VAI TRÒ LÀM MẸ TRỞ THÀNH ĐỘNG LỰC CỦA TÔI. Nó chi phối mọi hoạt động, mọi quyết định và nhịp sống hàng ngày của tôi. Tôi không mất thời gian, cũng chẳng suy nghĩ gì khi dấn thân hoàn toàn vào vai trò mới này của mình. Tôi là người chú ý chi tiết, và một đứa trẻ chính là một kho chi tiết. Barack và tôi cẩn thận quan sát Malia, cảm nhận sự bí ẩn của bờ môi chúm chím, mái đầu lòa xòa tóc, ánh mắt không thể tập trung của con bé, cũng như cách con bất ngờ huơ tay huơ chân. Chúng tôi tắm cho con bé, bao bọc nó trong lớp quần áo ấm và áp sát vào lồng ngực mình. Chúng tôi theo dõi giờ giấc ăn uống, ngủ nghỉ, từng tiếng ợ hơi của con. Chúng tôi phân tích mọi thứ có trong từng tấm tã mà con bé đã dùng qua, cứ như thể nó có thể tiết lộ cho chúng tôi biết mọi bí mật của con bé.
Malia là một vũ trụ thu nhỏ, một hình hài bé nhỏ mà chúng tôi được tin tưởng trao cho. Tôi xông xáo với trách nhiệm này và hết lòng chăm sóc con. Tôi có thể bỏ ra cả một giờ chỉ để ngắm con bé thở. Khi có một đứa trẻ trong nhà, thời gian cứ thoắt nhanh thoắt chậm, chẳng còn tuân theo những quy luật bình thường. Đôi khi một ngày có thể dài như vô tận, và bỗng nhiên cả sáu tháng vút qua hồi nào không hay. Barack và tôi bật cười về những đổi thay khi đã làm cha làm mẹ. Nếu như trước đây chúng tôi dành thời gian ăn tối để trao đổi về tính phức tạp của hệ thống luật cho thanh thiếu niên, so sánh những gì tôi đã học được trong quãng thời gian làm việc ở Public Allies với vài ý tưởng mà anh ấy đang cố gắng đưa vào đạo luật cải cách của thượng viện, thì giờ đây, chúng tôi tranh luận xem Malia có quá lệ thuộc vào núm vú cao su hay không, cũng như so sánh cách tôi và cách anh ấy dỗ bé ngủ. Cũng như những người mới làm cha làm mẹ khác, chúng tôi bị ám ảnh với tất cả những gì liên quan đến con, nhưng sau tất cả thì không có điều gì khiến chúng tôi hạnh phúc bằng việc có con và được chăm con. Chúng tôi đặt Malia bé nhỏ lên xe đẩy và đưa con đến Zinfandel vào những buổi hẹn tối thứ Sáu, nghĩ cách giản lược thực đơn của mình sao cho có thể dùng bữa xong và trở về nhà thật nhanh, trước khi con bé trở nên khó chịu.
Khi Malia được vài tháng, tôi quay lại với công việc ở Đại học Chicago. Tôi thương lượng để làm việc bán thời gian vì nghĩ rằng đây là cách thu xếp vẹn cả đôi đường - tôi có thể vừa là một phụ nữ có sự nghiệp vừa là một người mẹ hoàn hảo, duy trì sự thăng bằng giữa Mary Tyler Moore và Marian Robinson mà tôi vẫn luôn mong mỏi. Chúng tôi đã tìm được một người giữ trẻ, đó là chị Glorina Casabal, một bảo mẫu tận tâm, thạo nghề và lớn hơn tôi khoảng mười tuổi. Chị được sinh ra ở Philippines, được đào tạo trở thành y tá và đã tự mình nuôi hai đứa con. Chị Glorina - hay “Glo” - là một phụ nữ có dáng người thấp, đầy đặn, mái tóc ngắn phù hợp với tính chất công việc cùng với cặp kính gọng kim loại mạ vàng, và chị có khả năng thay tã trong vẻn vẹn mười hai giây. Chị có sự nhiệt tình của một y tá, tinh thần sẵn sàng đảm đương mọi nhiệm vụ và đã trở thành một thành viên quan trọng được yêu mến trong gia đình chúng tôi suốt nhiều năm sau đó. Phẩm chất quan trọng nhất của chị là rất mực yêu thương con gái của tôi.
Điều mà tôi đã không nhận ra - và sẽ xuất hiện trong danh sách những điều mà nhiều người trong số chúng ta hiểu ra quá muộn - là công việc bán thời gian có thể là một cái bẫy, nhất là khi nó là phiên bản thu gọn của công việc toàn thời gian trước đây. Hay ít nhất đó là những gì đã xảy ra với tôi. Tại nơi làm việc, tôi vẫn dự tất cả các cuộc họp như trước giờ, đồng thời cũng đánh vật với phần lớn những trách nhiệm như xưa. Điểm khác biệt duy nhất là giờ đây tôi chỉ kiếm được một nửa số lương ban đầu và đang cố gắng nhồi nhét mọi thứ vào một tuần hai mươi giờ công. Nếu một cuộc họp kết thúc muộn, tôi sẽ phải lao hết tốc lực về nhà để đón Malia (Malia thì háo hức và vui vẻ, còn tôi thì nhễ nhại mồ hôi và thở hồng hộc) để chúng tôi có thể đến lớp Wiggleworms(1) đúng giờ vào buổi chiều tại một phòng thu nhạc ở North Side. Đối với tôi thì chuyện này có cảm giác như một tình thế tiến thoái lưỡng nan khiến người ta không còn tỉnh táo. Tôi đấu tranh với cảm giác tội lỗi vì phải nghe điện thoại công việc khi đang ở nhà, rồi tôi lại đấu tranh với một cảm giác tội lỗi khác khi ngồi ở văn phòng mà tâm trí mải nghĩ về việc có thể Malia bị dị ứng đậu phộng. Công việc bán thời gian lẽ ra phải giúp tôi được tự do hơn, nhưng thực tế thì nó khiến tôi cảm thấy như thể mình đang làm việc nửa vời, như thể tất cả những lằn ranh trong cuộc sống của tôi đều không còn rõ nét.
Trong khi đó, dường như Barack chưa hề đánh mất phong độ. Vài tháng sau khi Malia ra đời, anh tái đắc cử một nhiệm kỳ bốn năm nữa ở thượng viện tiểu bang, giành được 89% phiếu bầu. Anh nổi tiếng, thành công và đang bắt đầu nghĩ về những thứ lớn lao hơn - chẳng hạn như ứng cử vào Quốc hội, với hy vọng hất cẳng Bobby Rush, một thượng nghị sĩ Đảng Dân chủ đang ở năm thứ tư nhiệm kỳ. Tôi có nghĩ tranh cử Quốc hội là một ý hay hay không? Không, tôi không nghĩ đó là một ý hay. Tôi nghĩ anh ấy rất khó lòng chiến thắng, vì Rush là nhân vật nổi tiếng, còn Barack thì thật sự không là ai cả. Nhưng giờ đây anh ấy là một chính trị gia và có chỗ đứng trong Đảng Dân chủ. Anh ấy có các cố vấn và người ủng hộ, một vài người trong số họ đang thúc anh thử sức xem sao. Ai đó đã thử tiến hành một cuộc thăm dò sơ bộ và cho ra kết quả là có thể anh sẽ thắng. Và có một chuyện tôi biết chắc về chồng mình: đừng ve vẩy cơ hội trước mặt anh ấy, loại cơ hội có thể giúp anh ấy tạo ra tác động to lớn hơn, rồi hy vọng anh ấy sẽ ngoảnh mặt bước đi. Vì anh ấy sẽ không làm thế. Anh ấy sẽ không ngoảnh mặt trước cơ hội.
CUỐI NĂM 1999, khi Malia gần mười tám tháng tuổi, chúng tôi đưa con bé đến Hawaii vào dịp Giáng sinh để thăm bà cố Toot, khi ấy đã bảy mươi bảy tuổi và đang sống trong căn hộ nhỏ ở tòa nhà cao tầng mà bà vẫn sống hàng chục năm nay. Đó vốn là một chuyến thăm gia đình - lần duy nhất trong năm bà Toot có thể gặp cháu trai và cháu cố của mình. Mùa đông lạnh lẽo lại bao trùm Chicago. Vì cảm thấy sốt ruột khi ở nhà lẫn lúc ở công ty, chúng tôi đặt trước một phòng khách sạn nho nhỏ gần bãi biển Waikiki và bắt đầu đếm ngược chờ ngày về thăm gia đình. Học kỳ dạy học của Barack ở trường đã kết thúc, còn tôi đã xin nghỉ phép. Nhưng rồi chính trị lại chen ngang.
Thượng viện tiểu bang Illinois đang có cuộc tranh luận dài hơi để xác lập các điều khoản của một dự luật quan trọng về tội phạm. Thay vì nghỉ lễ, thượng viện chuyển sang chế độ làm việc đặc biệt nhằm đẩy nhanh tiến độ để bỏ phiếu trước Giáng sinh. Barack gọi điện cho tôi từ Springfield và nói rằng chúng tôi phải hoãn chuyến đi vài ngày. Đây chẳng phải tin tốt lành, nhưng tôi biết anh không thể làm gì khác. Tôi chỉ cần biết là cuối cùng chúng tôi sẽ đến Hawaii. Tôi không muốn bà Toot đón Giáng sinh một mình, hơn nữa, Barack và tôi cũng cần thời gian nghỉ ngơi. Theo tôi hình dung, chuyến đi Hawaii sẽ tách cả hai chúng tôi ra khỏi công việc và cho chúng tôi cơ hội để làm một việc đơn giản là hít thở.
Giờ đây Barack đã chính thức ứng cử vào Quốc hội, điều này nghĩa là anh hiếm khi có thời gian nghỉ ngơi. Sau này, khi trả lời phỏng vấn cho một tờ báo địa phương, anh ước tính rằng trong khoảng sáu tháng chạy chiến dịch vận động vào Quốc hội, anh đã dành chưa đến bốn ngày trọn vẹn ở nhà với tôi và Malia. Đây chính là thực tế đau xót của vận động tranh cử. Bên cạnh những trách nhiệm khác, Barack còn sống với một chiếc đồng hồ gõ nhịp không ngừng nhắc nhở anh về những phút giây còn lại trước khi cuộc bầu cử sơ bộ diễn ra vào tháng Ba. Cách anh ấy sử dụng từng phút từng giờ ấy đều ảnh hưởng đến kết quả sau cùng, ít nhất thì lý thuyết là vậy. Tôi cũng hiểu được một chuyện khác, đó là dưới góc độ của một cuộc vận động tranh cử, bất cứ phút giây nào ứng viên dành riêng cho gia đình họ đều bị xem là lãng phí.
Tôi đã đủ kinh nghiệm để không còn bị ảnh hưởng nhiều bởi những thăng trầm của cuộc tranh cử. Tôi chúc Barack may mắn với quyết định của anh, còn tôi, tôi chọn cho mình thái độ không-bận-tâm-đến-chuyện-này. Tôi nghĩ có lẽ anh nên thử sức và thất bại trong việc chen chân vào nền chính trị quốc gia, và rồi thất bại đó sẽ khiến anh có động lực làm một chuyện gì đó hoàn toàn khác. Trong một thế giới lý tưởng (thế giới lý tưởng của tôi), Barack sẽ trở thành người đứng đầu một tổ chức nào đó, nơi anh vừa có thể tác động đến các vấn đề quan trọng vừa có thể về nhà dùng bữa tối.
Chúng tôi đến Hawaii ngày 23 tháng Mười Hai, sau khi cuối cùng thì cơ quan lập pháp cũng nghỉ lễ, dù vẫn chưa tìm ra giải pháp cho mấy vấn đề mà họ đang tranh luận. Nhưng tôi mừng vì chúng tôi có thể thực hiện kỳ nghỉ này. Bãi biển Waikiki là một phát hiện tuyệt vời cho Malia bé nhỏ. Con bé thoải mái bước tới bước lui trên bờ biển, đá vào những con sóng và chơi đến mệt lử. Chúng tôi có một Giáng sinh vui vẻ và êm đềm với bà Toot trong căn hộ của bà, cùng mở quà và kinh ngạc trước sự kiên trì bà dành cho tấm xếp hình năm ngàn mảnh mà bà đang cặm cụi ghép trên bàn. Như mọi khi, vùng biển xanh tĩnh lặng của Oahu và những cư dân vui vẻ nơi đây giúp chúng tôi thoát khỏi những lo toan hằng ngày, khiến chúng tôi cảm thấy hạnh phúc, đắm chìm vào bầu không khí ấm áp đang mơn man trên làn da và thỏa mãn khi thấy con gái mình đang vui vẻ tận hưởng mọi thứ. Những dòng tít trên báo vẫn luôn nhắc rằng bình minh của thiên niên kỷ mới đang đến, và chúng tôi đang ở một nơi thật tươi đẹp để tận hưởng những ngày cuối cùng của năm 1999.
Mọi thứ đều suôn sẻ cho đến khi Barack nhận một cuộc gọi từ Illinois cho biết thượng viện đột ngột quyết định làm việc trở lại để hoàn tất dự luật về tội phạm. Nếu muốn bỏ phiếu thì anh có khoảng bốn mươi tám giờ để trở về Springfield. Thêm một chiếc đồng hồ nữa đang đếm giờ. Với trái tim trĩu nặng, tôi nhìn Barack bắt tay vào hành động - anh đặt lại vé máy bay để chúng tôi rời khỏi Hawaii ngay ngày hôm sau và kết thúc kỳ nghỉ của chúng tôi. Chúng tôi phải đi. Chúng tôi không có lựa chọn. Tôi có thể ở lại Hawaii với Malia, nhưng như thế có gì vui vẻ đâu? Tôi không hài lòng khi phải rời đi, nhưng một lần nữa, tôi hiểu đó chính là chính trị. Cuộc bỏ phiếu rất quan trọng - dự luật đó bao gồm những biện pháp mới để kiểm soát súng đạn mà Barack luôn cương quyết ủng hộ - và sự bất đồng ý kiến giữa hai phe cũng gay gắt đến mức một thượng nghị sĩ vắng mặt cũng có thể khiến dự luật không được thông qua. Chúng tôi phải về.
Nhưng rồi một chuyện không ai ngờ tới xảy ra. Trong đêm, Malia sốt cao. Mới hồi chiều con bé còn chơi đá sóng, vậy mà giờ đây, sau chưa đầy mười hai giờ đồng hồ, lại trở nên bơ phờ vì sốt cao, mắt ướt và mè nheo vì đau nhưng vẫn còn quá nhỏ nên không thể nói cho cha mẹ biết nỗi khổ sở của mình. Chúng tôi cho con uống Tylenol nhưng tình hình cũng không đỡ hơn. Con bé cứ véo một bên tai, khiến tôi nghi là tai của con bị nhiễm trùng. Chúng tôi ngồi trên giường, nhìn Malia chìm vào giấc ngủ nặng nề. Chỉ còn vài giờ nữa là chúng tôi phải sẵn sàng cho chuyến bay về nhà. Tôi nhìn thấy vẻ lo âu hằn lên gương mặt Barack, khi anh đang đứng giữa hai bổn phận đối nghịch nhau. Điều chúng tôi sắp quyết định không chỉ ảnh hưởng đến hiện tại mà thôi.
Tôi nói, “Rõ ràng là con bé không thể bay được”.
“Anh biết.”
“Mình phải đổi chuyến bay một lần nữa.”
“Anh biết.”
Không ai nói ra một sự thật là anh có thể cứ thế đi trước. Anh có thể bước ra khỏi cửa, đón taxi đến sân bay và vẫn có thể về Springfield kịp giờ bỏ phiếu. Anh có thể bỏ lại đứa con gái đang bệnh và người vợ đang lo lắng của mình ở một hòn đảo giữa Thái Bình Dương để tham gia với các đồng nghiệp. Đó là một phương án lựa chọn. Nhưng tôi không nói ra điều đó, tôi không phải thánh nhân. Tôi thừa nhận mình đang rất lo lắng và có thể suy sụp bất kỳ lúc nào vì không biết chuyện gì sẽ xảy ra với Malia. Nếu mọi chuyện diễn biến tệ hơn thì sao? Nếu con bé cần phải nhập viện thì sao? Nhưng có thật là anh đang nghĩ tới chuyện bỏ đi trước hay không?
Sau cùng thì anh đã không làm vậy. Anh ấy sẽ không bao giờ đi như vậy.
Hôm đó tôi không nghe anh ấy nói gì khi gọi cho trợ lý để thông báo không tham dự cuộc bỏ phiếu dự luật về tội phạm. Tôi không quan tâm chuyện đó. Tôi chỉ quan tâm đến con gái của chúng tôi. Con bé là báu vật bé bỏng của chúng tôi. Chúng tôi mắc nợ con bé mọi thứ.
Cuối cùng, năm 2000 cũng đến mà không có bất cứ sự cố nghiêm trọng nào xảy ra như dự đoán. Sau vài ngày nghỉ ngơi và vài liều kháng sinh, triệu chứng được chẩn đoán là một cơn nhiễm trùng tai nghiêm trọng đã được xử lý xong, cô bé con của chúng tôi lại hoạt bát như xưa. Cuộc sống vẫn tiếp diễn. Cuộc sống luôn tiếp diễn. Vào một ngày tuyệt đẹp dưới bầu trời Honolulu trong xanh, chúng tôi lên máy bay và về nhà ở Chicago, trở về với mùa đông giá buốt và với những thứ mà đối với Barack chính là một thảm họa chính trị trong tương lai.
DỰ LUẬT TỘI PHẠM không được thông qua ở thượng viện tiểu bang vì thua năm phiếu bầu. Với tôi, phép tính này không có gì khó: ngay cả nếu Barack có từ Hawaii về đúng giờ thì phiếu bầu của anh cũng không thay đổi được cục diện. Thế nhưng anh phải gánh nhận một thất bại nặng nề vì sự vắng mặt của mình. Các đối thủ của anh trong vòng bầu cử sơ bộ của Quốc hội đã tranh thủ thời cơ để khắc họa Barack như một nhà làm luật nhàn hạ, người đi nghỉ mát - ở Hawaii, đương nhiên rồi - và không hạ cố trở về để bầu cho một vấn đề quan trọng như vấn đề kiểm soát quyền sử dụng súng.
Bobby Rush, người đang giữ chức hạ nghị sĩ, đã mất một thành viên trong gia đình mình vì một vụ bạo lực liên quan đến súng đạn ở Chicago trước đó vài tháng, và điều này càng đẩy Barack vào tình thế xấu hơn. Dường như chẳng ai chịu hiểu là anh ấy được sinh ra ở Hawaii, anh ấy về quê để thăm bà nội góa của mình, và con gái của anh vừa đổ bệnh. Tất cả những gì họ quan tâm là phiếu bầu. Báo chí mổ xẻ vấn đề đó suốt nhiều tuần. Trang xã luận của tờ Chicago Tribune chỉ trích nhóm thượng nghĩ sĩ không đi bầu vào ngày hôm đó, gọi họ là “một bầy cừu nhu nhược”. Thượng nghị sĩ Donne Trotter, một đối thủ khác của Barack, cũng ra tay và nói với phóng viên rằng “sử dụng con cái làm cái cớ để trì hoãn công việc cũng là biểu hiện của một nhân cách không hay ho gì”.
Tôi không quen với tất cả những thứ đó. Tôi không quen với việc có đối thủ hoặc phải chứng kiến cuộc sống gia đình mình bị báo chí giày vò. Tôi chưa từng thấy nhân cách của chồng tôi bị người ta nghi ngờ như thế. Thật đau lòng khi nghĩ rằng một quyết định hợp lý - mà theo tôi là một quyết định đúng đắn - có vẻ đã buộc anh phải trả giá nhiều như vậy. Trong một bài báo anh viết cho tuần báo trong khu vực, Barack bình tĩnh bảo vệ lựa chọn ở lại với tôi và bé Malia ở Hawaii. Anh viết, “Chúng tôi nghe các chính trị gia nói rất nhiều về tầm quan trọng của các giá trị gia đình. Hy vọng các vị sẽ hiểu khi thượng nghị sĩ tiểu bang của mình đang nỗ lực hết sức để sống theo những giá trị đó”.
Dường như chỉ vì chứng đau tai bất thường của con, ba năm làm việc của Barack tại thượng viện tiểu bang đã đổ sông đổ bể. Anh đã dẫn dắt một cuộc tổng kiểm tra mảng luật tài chính trong quá trình vận động tranh cử ở tiểu bang, nhằm xây dựng các quy tắc đạo đức nghiêm khắc hơn cho công chức được bầu. Anh đấu tranh đòi giảm thuế và tăng mức tín dụng cho tầng lớp lao động nghèo, tập trung giảm chi phí thuốc kê toa cho các công dân cao tuổi. Anh đã giành được lòng tin của các nhà lập pháp trên khắp tiểu bang, cả trong Đảng Dân chủ lẫn Đảng Cộng hòa. Nhưng giờ đây dường như tất cả những chuyện đó không còn ý nghĩa gì nữa. Cuộc đua đã biến thành một loạt những đòn chơi xấu nhau.
Từ khi bắt đầu chiến dịch, các đối thủ của Barack và người ủng hộ họ đã và vẫn đang tuyên truyền những ý tưởng nhằm mục đích gieo rắc sợ hãi và dấy lên sự nghi ngờ giữa các cử tri người Mỹ gốc Phi bằng cách nói rằng Barack là một phần trong kế hoạch do các công dân da trắng ở khu Công viên Hyde nhào nặn ra - tức là những người Do Thái da trắng - nhằm nhét ứng viên ưa thích của họ tại South Side vào cuộc tranh cử. “Barack có phần được xem là người da trắng trong bộ mặt đen của cộng đồng chúng ta”, Donne Trotter nói với tờ Chicago Reader. Khi chia sẻ với tờ báo đó, Bobby Rush nói, “Anh ta học Harvard và trở thành một kẻ ngốc có giáo dục. Chúng tôi không thấy ấn tượng với những người có tấm bằng ưu tú từ miền Đông”. Nói cách khác, ý ông ấy là Barack không phải là thành viên của cộng đồng người Mỹ gốc Phi, Barack không phải là người da đen đích thực như họ - vì một người nói năng như thế, dáng vẻ như thế và đọc nhiều sách như thế không bao giờ có thể là một thành viên trong cộng đồng người da đen.
Điều khiến tôi buồn bực nhất là Barack là ví dụ điển hình cho tất cả những phẩm chất mà các bậc cha mẹ ở South Side nói rằng họ mong muốn nơi con em mình. Anh là tất cả những gì mà những người như Bobby Rush, Jesse Jackson và rất nhiều nhà lãnh đạo người da đen khác đã nhắc đến suốt nhiều năm qua: anh ấy có học thức, và thay vì từ bỏ cộng đồng người Mỹ gốc Phi, anh đang nỗ lực phụng sự cộng đồng đó. Chắc chắn đây là một cuộc tranh cử nảy lửa, nhưng Barack đang bị tấn công ác liệt. Tôi bàng hoàng khi thấy các nhà lãnh đạo của chúng tôi chỉ biết đối xử với Barack như một mối đe dọa đối với quyền lực của họ, họ gieo rắc sự bất tín bằng cách lợi dụng những tư tưởng lạc hậu, phản tri thức về chủng tộc và giai cấp.
Chuyện đó khiến tôi thấy phát bệnh.
Về phần mình, Barack đón nhận mọi chuyện điềm tĩnh hơn tôi, vì tại Springfield anh đã biết chính trị có thể trở nên dơ bẩn như thế nào, và sự thật thường bị bóp méo ra sao để phục vụ các mục đích chính trị của con người. Bầm dập nhưng quyết không chùn bước, anh tiếp tục vận động tranh cử suốt mùa đông, tiếp tục đi đi về về Springfield trong khi vẫn kiên trì lật ngược tình thế, ngay cả khi tiền quyên góp bắt đầu vơi dần và ngày càng có nhiều sự ủng hộ công khai dành cho Bobby Rush. Khi thời điểm bầu cử sơ bộ đã đến rất gần, Malia và tôi hiếm khi thấy mặt anh, dù vậy anh vẫn gọi về nhà mỗi tối để chúc mẹ con tôi ngủ ngon.
Tôi trân trọng hơn bao giờ hết những ngày ít ỏi mà chúng tôi đã tranh thủ ở bên nhau trên bãi biển. Tôi biết trong thâm tâm, Barack cũng cảm thấy như tôi. Điều không bao giờ mất đi giữa những ồn ào lúc ấy, giữa tất cả những đêm anh xa nhà, chính là sự quan tâm anh dành cho mẹ con tôi. Anh ấy không hề xem nhẹ những điều đó. Gần như mỗi lần anh sắp gác máy thì tôi đều cảm nhận được nỗi đau buồn giằng xé trong giọng nói của anh. Hầu như mỗi ngày anh đều buộc phải lựa chọn, gia đình hay chính trị, chính trị hay gia đình.
Vào tháng Ba, Barack thua ở vòng bầu cử sơ bộ của Đảng Dân chủ, trong khi Bobby Rush giành chiến thắng áp đảo.
Suốt thời gian đó, tôi chỉ biết ôm đứa con gái bé bỏng của mình.
VÀ RỒI CON GÁI THỨ HAI của chúng tôi ra đời. Sau chỉ một đợt thụ tinh ống nghiệm, một thai kỳ nhẹ nhàng đến tuyệt vời và một lần sinh nở suôn sẻ, Natasha Marian Obama chào đời ngày 10 tháng Sáu năm 2001 tại Trung tâm Y tế Đại học Chicago, trong lúc Malia, giờ đây đã gần ba tuổi, đang chờ ở nhà với bà ngoại. Đứa con thứ hai của chúng tôi xinh xắn, một cô bé nhỏ xíu với mái đầu đầy tóc và cặp mắt nâu lanh lợi - con bé là góc thứ tư của hình vuông gia đình chúng tôi. Barack và tôi mừng vui khôn xiết.
Chúng tôi đã định tên bé là Sasha. Tôi chọn cái tên này vì tôi nghĩ nó nghe có vẻ sống động. Một cô gái tên Sasha sẽ không vướng vào bọn con trai ngốc nghếch. Như mọi bậc cha mẹ trên đời, tôi thấy mình cũng mong muốn rất nhiều điều tốt đẹp cho các con khi cầu nguyện mong sao chúng không bao giờ phải chịu đau đớn. Tôi hy vọng chúng sẽ trở thành người thông minh, tràn đầy sức sống và lạc quan như cha và giàu nghị lực như mẹ. Hơn hết thảy, tôi muốn chúng mạnh mẽ, có chút gan lì, thứ gan lì có thể giúp chúng luôn đứng thẳng và tiến về phía trước, bất kể điều gì xảy ra. Tôi không biết những gì sẽ xảy đến với chúng tôi, đời sống gia đình của chúng tôi rồi sẽ trở nên như thế nào - liệu mọi thứ sẽ suôn sẻ hay tồi tệ, hay như hầu hết mọi người, chúng tôi sẽ có một cuộc sống lẫn lộn vui buồn. Việc của tôi là bảo đảm các con của tôi sẵn sàng đối mặt với điều đó.
Công việc ở trường đại học khiến tôi cảm thấy thật mệt mỏi. Tôi vừa phải xoay xở giữa gia đình và sự nghiệp, vừa cố gắng thu vén chi tiêu để trang trải chi phí chăm sóc hai đứa trẻ. Sau khi Sasha ra đời, tôi tự hỏi mình có còn muốn quay về với công việc hay không, vì có lẽ tôi sẽ chăm lo cho gia đình tốt hơn khi ở nhà toàn thời gian. Glo, người trông trẻ đáng mến của chúng tôi, đã được đề nghị một công việc điều dưỡng có thu nhập tốt hơn, và chị đã dè dặt quyết định đón nhận cơ hội đó. Dĩ nhiên tôi không thể trách chị ấy, nhưng sự ra đi của chị đã thay đổi mọi thứ trong thâm tâm một người mẹ đi làm như tôi. Sự tận tụy của chị dành cho gia đình tôi đã giúp tôi duy trì sự tận tụy của mình trong công việc. Chị yêu thương bọn trẻ như con mình. Tôi khóc rất nhiều vào cái đêm chị báo tin cho chúng tôi, tôi biết chúng tôi sẽ rất khó giữ sự cân bằng trong cuộc sống nếu không có chị. Tôi biết chúng tôi đã may mắn đến dường nào khi có đủ khả năng để thuê chị ấy. Nhưng giờ chị ấy đã nghỉ việc, tôi cảm thấy như mình mất đi một cánh tay.
Tôi yêu những lúc được ở bên hai đứa con gái bé bỏng của mình. Tôi nhận ra giá trị của từng phút, từng giờ đồng hồ ở nhà, đặc biệt là khi lịch trình của Barack rất thất thường. Tôi lại nghĩ về việc mẹ đã lựa chọn ở nhà với anh Craig và tôi. Hẳn nhiên tôi cảm thấy có lỗi vì đã tô hồng cuộc sống của mẹ khi nghĩ rằng việc lau chùi bệ cửa sổ bằng nước tẩy rửa Pine-Sol và may quần áo cho chúng tôi thật sự là rất vui đối với mẹ, nhưng xét cuộc sống mà tôi đang có thì chuyện được ở nhà và làm tất cả những chuyện đó cũng khá hay và nằm trong tầm tay, và có lẽ cũng đáng để thử. Tôi thích tập trung vào một nhiệm vụ thay vì hai, thích đầu óc không bị hỗn loạn bởi những lập luận đối nghịch giữa gia đình và công việc. Và có vẻ chúng tôi có thể vẫn xoay xở được về mặt tài chính. Barack đã chuyển từ vị trí trợ giảng sang giảng viên chính ở trường luật, điều đó giúp chúng tôi được miễn giảm học phí trường thực nghiệm trực thuộc Đại học Chicago, nơi Malia sắp bắt đầu theo học chương trình mẫu giáo.
Và rồi chúng tôi nhận được một cuộc gọi từ Susan Sher, người cố vấn và đồng nghiệp cũ tại tòa thị chính, hiện đang là trưởng bộ phận pháp lý kiêm phó chủ tịch Trung tâm Y khoa Đại học Chicago, nơi chúng tôi vừa sinh bé Sasha. Trung tâm có một chủ tịch mới toanh mà ai cũng kháo về ông, và một trong những ưu tiên hàng đầu của ông chính là cải thiện quan hệ cộng đồng. Ông ấy đang tìm thuê một giám đốc điều hành cho các hoạt động cộng đồng, một công việc gần như được đo ni đóng giày cho tôi. Tôi có hứng thú đến phỏng vấn hay không?
Tôi lại tự đấu tranh xem có nên gửi hồ sơ xin việc hay không. Đó có vẻ là một cơ hội tuyệt vời, nhưng về cơ bản thì tôi vừa thuyết phục bản thân rằng sẽ tốt hơn cho tôi - và cả gia đình - khi tôi ở nhà. Dù sao thì đây cũng không phải là thời điểm lộng lẫy nhất của tôi, không phải thời điểm tôi có thể chải chuốt rồi mặc lên người bộ trang phục công sở. Vì mỗi đêm đều phải thức giấc nhiều lần để chăm Sasha nên tôi thường xuyên thiếu ngủ và thiếu luôn sự sáng suốt. Kể cả khi vẫn cố gắng giữ mọi thứ thật gọn gàng tươm tất thì tôi cũng không thể làm gì được. Căn hộ của chúng tôi vương vãi đồ chơi con nít, sách nuôi dạy con và những gói tã giấy. Mỗi khi ra khỏi nhà, chúng tôi đều phải lôi theo một chiếc xe đẩy to kềnh và một giỏ đựng tã chẳng mấy thời trang nhưng chứa đầy những món thiết yếu: một túi bánh Cheerios, vài món đồ chơi hàng ngày và quần áo dự phòng - cho cả nhà.
Nhưng vai trò người mẹ cũng mang đến cho tôi những tình bạn tuyệt vời. Tôi kết nối với một nhóm những phụ nữ có nghề nghiệp và xây dựng một nhóm bạn thường xuyên trò chuyện cũng như trợ giúp nhau. Đa số chúng tôi đều sắp sang tuổi bốn mươi và đang làm đủ thứ ngành nghề, từ ngân hàng, chính phủ đến phi lợi nhuận. Nhiều người chúng tôi có con cùng thời điểm với nhau. Càng có nhiều con, chúng tôi càng khắng khít hơn với nhau. Chúng tôi gặp nhau gần như mỗi dịp cuối tuần. Chúng tôi quan tâm con cái của nhau, cùng dắt con đi sở thú và mua vé cho cả nhóm xem chương trình trượt băng trình diễn Disney on Ice. Thỉnh thoảng vào một chiều thứ Bảy, chúng tôi cho đám trẻ con tự do chơi đùa trong gian phòng dành riêng cho con nít của một thành viên nào đó trong nhóm, để chúng tôi có thể khui một chai rượu và uống cùng nhau.
Mỗi phụ nữ trong nhóm chúng tôi đều có học thức, giàu tham vọng, hết lòng với con, và nhìn chung thì họ cũng rối bời như tôi khi tìm cách hòa hợp tất cả những điều đó với nhau. Chúng tôi làm đủ mọi cách có thể để vừa đi làm vừa nuôi dạy con. Một vài người đi làm toàn thời gian, một số làm bán thời gian và số khác thì ở nhà với bọn trẻ. Có người cho con ăn bánh mì kẹp xúc xích và khoai tây chiên; số khác cho ăn toàn ngũ cốc nguyên hạt. Một vài người có những người chồng hết lòng tham gia quá trình nuôi con; số khác thì giống như tôi, có chồng luôn bận rộn và thường xuyên xa nhà. Một số người bạn của tôi vô cùng hạnh phúc; số khác đang cố gắng thay đổi, cố gắng tìm một sự cân bằng khác. Đa số chúng tôi sống trong trạng thái thường xuyên phải thay đổi, phải điều chỉnh một phương diện nào đó trong cuộc sống với hy vọng bình ổn một phương diện khác.
Những buổi chiều bên nhau đã dạy cho tôi biết không hề có một công thức làm mẹ nào cả. Không có phương cách nào là đúng hay sai. Đây là một điều rất hữu ích. Bất kể ai đang sống theo lối nào và vì sao họ chọn như thế, mỗi đứa trẻ trong căn phòng dành riêng cho trẻ em ấy đều được nâng niu và nuôi dạy tốt. Mỗi khi chúng tôi tụ tập, tôi cảm thấy sức mạnh chung của tất cả những người phụ nữ đang cố làm điều đúng đắn cho con cái mình. Tôi biết dù sao đi nữa thì chúng tôi cũng hỗ trợ lẫn nhau và tất cả chúng tôi sẽ ổn.
Sau khi trò chuyện với Barack và bạn bè của mình, tôi quyết định đi phỏng vấn vào vị trí tại bệnh viện trường đại học, ít nhất là để xem công việc đó ra sao. Tôi có cảm giác mình sẽ là ứng viên hoàn hảo cho vị trí này. Tôi biết mình có đam mê và những kỹ năng phù hợp. Nhưng nếu nhận công việc này, tôi phải đặt ra một số điều kiện và có những thu xếp hợp lý cho gia đình mình. Tôi nghĩ tôi có thể nhận việc nếu không phải tham dự quá nhiều các cuộc họp không cần thiết và nếu tôi được chủ động về mặt thời gian, tức là được làm việc tại nhà hoặc đi về sớm để đón con hoặc đưa con đi khám bệnh khi cần.
Tôi cũng không muốn làm việc bán thời gian nữa. Tôi đã chịu đựng quá đủ. Tôi muốn có một công việc toàn thời gian, với mức lương cạnh tranh để chúng tôi có thể trang trải chi phí chăm sóc bọn trẻ tốt hơn và thuê người giúp việc - để tôi có thể bớt làm việc nhà và dành thời gian rảnh để chơi đùa với hai đứa con gái. Còn trong lúc này, tôi sẽ không che giấu cuộc sống bề bộn của mình, cuộc sống của người mẹ đang chăm lo một đứa con còn đang bú mẹ cùng với một đứa con ba tuổi đang học nhà trẻ, và một người vợ phải đảm đương gần như mọi việc ở nhà vì có người chồng thường xuyên vắng nhà với lịch làm việc lộn tùng phèo.
Tôi nghĩ là mình hơi trơ trẽn khi nói ra tất cả những điều đó trong cuộc phỏng vấn với Michael Riordan, tân chủ tịch bệnh viện. Tôi thậm chí còn mang bé Sasha ba tháng tuổi theo cùng. Tôi chẳng còn nhớ chính xác hoàn cảnh khi ấy ra sao, có thể tôi đã không thể tìm được người giữ trẻ vào hôm đó, hoặc vì tôi muốn thử làm điều đó. Dù vậy, Sasha vẫn còn rất bé và vẫn rất cần tôi. Thực tế con bé chính là cuộc sống của tôi - một thực thể đáng yêu và hay phát ra những tiếng bập bẹ khiến tôi không thể nào phớt lờ được - và một cái gì đó thật sự buộc tôi phải đặt con bé lên bàn thảo luận theo nghĩa đen. Tôi đã nói với ông, Tôi ở đây, và con tôi cũng thế.
Tôi gần như không thể tin được khi vị sếp tương lai của tôi dường như hiểu hết những gì tôi vừa trình bày. Ông lắng nghe mà không tỏ vẻ ngại ngần gì khi tôi vừa ôm Sasha trong lòng vừa giải thích lý do thời gian làm việc linh động là cần thiết, trong lúc thầm cầu nguyện tã của con không bị tràn. Tôi hoàn tất cuộc phỏng vấn với cảm giác hài lòng và khá chắc là mình sẽ nhận được công việc này. Nhưng dù thế nào đi nữa, tôi biết ít ra mình đã làm được điều tốt cho bản thân khi trình bày hết những nhu cầu của mình. Tôi cảm nhận được nguồn sức mạnh chỉ với việc nói ra những điều đó. Với một tâm trí sáng suốt và một đứa trẻ đang sắp khóc quấy, tôi nhanh chân trở về nhà.
ĐÂY LÀ BÀI TOÁN mới cho gia đình tôi: chúng tôi có hai đứa con, ba công việc, hai chiếc xe, một căn hộ và có vẻ là không có thời gian rảnh. Tôi nhận lời làm việc tại bệnh viện Đại học Chicago; Barack tiếp tục dạy và soạn thảo văn bản pháp luật. Chúng tôi đều phục vụ trong hội đồng của nhiều tổ chức phi lợi nhuận, và dù còn đau từ thất bại của vòng sơ bộ của cuộc bầu cử quốc hội, Barack vẫn nghĩ đến việc tranh cử vào những chức vụ cao hơn. George W. Bush đang là Tổng thống. Nước Mỹ đã trải qua cú sốc và thảm kịch của vụ tấn công khủng bố ngày 11 tháng Chín. Một trận chiến khác đang diễn ra ở Afghanistan, một hệ thống cảnh báo đe dọa mới theo thang màu đang được áp dụng trên toàn nước Mỹ, và Osama bin Laden thì đang ẩn nấp ở đâu đó. Như mọi khi, Barack luôn hấp thu từng mẩu tin tức một cách cẩn thận, vẫn duy trì công việc bình thường của mình trong lúc âm thầm vun đắp suy nghĩ của mình về mọi sự.
Tôi không nhớ chính xác lần đầu tiên anh ấy nói về khả năng ứng cử một ghế trong thượng viện là khi nào. Ý nghĩ đó chỉ mới chớm và phải vài tháng nữa thì anh mới cần đưa ra quyết định, nhưng rõ ràng nó đang chiếm lấy tâm trí anh. Điều tôi còn nhớ chính là cách mình phản ứng - đơn giản chỉ là nhìn anh ấy với vẻ hoài nghi, như thể muốn nói, Anh nghĩ chúng ta còn chưa đủ bận rộn hay sao?
Ác cảm của tôi với chính trị chỉ gia tăng chứ không giảm, không hẳn vì những gì diễn ra ở Springfield hay Washington, mà vì sau năm năm làm thượng nghị sĩ tiểu bang, lịch trình quá bận rộn của Barack đang bắt đầu ảnh hưởng đến tôi. Khi Sasha và Malia ngày càng lớn, tôi nhận ra nhịp sống ngày càng tất bật hơn và danh sách việc phải làm của tôi chỉ dài thêm ra, khiến tôi thường xuyên rơi vào tình trạng làm việc quá tải tưởng chừng không bao giờ dứt. Barack và tôi làm mọi điều có thể để cuộc sống của hai con được ổn định và dễ trông coi. Chúng tôi đã có một người trông trẻ mới tại nhà. Malia vui vẻ đến trường, kết bạn, tiệc tùng, và đi học bơi vào cuối tuần. Sasha giờ đã một tuổi, đứng chập chững, nói bập bẹ và tiếng cười của con bé luôn khiến chúng tôi cảm thấy vui vẻ. Con bé cực kỳ tò mò và quyết tâm phải theo kịp Malia và những người bạn bốn tuổi của chị mình. Công việc của tôi ở bệnh viện đang tiến triển suôn sẻ, mặc dù tôi biết cách tốt nhất để duy trì điều đó là lôi mình ra khỏi giường lúc năm giờ sáng và dành ra vài giờ đồng hồ làm việc trên máy vi tính trước khi mọi người trong nhà thức giấc.
Chuyện này khiến tôi hơi cáu bẳn vào buổi tối, và đôi khi còn xung đột trực tiếp với ông chồng cú đêm của mình khi anh từ Springfield về nhà vào các tối thứ Năm trong tình trạng khá vui vẻ và muốn tham gia ngay vào cuộc sống gia đình để bù đắp cho khoảng thời gian mà anh đã bỏ lỡ. Nhưng giờ đây thời gian đã chính thức trở thành vấn đề với chúng tôi. Nếu thói quen không đúng giờ của Barack từng là thứ tôi dùng để nhẹ nhàng chọc ghẹo anh, thì giờ đây nó đã trở thành một điều khiến tôi thật sự bực mình. Tôi biết anh vui khi đến các tối thứ Năm. Tôi nghe thấy sự háo hức khi anh gọi về nhà báo là đã xong việc và đang trên đường về nhà. Tôi hiểu anh có ý tốt khi nói những câu như “Anh sắp về!” hay “Về tới nơi rồi!”. Và có lúc tôi đã tin những lời đó. Tôi cho hai đứa trẻ tắm để chuẩn bị đi ngủ, nhưng tôi hoãn giờ ngủ của chúng để chúng có thể chờ và ôm cha một cái. Hoặc tôi cho chúng ăn tối rồi dỗ chúng ngủ, còn mình thì thắp vài ngọn nến và chờ Barack về để cùng ăn tối với anh.
Và rồi tôi đợi. Tôi đợi lâu đến nỗi mi mắt của Sasha và Malia bắt đầu sụp xuống, và tôi phải bế chúng lên giường đi ngủ. Hoặc tôi phải chờ một mình, vừa đói vừa cảm thấy ngày càng chua chát khi mắt tôi nặng trĩu và sáp đèn cầy đã chảy đầy trên bàn. Tôi nhận ra hai chữ “sắp về” là sản phẩm của sự lạc quan vĩnh cửu của Barack, một dấu chỉ cho sự háo hức muốn về nhà của anh, nhưng hoàn toàn không có nghĩa là anh đang thật sự về nhà. “Về tới nơi” không phải là một định vị địa lý mà giống một trạng thái trong tâm trí của anh hơn. Đôi khi anh trên đường về nhưng cần phải dừng lại để trò chuyện thêm bốn mươi lăm phút nữa với một đồng nghiệp trước khi vào xe. Khi khác, anh ấy sắp về tới nhà thật, nhưng lại quên đề cập tới chuyện anh cần phải tập thể dục nhanh ở phòng gym.
Trước khi có con, những sự bực bội đó có thể là vụn vặt trong cuộc sống của chúng tôi, nhưng là một người mẹ làm việc toàn thời gian có người chồng bán thời gian và cộng thêm việc phải thức giấc trước khi mặt trời mọc, tôi cảm thấy sự kiên nhẫn của mình đang vơi đi, cho đến lúc không còn gì nữa. Khi Barack về tới nhà, hoặc anh ấy sẽ thấy tôi đang giận dữ, hoặc sẽ không gặp được tôi vì khi đó tôi đã tắt hết đèn đóm trong nhà và ấm ức đi ngủ.
CHÚNG TÔI SỐNG THEO những mô hình mà chúng tôi biết. Suốt thời thơ ấu của Barack, cha của anh biến mất còn mẹ anh thì đến rồi lại đi. Bà hết lòng với anh nhưng không ràng buộc mình với anh, và theo những gì anh biết thì như thế không có gì sai. Anh ấy có những ngọn đồi, bãi biển và tâm trí của mình để bầu bạn. Sự độc lập rất quan trọng trong thế giới của Barack. Nó đã như thế và luôn sẽ như thế. Trong khi đó, tôi lớn lên trong sự gắn kết chặt chẽ của gia đình mình, trong căn hộ đóng hộp, trong khu phố đóng hộp ở South Side, với ông bà và các cô dì, chú bác khắp xung quanh, tất cả cùng chen chúc quanh chiếc bàn để cùng nhau dùng bữa mỗi tối Chủ nhật. Sau mười ba năm yêu nhau, chúng tôi cần phải suy nghĩ thấu đáo xem điều này có nghĩa là gì.
Khi nghĩ về chuyện này, tôi cảm thấy có chút tổn thương. Không phải vì anh không toàn tâm toàn ý với cuộc hôn nhân của chúng tôi. Rõ ràng sự toàn tâm toàn ý của anh dành cho cuộc sống của tôi là không thể chối cãi. Mà bởi vì tôi đã được nuôi dưỡng và lớn lên trong một gia đình luôn sum vầy bên nhau, nên tôi cực kỳ thất vọng nếu có thành viên nào đó trong nhà thường xuyên vắng mặt. Tôi cảm thấy cô đơn và cũng có chút lo lắng khi phải đáp ứng nhu cầu của hai cô con gái. Chúng tôi muốn có Barack bên cạnh. Chúng tôi nhớ anh mỗi khi anh xa nhà. Tôi lo là anh không hiểu mẹ con chúng tôi đang cảm thấy ra sao. Tôi sợ con đường anh ấy đã chọn - và rõ ràng là đang nỗ lực theo đuổi - rốt cuộc sẽ gạt phăng mọi mong muốn của chúng tôi. Nhiều năm trước, khi anh đề cập đến chuyện ứng cử nghị sĩ tiểu bang lần đầu tiên, chúng tôi chỉ cần cân nhắc về cuộc sống của hai vợ chồng. Khi đó tôi không hề biết việc nói đồng ý với chính trị sẽ có ý nghĩa ra sao trong tương lai, khi mà chúng tôi có thêm hai đứa trẻ. Nhưng giờ đây tôi đã biết đủ để hiểu là chính trị chưa bao giờ nương tay với các gia đình. Tôi đã lờ mờ nhìn thấy điều đó khi còn ở trung học, qua tình bạn với Santita Jackson, và lại chứng kiến điều đó một lần nữa khi các đối thủ chính trị của Barack lợi dụng chuyện anh đã quyết định ở lại Hawaii khi Malia đổ bệnh để tấn công anh.
Thỉnh thoảng khi xem tin tức hay đọc báo, tôi nhận ra mình thường chăm chú nhìn vào hình ảnh những con người đã hiến thân cho đời sống chính trị - nhà Clinton, nhà Gore, nhà Bush, những bức ảnh cũ của nhà Kennedy - và tự hỏi câu chuyện đằng sau chúng là gì. Tất cả bọn họ có sống một cuộc đời bình thường không? Họ có hạnh phúc hay không? Những nụ cười kia có thật hay không?
Ở nhà, những bức bối của chúng tôi bắt đầu trỗi dậy một cách thường xuyên và dữ dội hơn. Barack và tôi yêu nhau sâu sắc, nhưng bỗng nhiên có một nút thắt không thể tháo gỡ trong mối quan hệ của chúng tôi. Tôi là một phụ nữ ba mươi tám tuổi và đã nhìn thấy những cuộc hôn nhân khác tan rã theo cách khiến tôi cảm thấy cần phải bảo vệ cuộc hôn nhân của mình. Tôi có những người bạn phải trải qua những cuộc chia tay đau đớn, mà nguyên nhân nằm ở những vấn đề nhỏ nhưng không được để tâm, hoặc những thiếu sót trong giao tiếp dẫn đến những hố sâu ngăn cách không sao hàn gắn được. Vài năm trước, anh Craig đã tạm trở về căn phòng trên lầu nơi chúng tôi cùng lớn lên và sống cùng với mẹ sau khi cuộc hôn nhân của anh dần dần tan vỡ trong đau đớn.
Thoạt tiên Barack chần chừ không muốn tiếp nhận các buổi tư vấn hôn nhân. Anh đã quen suy nghĩ những vấn đề phức tạp và tự mình suy luận để tháo gỡ. Ngồi xuống trò chuyện với người lạ khiến anh cảm thấy không thoải mái. Chẳng phải anh có thể chạy ra nhà sách và mua vài quyển sách về quan hệ vợ chồng để tự tìm hiểu hay sao? Chẳng phải chúng tôi có thể tự thảo luận với nhau hay sao? Nhưng tôi muốn được đối thoại thật sự, và được lắng nghe thật sự, và không phải tranh thủ làm những chuyện đó vào ban đêm hay vào những lúc chúng tôi có thể ở cùng các con. Một vài người quen của tôi đã tìm đến dịch vụ tư vấn hôn nhân và đủ cởi mở để chia sẻ với tôi về trải nghiệm ấy, họ nói nó có hiệu quả. Thế nên tôi đăng ký một cuộc hẹn với một nhà tâm lý do bạn bè giới thiệu ở trung tâm thành phố, và hai chúng tôi đến gặp ông vài lần.
Nhà tư vấn của chúng tôi - bác sĩ Woodchurch, hãy gọi ông ấy như thế - là một người đàn ông da trắng nói năng nhỏ nhẹ và luôn mặc quần áo vải kaki. Tôi đã nghĩ ông ấy sẽ lắng nghe những gì chúng tôi trình bày và ngay lập tức công nhận tất cả những nỗi khổ của tôi. Vì từng nỗi đau khổ đó đều hoàn toàn có lý, theo nhìn nhận của tôi. Tôi sẽ đoán Barack cũng cảm thấy tương tự với những nỗi khổ tâm của anh.
Rốt cuộc tôi đã có một khám phá lớn về quá trình tư vấn trị liệu: bác sĩ tư vấn không khẳng định hay công nhận gì cả. Không có bên nào đúng hay sai. Khi đề cập đến những bất đồng giữa hai chúng tôi, bác sĩ Woodchurch không bao giờ khẳng định điều gì. Ngược lại, ông là một người biết lắng nghe một cách cảm thông và kiên nhẫn, hướng dẫn mỗi người chúng tôi đi qua một mê cung cảm xúc và giúp rút bỏ vũ khí ra khỏi vết thương của chúng tôi. Ông nhắc nhở khi chúng tôi trở nên quá cứng nhắc về chuyện đúng sai, và ông đặt ra những câu hỏi đã được cân nhắc kỹ lưỡng để chúng tôi có thể đào sâu suy nghĩ về lý do mình có những cảm xúc như hiện tại. Dần dần, sau nhiều giờ trao đổi, nút thắt dần được tháo gỡ. Mỗi khi rời khỏi phòng tư vấn, Barack và tôi cảm thấy gắn kết với nhau hơn một chút.
Tôi bắt đầu nhận ra là có những cách khác để tôi có thể hạnh phúc hơn mà không cần buộc Barack phải từ bỏ con đường chính trị để nhận một công việc có giờ giấc ổn định từ chín giờ sáng đến sáu giờ chiều hằng ngày. (Những buổi tư vấn của chúng tôi đã cho thấy đó là một kỳ vọng phi thực tế.) Tôi bắt đầu nhận ra mình đã tự nhồi nhét vào mình những gì tiêu cực nhất, với suy nghĩ rằng mọi thứ đều bất công, và rồi miệt mài, như một luật sư học tại Harvard, thu thập bằng chứng để củng cố giả thiết ấy. Giờ đây tôi thử một giả thiết khác: có thể tôi có trách nhiệm với hạnh phúc của bản thân nhiều hơn tôi nghĩ. Ví dụ, tôi quá bận với việc tức giận Barack vì nhét giờ tập thể dục vào lịch trình, đến mức không nhận ra là tôi cũng cần tập thể dục thường xuyên. Tôi dành quá nhiều năng lượng để suy đi nghĩ lại xem anh ấy có về nhà ăn tối hay không, đến mức khiến cho các bữa tối đều chẳng còn gì vui vẻ nữa, dù có hay không có anh ấy.
Đây chính là một bước ngoặt, là thời điểm tôi tự cứu mình. Giống một người leo núi sắp rơi khỏi một đỉnh núi tuyết, tôi cắm chiếc rìu phá băng của mình xuống mặt đất. Điều này không có nghĩa là Barack không tự điều chỉnh bản thân - các buổi tư vấn cũng giúp anh nhìn thấy những lỗ hổng trong cách giao tiếp của chúng tôi với nhau, và anh đã cố gắng cải thiện điều đó - nhưng bên cạnh đó tôi cũng có những thay đổi của mình, đó là những thay đổi giúp ích cho tôi và do vậy cũng giúp ích cho cả hai vợ chồng tôi. Chẳng hạn, tôi quay lại với việc chăm sóc cho sức khỏe. Barack và tôi cùng tập tại một phòng gym được điều hành bởi Cornell McClellan, một huấn luyện viên vui vẻ và biết cách truyền động lực. Tôi đã tập với Cornell được vài năm, nhưng việc có con đã thay đổi lịch sinh hoạt của tôi. Giải pháp cho vấn đề này chính là người mẹ luôn-cho-đi của tôi, người vẫn làm việc toàn thời gian nhưng đã tình nguyện đến nhà chúng tôi lúc bốn giờ bốn mươi lăm phút sáng vài ngày trong tuần để tôi có thể đến phòng gym của Cornell và tập cùng một cô bạn vào lúc năm giờ, sau đó về nhà lúc sáu giờ ba mươi phút để đánh thức hai đứa con và chuẩn bị một ngày mới cho các bé. Chế độ mới này thay đổi tất cả: sự điềm tĩnh và sức mạnh, hai thứ mà tôi đã sợ là mình đang đánh mất, giờ đây đã quay trở lại.
Còn khúc mắc với chuyện về-nhà-ăn-cơm, tôi đã thiết lập những ranh giới mới, hiệu quả hơn với tôi và với bọn trẻ. Chúng tôi lên kế hoạch và làm đúng theo kế hoạch. Bữa tối bắt đầu lúc sáu giờ ba mươi phút mỗi ngày. Đi tắm lúc bảy giờ, sau đó là đọc sách, ôm ấp và tắt đèn đúng tám giờ. Thói quen này được xác lập, và do đó, trách nhiệm được chuyển sang phía Barack - hoặc anh phải về nhà đúng giờ, hoặc sẽ không kịp tham gia những sinh hoạt đó. Với tôi, như thế có ý nghĩa hơn nhiều so với việc chờ cơm hay buộc bọn trẻ phải chờ sụp mí để được cha chúng ôm. Điều này cũng đúng với mong ước của tôi, đó là các con sẽ lớn lên mạnh mẽ và tự tin, đồng thời không dễ chấp nhận bất kỳ chế độ gia trưởng lạc hậu nào. Tôi không bao giờ muốn chúng tin là cuộc sống chỉ bắt đầu khi người đàn ông trở về nhà. Chúng tôi không chờ người cha trở về. Bây giờ người cha đó phải theo lịch trình của chúng tôi.
(1) Wiggleworms: lớp học về âm nhạc dành cho trẻ em và cha mẹ của các em.