi bước đi với một bí mật bên trong cơ thể mình. Đó là một đặc ân, là món quà vô giá của phụ nữ. Tôi cảm thấy vui sướng với tương lai tốt đẹp mà tôi đang mang trong mình.
Tôi vẫn luôn cảm thấy như thế, kể cả khi cơn mệt mỏi của ba tháng đầu thai kỳ khiến tôi kiệt sức, khi công việc của tôi vẫn bận rộn còn Barack vẫn đến thủ phủ tiểu bang để công tác mỗi tuần. Chúng tôi có cuộc sống ở thế giới bên ngoài, nhưng giờ đây có thêm một thứ khác bên trong, một đứa bé đang lớn dần, một bé gái bé bỏng. (Vì Barack là anh chàng ưa dữ kiện, còn tôi thì ưa hoạch định, nên việc xác định giới tính của con là điều bắt buộc.) Chúng tôi chưa thể nhìn thấy bé, nhưng bé đang ở đó, dần dần phát triển cả về hình hài lẫn sức sống khi mùa thu chuyển sang đông, rồi đông sang xuân. Điều mà tôi đã từng cảm thấy - cảm giác ghen tị với Barack vì anh có thể tách khỏi quá trình - giờ đây đã đảo ngược. Anh đứng bên ngoài, còn tôi được sống với quá trình này. Tôi chính là quá trình, không thể tách khỏi sinh linh bé nhỏ đang phát triển và quơ tay đạp chân bên trong cơ thể của tôi. Tôi không cô đơn, cũng không cô độc. Con bé luôn ở đó khi tôi lái xe đi làm, khi tôi xắt rau để làm món rau trộn, hay trong lúc tôi nằm trên giường vào buổi tối, miệt mài xem quyển sách thai giáo What to Expect When You’re Expecting đến lần thứ chín trăm.
Mùa hè ở Chicago luôn đặc biệt với tôi. Tôi yêu bầu trời vẫn còn sáng khi đêm về, Hồ Michigan trở nên nhộn nhịp với những chiếc thuyền buồm và thời tiết ấm áp đến mức người ta không thể nhớ mùa đông đã lạnh lẽo ra sao. Tôi yêu mùa hè khi các hoạt động chính trị bắt đầu trở nên yên ắng và cuộc sống trở nên vui vẻ hơn.
Mặc dù chúng tôi thật sự không thể kiểm soát điều gì, nhưng bằng cách nào đó, cuối cùng mọi chuyện diễn ra như thể chúng tôi đang trù tính thời gian thật hoàn hảo. Sáng sớm ngày bốn, tháng Bảy năm 1998, tôi cảm nhận được cơn đau chuyển dạ đầu tiên. Barack đưa tôi nhập viện tại Bệnh viện Đại học Chicago. Cùng đi theo để hỗ trợ còn có mẹ tôi và Maya, người đã bay từ Hawaii sang để có mặt vào đúng tuần dự sinh của tôi. Phải nhiều giờ nữa thì những đống than của các bữa tiệc nướng ngoài trời mừng Quốc khánh mới bắt đầu cháy sáng khắp thành phố, và người người sẽ trải khăn ngồi trên bãi cỏ dọc theo bờ hồ, vẫy cờ và háo hức chờ xem pháo hoa rực rỡ trên mặt hồ. Đằng nào thì chúng tôi cũng đã bỏ lỡ tất cả những điều đó vào dịp Quốc khánh năm ấy và đắm chìm trong niềm vui hân hoan mới. Chúng tôi không nghĩ về đất nước mà nghĩ về gia đình mình, khi bé Malia Ann Obama, một trong hai đứa trẻ hoàn hảo nhất trần đời, bước vào trong thế giới của chúng tôi.
(1) “Người đồng hành”: tiếng Anh là “ally”, do đó những người đồng hành được tuyển vào trong tổ chức Public Allies cũng được gọi là các “Ally”.