• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Becoming - Chất Michelle
  3. Trang 23

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 22
  • 23
  • 24
  • More pages
  • 36
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 22
  • 23
  • 24
  • More pages
  • 36
  • Sau

15

TRÊN ĐẠI LỘ CLYBOURN Ở CHICAGO, ngay phía bắc khu trung tâm thành phố, có một thiên đường kỳ lạ, nơi dường như được tạo ra để dành riêng cho những ông cha bà mẹ đang đi làm - giống như tôi: một khu mua sắm rất đặc trưng kiểu Mỹ và bán đủ thứ trên đời. Ở đó có cửa hàng quần áo BabyGap, điện máy gia dụng BestBuy, quần áo trẻ em Gymboree và dược mỹ phẩm CVS, cộng với một loạt những thương hiệu lớn nhỏ khác nhằm đáp ứng mọi nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, từ cây thụt hầm cầu, một quả bơ chín cho đến mũ tắm cho trẻ con. Tuyệt vời hơn nữa là gần đó còn có cửa hàng gia dụng Container Store và nhà hàng Chipotle chuyên món Mexico. Đây là nơi dành cho tôi. Tôi có thể đỗ xe, tạt qua hai hay ba cửa hàng khi cần, mua một tô burrito(1) và trở lại bàn làm việc trong vòng chưa tới sáu mươi phút. Tôi cực giỏi tận dụng giờ nghỉ trưa chớp nhoáng để làm vô số việc, như mua vớ mới để thay cho những đôi vớ bị mất, chọn quà cho đứa trẻ năm tuổi nào đó có tiệc mừng sinh nhật vào thứ Bảy, mua thêm mấy hộp nước trái cây cùng với hộp nước xốt táo loại dùng một lần.

Sasha đã được ba tuổi, còn Malia thì sáu tuổi, cả hai đều hoạt bát, thông minh và chóng lớn. Năng lượng của chúng khiến tôi muốn hụt hơi. Mà chuyện này thỉnh thoảng càng khiến tôi thêm thích khoảng thời gian tại khu trung tâm mua sắm. Có những lần khi đỗ xe rồi ngồi trong đó ăn mấy món thức ăn nhanh một mình trong tiếng radio đang mở, tôi cảm thấy nhẹ nhõm và ấn tượng với hiệu quả làm việc của mình. Đó là cuộc sống khi có con nhỏ. Đó là điều mà đôi khi được xem là thành tựu. Tôi có món xốt táo. Tôi đang dùng bữa. Ai cũng đang sống cuộc đời mình.

Trong những khoảnh khắc đó, dẫu không có ai nghe nhưng tôi vẫn muốn nói, Hãy nhìn xem tôi xoay xở ổn chưa này. Mọi người có thấy tôi đang rất hiệu quả hay không?

Đó là tôi của tuổi bốn mươi, có đôi chút giống June Cleaver và một chút của Mary Tyler Moore. Trong những ngày tươi đẹp hơn, tôi tự ghi công cho bản thân vì đã xoay xở hết chừng đó thứ. Sự cân bằng trong cuộc sống của tôi chỉ đẹp khi được nhìn từ xa, và chỉ khi bạn nhìn phớt qua, nhưng ít nhất thì cũng có điều gì đó mang dáng dấp của sự cân bằng. Công việc ở bệnh viện hóa ra rất tốt, vừa nhiều thử thách lại vừa mang đến cho tôi cảm giác thỏa mãn và phù hợp với những giá trị mà tôi tin tưởng. Thật ra, tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy một cơ sở danh giá như trung tâm y khoa của trường đại học, nơi mà về cơ bản là có chín ngàn năm trăm nhân viên, lại chủ yếu được vận hành bởi những học giả chuyên nghiên cứu y khoa và viết báo cáo khoa học, đồng thời cũng là những người có vẻ e dè với khu dân cư xung quanh đến mức không dám băng qua con đường bên ngoài khuôn viên trung tâm. Nỗi sợ đó của họ lại là động lực của tôi. Nó khiến tôi rời giường mỗi sáng.

Gần như cả đời tôi đã sống với những rào cản đó - tôi chú ý thấy sự lo lắng của người da trắng ở khu phố nhà mình, nhận ra tất cả những phương thức tinh tế nhất mà những nhân vật có tầm ảnh hưởng nào đó dùng để né tránh cộng đồng người da đen và đến với những khu vực giàu có hơn, những cụm dân cư mà dường như ngày càng xa cách với chúng tôi. Và bây giờ tôi có cơ hội để xóa bỏ một phần ranh giới đó, để tháo gỡ những rào cản mà mình có khả năng tháo gỡ - chủ yếu bằng cách khuyến khích mọi người tìm hiểu nhau nhiều hơn. Tôi được sếp mới hết lòng ủng hộ, ông cho tôi được tự do xây dựng chương trình hoạt động để củng cố hơn nữa mối quan hệ giữa bệnh viện và cộng đồng cư dân xung quanh. Ban đầu tôi chỉ có một nhân viên, nhưng dần dần tôi đã dẫn dắt một đội ngũ có hai mươi hai thành viên. Tôi xây dựng những chương trình đưa nhân viên bệnh viện và ủy viên ban quản trị đến các khu dân cư ở South Side, dẫn họ tham quan các trung tâm cộng đồng và trường học, đăng ký cho họ làm gia sư, cố vấn và giám khảo của những sự kiện hội chợ khoa học, tôi cũng đề nghị họ dùng thử những xiên thịt nướng trong hàng quán địa phương. Chúng tôi tạo điều kiện cho những đứa trẻ ở địa phương được quan sát nhân viên của bệnh viện làm việc, thiết lập chương trình để gia tăng số lượng cư dân đảm nhiệm vai trò tình nguyện viên trong bệnh viện. Đồng thời, thông qua trường y, chúng tôi hợp tác với một học viện để tổ chức khóa học hè nhằm khuyến khích sinh viên địa phương lựa chọn làm việc trong ngành y. Sau khi nhận ra hệ thống bệnh viện có thể tăng cường hợp tác với những doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhóm thiểu số và phụ nữ bằng cách ký kết hợp đồng dịch vụ, tôi cũng giúp bệnh viện thành lập Phòng Đa dạng hóa Quan hệ Doanh nghiệp.

Cuối cùng là vấn đề hỗ trợ những người đang rất cần được điều trị. South Side chỉ có hơn một triệu cư dân và rất thiếu thốn các cơ sở chăm sóc sức khỏe, đó là chưa kể đến một lượng lớn cư dân mắc những chứng bệnh mãn tính như bệnh suyễn, tiểu đường, cao huyết áp và bệnh tim mạch. Với số lượng đông đảo những người không có bảo hiểm và nhiều người khác phải phụ thuộc vào chính sách hỗ trợ y tế Medicaid của chính phủ, phòng cấp cứu của bệnh viện trường đại học thường bị quá tải - họ là những người thường chọn cách điều trị “cầm chừng” định kỳ hoặc đã lâu không được sử dụng các biện pháp phòng ngừa, nên giờ đây nhu cầu được hỗ trợ y tế của họ là vô cùng cấp bách. Đây là vấn đề rất nghiêm trọng, đắt đỏ, căng thẳng và nằm ngoài khả năng giải quyết của những người có liên quan. Bên cạnh đó, các lần khám cấp cứu cũng không giúp ích gì nhiều cho sức khỏe lâu dài của bệnh nhân. Tìm cách giải quyết vấn đề này là mối quan tâm hàng đầu của tôi. Một trong những giải pháp là chúng tôi bắt đầu thuê và đào tạo chuyên viên bảo vệ quyền lợi bệnh nhân, đó là những người dân bản địa thân thiện và có năng lực, có thể ngồi trò chuyện với bệnh nhân trong phòng cấp cứu, giúp họ lên lịch hẹn tái khám tại các trung tâm chăm sóc sức khỏe cộng đồng và hướng dẫn cho họ biết những trung tâm uy tín để thăm khám sức khỏe định kỳ với chi phí vừa phải.

Công việc của tôi thú vị và xứng đáng với công sức bỏ ra, nhưng tôi vẫn phải cẩn thận không để nó nuốt chửng. Tôi cảm thấy mình nợ các con chuyện đó. Chúng tôi đã quyết định để sự nghiệp chính trị của Barack tiếp tục tiến triển - cho anh được tự do định hình và theo đuổi ước mơ của mình, và điều này buộc tôi phải kiềm chế nhiệt huyết của mình trong công việc. Tôi gần như phải cố ý nhắm mắt làm ngơ với một phần tham vọng của bản thân, phải lùi lại vào những lúc mà bình thường tôi sẽ tiến lên. Tôi không rõ có người nào xung quanh nói rằng tôi không nỗ lực hết sức hay không, nhưng lúc nào tôi cũng ý thức được tất cả những việc mình có thể làm nhưng đã quyết định không làm. Có những dự án quy mô nhỏ mà tôi chọn không tiếp nhận. Có những nhân viên trẻ tuổi lẽ ra có thể được tôi hướng dẫn tốt hơn. Bạn thường nghe nói về tất cả những sự đánh đổi mà một người mẹ vừa đi làm vừa nuôi con phải chấp nhận. Và đây là những đánh đổi của tôi. Nếu trước đây tôi từng là một người toàn tâm toàn ý dấn thân cho mọi nhiệm vụ, thì giờ đây tôi cẩn trọng hơn và sử dụng thời gian của mình có chọn lọc hơn vì biết rằng tôi phải duy trì đủ năng lượng cho cuộc sống gia đình.

MỤC TIÊU CỦA TÔI chủ yếu là duy trì cuộc sống bình thường và ổn định, nhưng đó không phải là mục tiêu của Barack. Chúng tôi đã hiểu nhau hơn để nhận ra và chấp nhận điều này. Một âm, một dương. Tôi khao khát sự ổn định và trật tự, còn anh thì không. Anh ấy có thể sống giữa đại dương, còn tôi cần con thuyền. Ít nhất thì khi có mặt ở nhà, anh hết mực toàn tâm toàn ý với gia đình - anh chơi với các con trên sàn nhà, đọc Harry Potter cho Malia nghe vào buổi tối, cười to trước những câu đùa của tôi và ôm tôi thật chặt, nhắc nhở tất cả chúng tôi về tình yêu thương và lòng chung thủy của anh dành cho gia đình, rồi lại biến mất khoảng nửa tuần hoặc có khi lâu hơn. Chúng tôi tận dụng những khoảng thời gian rỗi trong lịch trình của anh để dùng bữa chung và gặp gỡ bạn bè. (Thỉnh thoảng) anh nuông chiều tôi bằng việc đồng ý xem phim Sex and the City. (Thỉnh thoảng) tôi chiều anh bằng cách xem phim The Sopranos.

Tôi đã chấp nhận một thực tế là xa nhà chỉ là một phần công việc của anh. Tôi không thích chuyện đó, nhưng tôi đã ngừng đấu tranh với nó. Barack có thể vui vẻ kết thúc một ngày tại một khách sạn xa xôi nào đó, với đủ thứ giao tranh chính trị vẫn đang âm ỉ và rất nhiều vấn đề còn để ngỏ. Trong khi đó, tôi sống vì mái ấm gia đình - vì cảm giác trọn vẹn mà tôi cảm thấy hàng đêm khi đưa Sasha và Malia vào giường ngủ và khi tiếng máy rửa chén chạy ro ro trong bếp.

Dù sao thì tôi cũng không có lựa chọn nào khác ngoài việc thích nghi với sự vắng mặt của Barack, vì việc đó sẽ không có hồi kết. Bên cạnh công việc thường nhật, một lần nữa anh lại ra vận động tranh cử, lần này là cho một ghế trong Thượng viện Hoa Kỳ, ngay trước thềm cuộc bầu cử mùa thu năm 2004.

Anh ngày càng băn khoăn với những hoạt động ở Springfield, chán nản với cách làm việc vòng vo của chính quyền tiểu bang và tin là mình có thể làm được nhiều việc hơn và hiệu quả hơn ở Washington. Vì tôi có vô vàn lý do để phản đối ý tưởng tranh cử vào Thượng viện, và vì anh ấy cũng có những quan điểm cần trình bày, vào khoảng giữa năm 2002, chúng tôi tổ chức một bữa ăn sáng muộn để họp mặt với mười mấy người bạn thân thiết nhất của cả hai tại nhà chị Valerie Jarrett, với mục đích là chia sẻ chuyện tranh cử này và lắng nghe ý kiến của mọi người.

Chị Valerie sống trong một tòa nhà cao tầng ở khu Công viên Hyde không quá xa chỗ chúng tôi. Căn hộ của chị gọn gàng và hiện đại, có tường trắng, nội thất trắng và những nhánh hoa lan rực rỡ điểm xuyết thêm màu sắc. Khi đó chị đang là phó chủ tịch điều hành tại một công ty bất động sản và là ủy viên ban quản trị của Trung tâm Y khoa Đại học Chicago. Chị ủng hộ các nỗ lực của tôi tại Public Allies hồi tôi còn làm việc ở đó, và chị giúp gây quỹ cho nhiều chiến dịch của Barack, vận dụng mạng lưới quan hệ rộng khắp của mình để hỗ trợ mọi hoạt động của chúng tôi. Vì điều này, và vì sự nồng nhiệt, khôn ngoan của chị, Valerie đã có một vị trí kỳ lạ trong cuộc sống của vợ chồng chúng tôi. Tình bạn của chúng tôi mang tính cá nhân ngang ngửa với tính công việc. Chị thân thiết với tôi và cả với Barack, điều mà theo kinh nghiệm của tôi là rất hiếm thấy đối với bất kỳ đôi vợ chồng nào. Tôi có hội các bà mẹ quyền lực của mình, còn Barack tranh thủ thời gian rảnh để chơi bóng rổ với nhóm bạn thân. Chúng tôi có những người bạn tuyệt vời cũng là những cặp vợ chồng, con của họ chơi với mấy đứa trẻ nhà chúng tôi, và gia đình tôi thích đi du lịch với gia đình họ. Nhưng chị Valerie thì khác, chị vừa là một người chị lớn của mỗi người chúng tôi, vừa là người giúp chúng tôi nhìn nhận những tình huống tiến thoái lưỡng nan của mình một cách rõ ràng hơn. Chị hiểu chúng tôi, hiểu mục tiêu của chúng tôi và che chở cho cả hai chúng tôi.

Chị cũng đã nói riêng với tôi trước cuộc họp mặt rằng chị không nghĩ Barack nên tranh cử vào Thượng viện, vậy nên tôi đến nhà chị vào hôm đó với suy nghĩ là mình nắm phần thắng trong cuộc tranh luận này.

Nhưng tôi đã lầm.

Hôm đó Barack giải thích rằng cuộc đua thượng viện lần này là cơ hội có một không hai. Anh cảm thấy mình thật sự có cơ hội. Thượng nghị sĩ đương nhiệm Peter Fitzgerald là đảng viên Cộng hòa bảo thủ trong một tiểu bang ngày càng có nhiều người ủng hộ Đảng Dân chủ, và ông ấy đang gặp khó khăn trong việc duy trì sự ủng hộ từ chính đảng của mình. Nhiều khả năng sẽ có nhiều ứng viên chạy đua ở vòng tranh cử sơ bộ, đồng nghĩa với việc Barack chỉ cần thu được đa số phiếu bầu là có thể chiến thắng vòng đề cử trong Đảng Dân chủ. Về tiền bạc, anh ấy bảo đảm là không cần động đến tiền riêng của hai chúng tôi. Khi tôi hỏi làm sao chúng tôi có thể trang trải chi phí khi có hai ngôi nhà, một ở Washington và một ở Chicago, anh đáp, “À, anh sẽ viết thêm một quyển sách và nó sẽ là một quyển bán chạy, một quyển sách hái ra tiền”.

Câu trả lời này khiến tôi cười phá lên. Barack là người duy nhất mà tôi biết có kiểu niềm tin như thế, niềm tin là một quyển sách có thể giải quyết bất kỳ vấn đề gì. Tôi đã trêu rằng anh ấy giống cậu bé trong câu chuyện “Jack và Cây đậu thần”, người đánh đổi kế sinh nhai của gia đình để lấy một nắm đậu thần và hết mực tin là những hạt đậu đó sẽ mang lại điều kỳ diệu, kể cả khi không có ai khác tin điều đó.

Trên tất cả những phương diện khác, logic của Barack chặt chẽ đến đáng sợ. Trong khi Barack đang nói, tôi quan sát vẻ mặt chị Valerie và nhận ra Barack đang nhanh chóng thuyết phục chị, anh có câu trả lời cho mọi câu hỏi “thế còn… thì sao?” mà chúng tôi có thể đặt ra cho anh. Tôi biết những điều anh đang nói đều có lý, ngay cả tôi cũng đấu tranh chống lại thôi thúc tính toán tổng số thời gian cộng thêm mà anh ấy sẽ xa gia đình, đó là chưa kể viễn cảnh chuyển sang Washington sinh sống. Dù chúng tôi tranh cãi về những khó khăn mà sự nghiệp chính trị của anh gây ra cho cuộc sống gia đình suốt nhiều năm qua, nhưng tôi thật sự yêu thương và tin tưởng Barack. Hiện tại anh đã là người đàn ông của hai gia đình, sự quan tâm của anh chia đôi, một phần dành cho tôi và hai cô con gái, một phần dành cho khoảng hai trăm ngàn cử tri South Side. Thế thì việc chia sẻ anh với tiểu bang Illinois có gì khác nhau không? Tôi không biết, nhưng tôi cũng không thể ngăn cản khát vọng của anh, cái khát vọng luôn thôi thúc anh nỗ lực nhiều hơn.

Và thế là hôm đó chúng tôi đã có một thỏa thuận. Chị Valerie đồng ý phụ trách phần tài chính cho chiến dịch tranh cử vào Thượng viện của Barack. Một vài người bạn của chúng tôi đồng ý đóng góp thời gian và tiền bạc vào chiến dịch. Tôi chấp nhận tất cả, chỉ kèm theo một cảnh báo quan trọng, được lặp đi lặp lại to và rõ để mọi người đều nghe thấy: nếu thất bại, anh sẽ rời khỏi chính trường và tìm cho mình một công việc khác. Nếu anh không chiến thắng trong ngày bầu cử, đó sẽ là dấu chấm hết.

Thật sự là vậy, đó sẽ là dấu chấm hết.

Thế nhưng những chuyện xảy ra sau đó với Barack lại là một chuỗi may mắn. Trước hết, Peter Fitzgerald quyết định không tái tranh cử, mở đường cho các đối thủ và những ứng viên mới như chồng tôi. Tiếp theo, khá kỳ lạ là cả người dẫn đầu của Đảng Dân chủ trong vòng sơ bộ và ứng viên tiếp theo của Đảng Cộng hòa đều vướng vào những vụ tai tiếng liên quan đến vợ cũ. Chỉ vài tháng trước thềm bầu cử, Barack thậm chí còn chẳng có một đối thủ nào từ Đảng Cộng hòa.

Chắc chắn là anh đã thực hiện một chiến dịch tranh cử xuất sắc, rút kinh nghiệm từ lần ứng cử vào Quốc hội. Anh đánh bại bảy đối thủ lớn và giành được hơn một nửa số phiếu để được đề cử. Mặc dù đã đi khắp tiểu bang và tiếp xúc với những cử tri tiềm năng, ở nhà anh vẫn là con người mà tôi biết - hài hước và quyến rũ, thông minh và chu đáo. Những câu trả lời thận trọng và tỉ mỉ quá mức của anh dành cho các câu hỏi được đặt ra trên các diễn đàn ở tòa thị chính và tại các cuộc tranh luận trong chiến dịch vận động tranh cử dường như chỉ củng cố sự thật rằng anh ấy thuộc về Thượng viện. Nhưng bên cạnh những nỗ lực đó thì con đường đến Thượng viện của Barack có vẻ được lát bằng sự may mắn.

Tất cả những điều này đều diễn ra trước khi John Kerry mời Barack diễn thuyết tại Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ năm 2004 tại Boston. Kerry, khi ấy là thượng nghị sĩ bang Massachusetts, đang trong cuộc cạnh tranh khốc liệt tranh chức tổng thống với George W. Bush.

Trong khi đó, chồng tôi vẫn là một nhân vật vô danh - một nhà lập pháp khiêm tốn chưa từng đứng trước một đám đông có mười lăm ngàn người hoặc nhiều hơn như đám đông tại Boston. Anh ấy chưa từng sử dụng máy nhắc chữ, chưa từng lên sóng truyền hình trực tiếp vào giờ cao điểm. Anh là người mới, một người da đen trong lĩnh vực mà xưa nay thuộc về người da trắng, một người bỗng nhiên xuất hiện với cái tên kỳ lạ và lý lịch kỳ lạ, hy vọng có thể đón nhận sự đồng tình từ các thành viên Đảng Dân chủ. Theo lời nhận xét sau này của các nhà bình luận trong giới chuyên môn, chọn Barack Obama để diễn thuyết trước hàng triệu khán giả là một nước cờ mạo hiểm.

Ấy vậy mà với cách thức kỳ lạ của mình, dường như anh được sinh ra cho giây phút định mệnh đó. Tôi biết điều đó vì tôi đã tận mắt thấy tâm trí của anh không ngừng khuấy động. Suốt nhiều năm, tôi đã thấy anh đọc đủ loại sách vở, báo chí và tiếp thu các ý tưởng, thấy anh hào hứng mỗi khi nói chuyện với những người có thể mang đến những kinh nghiệm hay tri thức mới mẻ. Anh góp nhặt tất cả những thứ đó. Giờ đây tôi nhận ra anh đang xây dựng một tầm nhìn - và đó không phải là một tầm nhìn nhỏ hay hạn hẹp. Đó chính là thứ mà tôi đã chấp nhận dành chỗ cho nó trong cuộc sống chung của chúng tôi, để cùng tồn tại với nó, dù là miễn cưỡng. Đôi khi chuyện đó khiến tôi phát bực, nhưng đó cũng là điều mà tôi không thể phủ nhận nơi anh. Anh đã lặng lẽ và tỉ mỉ vun đắp cho tầm nhìn ấy kể từ khi chúng tôi mới quen biết nhau. Và giờ đây có lẽ số lượng khán giả cuối cùng cũng đáp ứng được quy mô mà anh tin là mình có khả năng đạt được. Anh đã sẵn sàng cho nhiệm vụ đó. Tất cả những gì anh cần làm là cất tiếng nói.

“CHẮC HẲN ĐÓ LÀ một bài diễn thuyết hay” đã trở thành điệp khúc của tôi từ đó về sau. Đó là một câu đùa giữa tôi và Barack, câu đùa mà tôi thường lặp lại và với một chút châm biếm từ sau đêm hôm đó - ngày 27 tháng Bảy năm 2004.

Tôi đã để bọn trẻ ở nhà với bà ngoại và bay sang Boston để nghe bài diễn thuyết của anh. Tôi đứng trong cánh gà của trung tâm hội nghị khi Barack bước vào ánh đèn sân khấu nóng bức và đứng trước ánh mắt của hàng triệu con người. Anh hơi lo lắng, và tôi cũng thế, dù chúng tôi đều quyết không thể hiện điều đó ra ngoài. Dù sao thì đây cũng là cách của Barack. Càng chịu nhiều áp lực thì anh càng điềm tĩnh. Anh đã dành vài tuần để soạn bài phát biểu của mình, tranh thủ khoảng thời gian giữa các lần bầu cử thượng viện Illinois. Anh ghi nhớ những lời lẽ của mình và tập dượt cẩn thận, đến mức anh không thật sự cần dùng máy nhắc chữ, trừ khi nỗi sợ của anh bị kích thích và tâm trí anh trở nên trống rỗng. Nhưng chuyện đã không xảy ra như vậy. Barack nhìn khán giả và nhìn vào máy quay, và như thể đã kích hoạt cỗ máy nào đó trong đầu mình, anh chỉ mỉm cười và bắt đầu vào cuộc.

Tối hôm đó, anh phát biểu khoảng mười bảy phút, giới thiệu về bản thân và xuất thân của mình - anh kể ông ngoại anh là lính bộ binh dưới trướng tướng Patton, bà ngoại anh làm việc trong dây chuyền lắp ráp sản phẩm trong suốt cuộc chiến, cha anh từng là người chăn nuôi dê ở Kenya, rồi anh nói về tình yêu không bền vững của cha mẹ, về niềm tin của họ - rằng một nền giáo dục tốt có thể mang lại điều gì cho đứa con trai không có xuất thân giàu sang hay mối quan hệ rộng rãi. Một cách thành thật và tài tình, anh không đóng vai người ngoài cuộc, mà trái lại, anh chứng tỏ mình là hiện thân đích thực của câu chuyện nước Mỹ. Anh nhắc những khán thính giả của mình rằng một quốc gia không thể chỉ đơn giản phân chia thành phe xanh và phe đỏ, rằng chúng ta đoàn kết với nhau bởi tình cảm giữa người với người, bởi mong muốn được quan tâm cả xã hội. Anh kêu gọi mọi người hãy hy vọng thay vì nghi kỵ. Anh nói bằng hy vọng, dấy lên hy vọng và thật sự là gần như đã hát bài ca hy vọng.

Đó là mười bảy phút thể hiện sự vận dụng ngôn ngữ tài tình và trôi chảy của Barack, là mười bảy phút bày tỏ sự lạc quan sâu sắc và đáng kinh ngạc của anh. Khi anh kết thúc bài diễn văn, với cú chốt hạ dành cho John Kerry và ứng viên phó tổng thống John Edwards, đám đông đã đứng lên và tung hô vang dội, những tràng pháo tay đồng loạt nổ lên dưới khán đài. Tôi bước ra sân khấu, bước vào ánh sáng chói lòa với đôi giày cao gót và bộ vét trắng để ôm chúc mừng Barack trước khi cùng anh vẫy tay với những khán giả đang vô cùng hào hứng.

Bầu không khí ở đó rất sôi nổi, âm thanh thì ồn ào vô cùng. Anh chàng Barack đó, con người tử tế với một trí tuệ to lớn và niềm tin thực thụ vào nền dân chủ đó, đã không còn là một bí mật nữa. Tôi tự hào về những gì anh ấy đã làm, dù chuyện đó không khiến tôi ngạc nhiên. Đây là người đàn ông mà tôi đã kết hôn. Từ lâu tôi đã biết khả năng của anh. Ngẫm lại, có lẽ đó chính là lúc tôi đã lặng lẽ buông bỏ suy nghĩ là anh sẽ quay đầu, rằng anh mãi mãi chỉ thuộc về tôi và hai cô con gái. Nữa đi nào, nữa đi nào, nữa đi nào. Tôi có thể nghe thấy điều đó giữa tiếng vỗ tay vang dội.

Phản ứng của truyền thông trước bài diễn thuyết của Barack được thể hiện qua những lời ngoa dụ. “Tôi vừa gặp được vị tổng thống da đen đầu tiên”, Chris Matthews khẳng định với những bình luận viên kiêm đồng nghiệp của mình trên đài NBC. Tiêu đề trên trang nhất của tờ Chicago Tribune ngày hôm sau chỉ vỏn vẹn vài chữ, “Nhân tài kiệt xuất”. Điện thoại di động của Barack bắt đầu reng không ngừng. Các chuyên gia bình luận trên kênh truyền hình cáp gọi anh là “ngôi sao nhạc rock” và “một thành công bất ngờ”, như thể anh ấy chưa từng nỗ lực nhiều năm trời để chuẩn bị cho giây phút xuất hiện trên sân khấu, như thể bài diễn thuyết đã tạo ra anh ấy chứ không phải anh ấy tạo ra nó. Thế nhưng bài diễn thuyết vẫn là khởi đầu của điều gì đó mới mẻ, không chỉ cho anh mà còn cho chúng tôi, cả gia đình chúng tôi. Cuộc sống của chúng tôi bị phơi bày ở một mức độ mới, và chúng tôi bị cuốn vào làn sóng kỳ vọng của người khác.

Toàn bộ chuyện này thật khó tin, và tất cả những gì tôi có thể làm là nói đùa về nó.

“Đó chắc hẳn là một bài diễn thuyết hay”, tôi nhún vai khi người ta bắt đầu chặn Barack lại trên đường để xin chữ ký hoặc nói cho anh biết là họ rất thích những điều anh nói. “Đó chắc hẳn là một bài diễn thuyết hay”, tôi nói khi chúng tôi bước ra khỏi một nhà hàng ở Chicago và thấy một đám đông đã tụ tập trên lề đường để chờ anh. Tôi cũng nói câu tương tự khi các nhà báo bắt đầu hỏi ý kiến của Barack về những vấn đề hệ trọng của quốc gia, khi những chiến lược gia chính trị cộm cán bắt đầu vo ve quanh anh, và khi quyển sách Dreams from My Father được tái bản dưới dạng bìa mềm và lọt vào danh sách bestseller của tờ New York Times sau chín năm xuất bản mà không được ai ngó ngàng.

“Đó chắc hẳn là một bài diễn thuyết hay”, tôi lặp lại khi Oprah Winfrey rạng rỡ và tràn đầy năng lượng xuất hiện trước cửa nhà chúng tôi để phỏng vấn chúng tôi cả ngày hôm đó cho tờ tạp chí của chị.

Chuyện gì đang xảy ra với chúng tôi? Tôi gần như không thể nắm bắt được. Vào tháng Mười Một, Barack được bầu vào Thượng viện Hoa Kỳ, giành được 70% phiếu bầu trên toàn bang, tỷ lệ cao nhất trong lịch sử Illinois và chiến thắng vang dội nhất trong tất cả những cuộc tranh cử Thượng viện diễn ra trong năm đó trên cả nước Mỹ. Anh có được một lượng lớn phiếu bầu từ các cử tri da đen, da trắng và gốc Latin; phụ nữ và đàn ông; người giàu và người nghèo; dân thành thị, ngoại thành và nông thôn. Một lần nọ, chúng tôi đến Arizona trong một kỳ nghỉ ngắn, và anh ấy đã được vây quanh bởi những con người thiện chí ở đó. Đối với tôi thì chuyện này giống như một thước đo kỳ lạ nhưng chân thực về danh tiếng của anh: giờ đây ngay cả người da trắng cũng thừa nhận anh.

TÔI GIỮ LẤY NHỮNG GÌ CÒN LẠI của cuộc sống bình thường và sống với nó. Khi chúng tôi ở nhà, mọi thứ đều như cũ. Khi chúng tôi ở bên bạn bè và người thân, mọi thứ đều như cũ. Với lũ trẻ, mọi thứ luôn như cũ. Nhưng bên ngoài thì mọi chuyện đã khác. Barack liên tục đi đi về về giữa Washington và Chicago. Anh có một văn phòng trong Thượng viện và căn hộ trong một tòa nhà cũ kỹ ở Đồi Capitol, đó là căn hộ nhỏ có một phòng ngủ đã chất đống sách vở và báo chí, là cái ổ xa nhà của anh. Mỗi khi đến thăm anh, tôi và bọn trẻ thậm chí còn không buồn giả vờ là muốn ở lại căn hộ đó, mà chúng tôi sẽ đặt một phòng khách sạn cho cả nhà.

Tôi vẫn duy trì thói quen của mình ở Chicago. Gym, công việc, về nhà, cứ thế lặp lại. Cho chén đĩa vào máy rửa chén. Học bơi, bóng đá, múa ba-lê. Tôi duy trì nhịp sống như trước giờ vẫn thế. Barack có cuộc sống riêng ở Washington, vận hành nó với tinh thần của một thượng nghị sĩ, còn tôi vẫn là chính tôi, vẫn sống cuộc đời bình thường của mình. Một ngày nọ, khi tôi đang đỗ xe ở khu trung tâm mua sắm trên Đại lộ Clybourn, ăn Chipotle và tận hưởng một chút thời gian riêng tư sau khi tạt qua BabyGap, thì thư ký của tôi gọi điện thoại đến và hỏi xem cô ấy có thể kết nối tôi với một cuộc gọi hay không. Đó là cuộc gọi của một phụ nữ ở Washington - một người tôi chưa từng gặp, vợ của một thượng nghị sĩ khác - cô ấy đã tìm cách liên lạc với tôi nhiều lần.

“Được, nối máy cho tôi đi.”

Và giọng nói của cô ấy vang lên, dễ chịu và ấm áp. “Xin chào!”, cô nói. “Tôi rất mừng vì cuối cùng cũng được trò chuyện với chị!”

Tôi nói là tôi cũng rất vui được nói chuyện với cô ấy.

Cô ấy tiếp lời, “Tôi chỉ gọi để gửi lời chào đến chị và mời chị tham gia một sự kiện rất đặc biệt”.

Cô ấy gọi đến để đề nghị tôi gia nhập một tổ chức tư nhân, một câu lạc bộ mà theo những gì tôi hình dung từ mô tả của cô ấy là nơi chủ yếu bao gồm phu nhân của những nhân vật quan trọng ở Washington. Họ thường xuyên gặp nhau để dùng bữa trưa và thảo luận những vấn đề trong ngày. “Đây là một cách hay để mọi người gặp gỡ nhau, và tôi biết không phải lúc nào mọi thứ cũng dễ dàng khi chị là người mới”, cô ấy nói tiếp.

Suốt đời mình, tôi chưa bao giờ được mời tham gia một câu lạc bộ nào cả. Tôi đã nhìn bạn bè trung học của mình đi trượt tuyết với nhóm của họ tại câu lạc bộ “Jack and Jill”. Ở Princeton, thỉnh thoảng tôi chờ Suzanne về phòng sau các bữa tiệc tại câu lạc bộ ẩm thực, những lúc đó cô ấy ngà ngà say và thường cười khúc khích. Một nửa số luật sư ở Sidley dường như cũng tham gia các câu lạc bộ thể thao ngoài trời. Tôi từng đến nhiều câu lạc bộ trong số đó để quyên tiền cho Public Allies và cho các chiến dịch của Barack. Nhìn chung, các câu lạc bộ là nơi đầy tiền - đó là điều bạn có thể sớm nhận ra. Bạn là thành viên của một câu lạc bộ không chỉ có nghĩa là bạn thuộc về nơi đó.

Cô ấy đang đưa ra một lời đề nghị tử tế, xuất phát từ sự chân thành, nhưng tôi lại rất vui được từ chối lời đề nghị đó.

“Cảm ơn chị”, tôi trả lời. “Thật vui khi chị đã nghĩ đến tôi. Nhưng thật ra, vợ chồng chúng tôi đã quyết định là tôi sẽ không dọn đến Washington”. Tôi nói với cô ấy là chúng tôi có hai cô con gái đang đi học ở Chicago, và tôi rất gắn bó với công việc hiện tại. Tôi giải thích rằng Barack đang ổn định cuộc sống ở Washington và về nhà khi nào anh ấy có thể. Tôi không đề cập đến việc chúng tôi gắn bó với Chicago đến mức đang tìm mua một căn nhà mới, nhờ vào khoản tiền tác quyền mà chúng tôi bắt đầu có được từ việc tái bản quyển sách bán chạy của anh và việc anh đã nhận được một lời đề nghị hào phóng dành cho quyển sách thứ hai - một sự thu hoạch bất ngờ đến từ những hạt đậu thần của Barack.

Vị phu nhân chính khách đó ngừng một chút, để cho một khoảng lặng tinh tế trôi qua. Rồi cô ấy nói tiếp, vẫn với giọng nhỏ nhẹ. “Tình trạng đó có thể không tốt cho đời sống hôn nhân đâu, chị biết đấy, khi mà gia đình phải sống xa nhau.”

Tôi hiểu nhận định của cô ấy. Cô ấy đã sống ở Washington nhiều năm. Ý của cô ấy là cô ấy đã nhìn thấy những chuyện không tốt đẹp xảy ra khi hai vợ chồng sống xa nhau, là tôi đang đưa ra một lựa chọn nhiều rủi ro, đồng thời cô ấy cũng có ngụ ý rằng chỉ có một cách để làm vợ của một thượng nghị sĩ và tôi đang chọn sai cách.

Tôi cảm ơn cô ấy một lần nữa, gác máy và thở dài. Ngay từ đầu, tôi nào có lựa chọn bất kỳ chuyện gì trong tất cả những chuyện này. Tất cả đều không phải là lựa chọn của tôi. Cũng như cô ấy, hiện tại tôi là vợ một thượng nghị sĩ Mỹ - là “bà Obama”, cô ấy đã gọi tôi như thế trong suốt cuộc trò chuyện - nhưng điều này không có nghĩa là tôi phải từ bỏ mọi thứ để hỗ trợ anh. Thật ra, tôi không muốn từ bỏ bất kỳ điều gì.

Tôi biết có những thượng nghị sĩ khác đã quyết định sống cùng người bạn đời của mình ở quê nhà thay vì dọn tới Washington. Tôi biết Thượng viện, nơi mười bốn trên một trăm thành viên là phụ nữ, đã không còn quá cổ hủ như trước. Thế nhưng tôi vẫn cảm thấy thật không cần thiết khi một phụ nữ khác nói rằng tôi đã sai khi muốn để các con tiếp tục theo học trường cũ và duy trì công việc hiện tại của mình. Vài tuần sau cuộc bầu cử, tôi đã cùng Barack đến Washington để tham dự buổi giới thiệu kéo dài một ngày dành cho các thượng nghị sĩ vừa được bầu và vợ chồng của họ. Chỉ có vài người chúng tôi tham gia sự kiện năm đó, và sau phần giới thiệu ngắn, các chính trị gia tách ra để đi cùng nhau, trong khi vợ hoặc chồng họ thì được dẫn vào một căn phòng khác. Tôi mang nhiều thắc mắc khi đến đó, biết rằng các chính trị gia và gia đình của họ cần tuân thủ chính sách đạo đức công việc nghiêm ngặt của liên bang về mọi thứ, từ những người mà họ được phép nhận quà cáp cho đến cách họ chi trả các chuyến đi và về giữa nhà và Washington. Tôi nghĩ có lẽ chúng tôi sẽ trao đổi về cách ứng xử trong các tình huống giao tiếp với các nhà vận động hành lang hay về những vấn đề pháp lý liên quan đến việc huy động tiền cho các chiến dịch trong tương lai.

Tuy nhiên, những gì chúng tôi nhận được là một bài diễn văn công phu về lịch sử và kiến trúc của tòa nhà Quốc hội, chiêm ngưỡng những mẫu gốm sứ ở Thượng viện, theo sau là một bữa tiệc trưa trong bầu không khí trang trọng nhưng cởi mở để mọi người trò chuyện với nhau. Buổi giới thiệu kéo dài nhiều giờ liền. Có lẽ đó sẽ là một sự kiện vui vẻ nếu tôi không phải xin nghỉ một ngày và gửi hai đứa trẻ cho bà ngoại để đến đây. Khi đảm nhiệm vai trò vợ của một chính khách, tôi muốn nghiêm túc hoàn thành vai trò đó. Tôi chẳng quan tâm bản chất của chính trị, nhưng cũng không muốn làm hỏng việc.

Sự thật là Washington khiến tôi bối rối với những truyền thống danh giá và sự trang nghiêm của địa danh này, với sự áp đảo của người da trắng và nam giới ở đây, cũng như với việc các phu nhân dùng bữa trưa ở một nơi riêng. Cốt lõi của sự bối rối đó là một nỗi sợ, vì dù rất không muốn trở thành một phần của tất cả những chuyện này nhưng tôi vẫn bị cuốn vào. Tôi đã là “bà Obama” suốt mười hai năm qua, nhưng giờ đây điều này bắt đầu mang một ý nghĩa khác. Ít nhất là trong vài phương diện nào đó, giờ đây “bà Obama” cho tôi cảm giác bị bó hẹp trong một vai trò nhỏ hơn, một người vợ có nhân dạng được định đoạt bởi chồng mình. Tôi là vợ của Barack Obama - ngôi sao nhạc rock trong giới chính trị, thượng nghị sĩ da đen duy nhất trong Thượng viện lúc bấy giờ, người đã nói về hy vọng và sự khoan dung một cách sâu sắc đến mức giờ đây người ta đặt rất nhiều kỳ vọng vào anh.

Chồng tôi là thượng nghị sĩ, nhưng theo cách nào đó, người ta dường như muốn vượt qua giới hạn đó. Người ta muốn biết anh ấy có tranh cử tổng thống năm 2008 hay không. Đó là vấn đề mà ai cũng thắc mắc. Mọi phóng viên đều đặt ra câu hỏi đó. Gần như tất cả những người gặp anh ấy trên đường đều hỏi câu đó. Đồng nghiệp của tôi ở bệnh viện cũng đứng trước cửa phòng làm việc của tôi và hỏi về vấn đề này một cách tự nhiên, nhằm nghe ngóng xem có thu được tin tức mới nào không. Kể cả bé Malia, mới sáu tuổi rưỡi vào ngày con bé mặc một chiếc váy vải nhung màu hồng và đứng cạnh Barack khi anh tuyên thệ nhậm chức ở Thượng viện với Phó tổng thống Dick Cheney, cũng muốn biết. Tuy nhiên, không như những người khác, cô con gái học lớp một của chúng tôi đủ thông minh để cảm nhận là thời điểm vẫn chưa chín muồi.

“Cha ơi, cha đang cố gắng để trở thành tổng thống sao?”, con bé hỏi. “Cha có nghĩ là nên làm phó hay gì đó trước đã không?”

Về chuyện này thì tôi đồng tình với Malia. Vốn là một người thực dụng, tôi luôn chọn phương pháp chậm mà chắc, cẩn thận hoàn thành từng bước một cách bài bản. Tôi bẩm sinh là người ủng hộ sự chờ đợi lâu dài và thận trọng. Về vấn đề này, tôi cảm thấy thoải mái hơn mỗi lần nghe Barack dùng thái độ khiêm tốn để đẩy lùi những lời dò hỏi, xua tan những nghi vấn về việc tranh cử chức tổng thống và nói rằng dự định duy nhất của anh hiện nay là tập trung làm việc thật tốt ở Thượng viện. Anh thường nhắc nhở mọi người rằng anh chỉ là một thành viên cấp thấp của đảng thiểu số, một cầu thủ dự bị nếu có một vị trí nào như thế. Và đôi khi anh còn bổ sung rằng anh còn phải nuôi nấng hai đứa con.

Nhưng trống trận đã vang và rất khó để dừng cuộc chiến lại. Barack đang viết một bản thảo mà sau này trở thành quyển The Audacity of Hope, anh gói ghém niềm tin và tầm nhìn của mình dành cho quốc gia vào những con chữ trên mặt giấy. Anh nói với tôi là anh thật sự thỏa mãn với vị trí hiện tại, khi được từ từ bồi đắp tầm ảnh hưởng của mình, chờ đợi đến lượt mình lên tiếng trong những cuộc tranh luận có phần lộn xộn ở Thượng viện. Nhưng rồi một cơn bão ập đến.

Cơn bão Katrina đã tàn phá vùng duyên hải Vịnh Mexico nước Mỹ vào cuối tháng Tám năm 2005, ào ạt tràn qua những con đê ở New Orleans, làm ngập úng những vùng trũng, khiến rất nhiều người - chủ yếu là người da đen - rơi vào cảnh “mắc cạn” trên nóc những ngôi nhà đã bị bão phá hủy của mình. Hậu quả của cơn bão rất khủng khiếp, các báo cáo của giới truyền thông cho thấy bệnh viện không có điện dự phòng, các gia đình tang thương bị dồn vào nơi trú tạm ở sân vận động, nhân viên cứu hộ gặp nhiều khó khăn vì thiếu trang thiết bị. Có khoảng một ngàn tám trăm người thiệt mạng, hơn nửa triệu người bị mất nhà cửa, và thảm kịch này càng thêm nặng nề bởi sự can thiệp kém cỏi của chính quyền liên bang. Thảm kịch này phơi bày sự thật đau lòng về sự phân chia cấu trúc của đất nước, đặc biệt là sự yếu thế đến cùng cực của người Mỹ gốc Phi và người nghèo thuộc mọi chủng tộc ở Mỹ trong tình huống khó khăn.

Hy vọng ở đâu vào lúc này?

Tôi xem tin tức về bão Katrina mà lòng quặn thắt vì biết rằng nếu có thảm kịch xảy ra ở Chicago, rất nhiều người thân và hàng xóm của mình cũng sẽ chịu số phận tương tự. Barack cũng xúc động không kém trước tình hình này. Một tuần sau cơn bão, anh bay đến Houston để tham gia cùng tổng thống đương nhiệm George H. W. Bush, vợ chồng Bill và Hillary Clinton, khi đó đang là đồng nghiệp của anh ở Thượng viện, thăm hỏi hàng chục ngàn người dân New Orleans bị sơ tán và phải lánh nạn tại Cung thể thao Astrodome. Trải nghiệm này đã nhen nhóm điều gì đó trong anh, cái cảm giác day dứt rằng anh vẫn chưa làm đủ.

ĐÂY LÀ ĐIỀU MÀ TÔI ĐÃ NGẪM NGHĨ LẠI vào khoảng một năm sau, khi tiếng trống trận đã thật sự vang dội, khi áp lực đè nặng cả hai vợ chồng. Chúng tôi vẫn tiếp tục công việc thông thường, nhưng câu hỏi Barack có ứng cử vị trí tổng thống hay không vẫn lởn vởn quanh chúng tôi. Anh ấy có thể làm không? Anh ấy sẽ làm vậy hay sao? Anh ấy nên làm vậy không? Mùa hè năm 2006, cử tri bắt đầu điền phiếu thăm dò về việc ai thích hợp là ứng viên trong cuộc tranh cử vị trí tổng thống, trong đó tên của Barack được liệt kê trong danh sách ứng viên tiềm năng, nhưng Hillary Clinton mới là lựa chọn số một. Dù vậy, đến mùa thu năm đó, số phiếu của Barack đã bắt đầu tăng lên, một phần là nhờ quyển sách The Audacity of Hope mới xuất bản và hàng loạt cơ hội xuất hiện trên truyền thông qua chuyến đi giới thiệu sách. Số lượt bầu chọn của anh đột ngột tăng lên, ngang ngửa hoặc cao hơn cả số phiếu của Al Gore và John Kerry, hai ứng viên trước đó của Đảng Dân chủ - đây là minh chứng cho tiềm năng của Barack. Tôi biết anh đã có những cuộc trò chuyện riêng với bạn bè, với cố vấn và mạnh thường quân tiềm năng để báo hiệu với họ rằng anh đang bắt đầu cân nhắc ý định ấy. Nhưng có một cuộc trò chuyện mà anh lảng tránh, đó là cuộc trò chuyện với tôi.

Đương nhiên anh biết tôi cảm thấy thế nào. Chúng tôi đã gián tiếp thảo luận về chuyện này khi bàn đến những vấn đề khác. Chúng tôi đã sống với kỳ vọng của người khác lâu đến mức chúng hiển hiện trong mỗi cuộc trò chuyện của chúng tôi. Chúng tôi nói về tiềm năng của Barack khi ăn tối. Chúng tôi nói về tiềm năng của Barack khi chở các con đến trường và trên đường đi làm. Vấn đề đó hiện diện ngay cả khi chúng tôi không muốn nó ở đó, và nó mang đến cảm giác kỳ lạ cho mọi điều chúng tôi làm. Quan điểm của tôi là chồng mình đã làm rất nhiều rồi. Nếu anh thật sự có cân nhắc tranh cử vị trí tổng thống, tôi hy vọng anh ấy sẽ chọn phương thức thận trọng, chuẩn bị kỹ lưỡng, duy trì vị trí ở Thượng viện để chờ đợi thời cơ và chờ cho đến khi các con lớn hơn - tới năm 2016 chẳng hạn.

Từ khi biết anh, tôi cảm thấy Barack luôn dõi mắt hướng đến một chân trời xa xăm, đến ý tưởng của anh về thế giới mà chúng tôi nên có. Chỉ lần này thôi, tôi muốn anh hãy bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Tôi không hiểu làm thế nào anh ấy có thể không cảm thấy như thế khi nhìn Sasha và Malia, nay đã năm và tám tuổi, với mái tóc tết bím và sức sống vui tươi của chúng. Đôi khi tôi đau lòng khi nghĩ rằng anh ấy không hài lòng với cuộc sống mà chúng tôi đang có.

Chúng tôi đang cò cưa, hai chúng tôi, chồng một bên và vợ một bên. Chúng tôi đang sống trong một ngôi nhà gạch xinh xắn theo phong cách Georgia trên một con phố yên tĩnh ở khu Kenwood, có cổng vòm rộng và cây cao trong sân - chính là kiểu nhà mà anh Craig và tôi từng mở to mắt nhìn chằm chằm trong những chuyến đi chơi vào Chủ nhật, khi ngồi trong chiếc Buick của cha. Tôi thường nghĩ đến cha và tất cả những gì ông đã dày công truyền dạy cho chúng tôi. Tôi ước gì cha còn sống để thấy mọi chuyện đang diễn ra. Anh Craig hiện đang rất hạnh phúc khi cuối cùng đã đổi hướng cuộc đời mình, rời bỏ sự nghiệp ở ngân hàng đầu tư và quay về với mối tình đầu của mình - bóng rổ. Sau vài năm làm trợ lý ở Northwestern, giờ đây anh là huấn luyện viên chính cho đội bóng rổ trường Đại học Brown ở Đảo Rhode, và anh cũng chuẩn bị kết hôn lần thứ hai, với Kelly McCrum, trưởng ban tuyển sinh xinh đẹp và thực tế đến từ East Coast. Hai đứa con của anh đã cao lớn, tự tin và là ví dụ điển hình cho những gì thế hệ trẻ có thể làm được.

Tôi là vợ của một thượng nghị sĩ, nhưng ngoài ra, và quan trọng hơn, tôi có một sự nghiệp thật sự có ý nghĩa đối với mình. Mùa xuân vừa rồi tôi đã được thăng chức và trở thành phó chủ tịch Trung tâm Y khoa Đại học Chicago. Tôi đã dành nhiều năm qua để phát triển Chương trình Cộng tác Hỗ trợ Y tế Cộng đồng South Side, qua đó đã giúp kết nối hơn một ngàn năm trăm bệnh nhân - những người tìm đến phòng cấp cứu của chúng tôi - với người cung cấp dịch vụ chăm sóc mà họ có thể thường xuyên gặp gỡ cho dù có thể chi trả phí dịch vụ hay không. Công việc này có liên quan đến trải nghiệm cá nhân của tôi. Tôi đã nhìn thấy người da đen kéo vào phòng cấp cứu, mang theo những vấn đề bị bỏ bê đã lâu - ví dụ như bệnh nhân tiểu đường có vấn đề tuần hoàn máu nhưng không được chăm sóc và giờ cần phải cưa chân - và không khỏi nghĩ về những lần khám bệnh mà cha tôi đã không thể thực hiện, những triệu chứng của căn bệnh đa xơ cứng mà ông đã cố tình làm cho bớt nghiêm trọng để không gây thêm lo lắng, không khiến gia đình thêm tốn kém, không tạo thêm thủ tục giấy tờ, hoặc để ông không phải cảm thấy bị một vị bác sĩ da trắng giàu có nào đó xem thường.

Tôi yêu công việc của mình, và tôi cũng yêu cuộc sống của mình, dù nó không hoàn hảo. Giờ đây Sasha sắp vào tiểu học, và chuyện này khiến tôi cảm thấy như mình đang ở khởi điểm của một giai đoạn mới, sắp được khơi dậy ngọn lửa khát vọng của bản thân và cân nhắc một loạt những mục tiêu mới. Một chiến dịch tranh cử tổng thống sẽ có tác dụng gì? Nó sẽ làm hỏng bét mọi thứ. Tôi có đủ kinh nghiệm để hiểu chuyện này trước khi nó xảy ra. Barack và tôi đã trải qua năm kỳ tranh cử trong mười một năm rồi đó thôi, và mỗi lần như thế đều buộc tôi phải đấu tranh mạnh mẽ hơn để duy trì những mối ưu tiên của mình. Mỗi cuộc tranh cử đều đã hằn thêm một vết thương lên tâm hồn tôi và lên cuộc sống hôn nhân của chúng tôi. Tôi e rằng một cuộc tranh cử tổng thống sẽ thật sự khiến chúng tôi tả tơi. Barack sẽ đi xa lâu hơn rất nhiều so với khi anh còn làm việc ở Springfield hay Washington - anh sẽ đi xa không chỉ nửa tuần mà là trọn một tuần; những phiên làm việc của anh sẽ không chỉ kéo dài từ bốn đến tám tuần một lần, với vài ngày nghỉ ở giữa, mà sẽ là suốt mấy tháng liền. Chuyện đó sẽ ảnh hưởng như thế nào đến gia đình chúng tôi? Sự nổi tiếng đó sẽ ảnh hưởng như thế nào đến các con của chúng tôi?

Tôi đã làm những gì tôi có thể làm để phớt lờ cơn lốc mà Barack đem đến, ngay cả khi cơn lốc đó chẳng có dấu hiệu gì là sẽ suy yếu. Các bình luận viên trên kênh truyền hình cáp đang tranh luận về khả năng thắng cử của anh ấy. David Brooks, phóng viên thuộc phái bảo thủ của tờ New York Times, đăng một bài viết khiến người ta ngạc nhiên với tinh thần cứ-làm-đi nhan đề “Run, Barack, Run” (tạm dịch: “Hành động đi, Barack”). Bây giờ đi đến đâu anh ấy cũng được người ta nhận ra, nhưng may là tôi vẫn còn được “vô hình”. Khi đứng xếp hàng chờ thanh toán tại một cửa hàng tiện lợi vào một ngày tháng Mười, tôi nhìn thấy trang bìa tạp chí Time và phải ngoảnh mặt đi chỗ khác: đó là một bức ảnh chụp cực kỳ cận cảnh khuôn mặt của chồng tôi, kế bên là dòng tít “Lý do Barack Obama có thể trở thành tổng thống kế tiếp của nước Mỹ”.

Hy vọng của tôi là một lúc nào đó chính Barack sẽ đặt dấu chấm hết cho suy đoán này, tuyên bố anh không tham gia tranh cử và hướng cái nhìn của giới truyền thông sang nơi khác. Nhưng anh đã không làm vậy. Anh ấy sẽ không làm vậy. Anh muốn ứng cử. Anh muốn, còn tôi thì không.

Bất cứ lúc nào phóng viên hỏi anh có tham gia vào cuộc đua giành chiếc ghế tổng thống hay không, Barack sẽ lưỡng lự và trả lời đơn giản, “Tôi vẫn đang suy nghĩ. Đó là quyết định của cả gia đình”. Câu này đồng nghĩa với: “Chỉ khi Michelle cho phép tôi tham gia”.

Những đêm Barack ở Washington, tôi nằm một mình trên giường, cảm giác như thể tôi là người chống cả thế giới. Tôi muốn giữ riêng Barack cho gia đình mình, trong khi tất cả những người khác dường như đều muốn anh làm việc cho đất nước. Anh có một hội đồng cố vấn - David Axelrod và Robert Gibbs, hai chiến lược gia chuyên về chiến dịch tranh cử từng đóng vai trò then chốt trong chiến thắng của anh ở Thượng viện; David Plouffe, một cố vấn khác đến từ công ty luật của Axelrod; trưởng nhóm nhân viên của anh, Pete Rouse; và chị Valerie - tất cả họ đều ủng hộ anh. Nhưng họ cũng nói rõ rằng sẽ không có chuyện nửa vời khi tham gia chiến dịch tranh cử tổng thống. Barack và tôi cần phải toàn tâm toàn ý cho chiến dịch. Anh sẽ phải đối mặt với những đòi hỏi không thể tưởng tượng nổi. Anh sẽ vừa phải hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ của một Thượng nghị sĩ, vừa phải xây dựng và duy trì một cuộc vận động tranh cử xuyên nước Mỹ, phát triển một cương lĩnh chính sách cơ bản, đồng thời kêu gọi lượng tiền khổng lồ. Công việc của tôi không chỉ là âm thầm ủng hộ chiến dịch mà còn phải tham gia vào chiến dịch. Tôi sẽ phải chuẩn bị để chính mình và hai đứa trẻ sẵn sàng xuất hiện trước công chúng, mỉm cười ủng hộ và bắt tay rất nhiều người. Tôi nhận ra giờ đây mọi thứ phải lấy anh làm trung tâm, nhằm hỗ trợ cho một mục tiêu to lớn hơn.

Kể cả anh Craig, người luôn bảo vệ tôi từ ngày tôi chào đời, cũng trở nên phấn khích trước khả năng Barack ra tranh cử. Một tối nọ, anh ấy gọi tôi để công khai bày tỏ thái độ của mình. Vẫn dùng thuật ngữ bóng rổ như thường lệ, anh Craig nói, “Nghe này, Miche, anh biết là em lo lắng, nhưng nếu Barack bắt được bóng thì nó phải chớp lấy thời cơ ném rổ. Em hiểu mà đúng không?”.

Quyết định nằm trong tay tôi. Tất cả đều do tôi. Tôi đang sợ hay chỉ đang mệt mỏi?

Dù sao đi nữa, tôi đã yêu một người đàn ông có tầm nhìn, một người lạc quan nhưng không mơ mộng hão huyền, không khuất phục trước xung đột và hiếu kỳ với sự phức tạp của thế giới. Thật lạ lùng là anh hoàn toàn không chùn bước trước biết bao nhiêu công việc cần thực hiện. Anh nói anh sợ khi nghĩ đến việc phải rời xa tôi và bọn trẻ dài ngày, nhưng anh cũng luôn nhắc nhở tôi về tình cảm vững bền của chúng tôi. “Chúng ta có thể xử lý được chuyện này phải không nào?”, anh vừa nói vừa nắm lấy tay tôi vào một đêm nọ, khi chúng tôi ngồi ở phòng làm việc của anh trên lầu và cuối cùng cũng thật sự nói về chuyện này. “Chúng ta mạnh mẽ và thông minh, và các con của chúng ta cũng thế. Chúng ta sẽ ổn thôi. Chúng ta có đủ khả năng cho kế hoạch này.”

Đúng vậy, ý anh ấy là chiến dịch tranh cử sẽ có giá của nó. Có những thứ chúng tôi sẽ phải từ bỏ - thời gian, những lúc ở bên cạnh nhau, sự riêng tư. Hãy còn quá sớm để dự đoán chính xác những yêu cầu mà chúng tôi phải đáp ứng, nhưng chắc chắn sẽ là rất nhiều. Với tôi, chuyện đó giống như xài tiền mà không biết số dư trong tài khoản ngân hàng là bao nhiêu. Chúng tôi có thể kiên cường đến mức nào? Giới hạn của chúng tôi ở đâu? Cuối cùng chúng tôi sẽ còn lại những gì? Chỉ riêng sự bất định đó đã tựa như một mối họa, một thứ có thể nhấn chìm chúng tôi. Suy cho cùng thì tôi đã được nuôi dạy trong một gia đình tin vào hiệu quả của việc lo xa - một gia đình tập dợt phòng cháy chữa cháy tại nhà và đến sớm trong mọi cuộc hẹn. Lớn lên giữa cộng đồng lao động bình dân và có một người cha đau yếu, tôi đã học được rằng lên kế hoạch và thận trọng đề phòng là hết sức quan trọng. Nó có thể tạo ra sự khác biệt giữa ổn định và nghèo khó. Ranh giới lúc nào cũng mong manh. Chậm thanh toán một hóa đơn có thể khiến bạn sống mà không có điện để dùng; quên hoàn thành một bài tập có thể khiến bạn bị tụt lại phía sau và thậm chí là không thể vào đại học.

Từng có một người bạn học cùng lớp năm thiệt mạng trong một trận hỏa hoạn, từng chứng kiến Suzanne qua đời khi còn rất trẻ, tôi nhận ra thế giới có thể rất tàn khốc và khó đoán, và có công mài sắt không phải lúc nào cũng có ngày nên kim. Cảm nhận của tôi về chuyện này sẽ càng lớn hơn trong tương lai, nhưng ngay từ lúc này, khi ngồi trong ngôi nhà gạch yên tĩnh trên con phố yên tĩnh, tôi không thể tránh được ý muốn bảo vệ những gì chúng tôi có - muốn tập trung chăm sóc hai đứa con và gạt những chuyện khác sang một bên, chí ít là đến khi chúng lớn hơn một chút.

Thế nhưng vẫn còn mặt trái của vấn đề, và cả Barack lẫn tôi đều biết quá rõ đó là gì. Chúng tôi đã chứng kiến sự tàn khốc của cơn bão Katrina từ vị trí may mắn không bị ảnh hưởng của mình. Chúng tôi đã thấy những người cha người mẹ bế con mình khỏi dòng nước lũ và những gia đình người Mỹ gốc Phi phải tìm cách cưu mang lấy nhau giữa tình trạng vô nhân đạo tại nơi lánh nạn. Những công việc trước đây của tôi - từ công việc ở tòa thị chính cho đến Public Allies và trường đại học - đã giúp tôi thấy được rằng đối với một số người, đảm bảo chế độ chăm sóc sức khỏe cơ bản và nơi cư trú cơ bản là việc khó khăn đến dường nào. Tôi đã thấy lằn ranh mong manh giữa “vừa đủ sống” và “thiếu hụt”. Về phần mình, Barack đã dành nhiều thời gian lắng nghe những công nhân bị sa thải, những cựu binh trẻ tìm cách xoay xở để sống với thương tật vĩnh viễn, những người mẹ chán nản với chuyện phải cho các con của mình học ở những ngôi trường chất lượng kém. Nói cách khác, chúng tôi hiểu mình đang may mắn đến dường nào, và cả hai chúng tôi đều cảm thấy mình có trách nhiệm không được tự mãn.

Biết mình thật sự không còn lựa chọn nào khác ngoài chuyện cân nhắc khả năng ứng cử của Barack, cuối cùng tôi đã bật đèn xanh và chấp nhận chuyện này. Barack và tôi bàn bạc vấn đề này, không chỉ một mà là nhiều lần, ngay cả trước và xuyên suốt chuyến đi Hawaii thăm bà Toot vào dịp Giáng sinh. Chúng tôi có vài cuộc trò chuyện đầy tức giận và đẫm nước mắt, vài cuộc trò chuyện khác thì chân thành và tích cực. Đó chính là phần mở rộng của cuộc đối thoại chúng tôi nói với nhau suốt mười bảy năm qua. Chúng tôi là ai? Điều gì là quan trọng đối với chúng tôi? Chúng tôi có thể làm được gì?

Cuối cùng, kết quả là thế này: tôi đồng ý vì tin rằng Barack có thể trở thành một tổng thống tuyệt vời. Anh ấy tự tin theo những cách mà ít ai có được. Anh có trí tuệ và tinh thần kỷ luật để hoàn thành vai trò đó, có khí chất để chịu đựng mọi gian khó mà công việc đó mang lại, và có sự đồng cảm hiếm thấy để có thể luôn lắng nghe những nhu cầu của đất nước. Anh còn có những con người tốt bụng và thông minh sẵn lòng giúp đỡ. Tôi là ai mà lại cản trở anh? Làm sao tôi có thể đặt nhu cầu của mình, thậm chí nhu cầu của hai đứa con gái của chúng tôi, lên trước khả năng Barack có thể trở thành một vị tổng thống có khả năng mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho hàng triệu người?

Tôi đồng ý vì tôi yêu anh và có niềm tin vào những gì anh có thể làm được.

Tôi đồng ý, dù lúc đó trong tôi vẫn có một suy nghĩ đáng buồn, một ý nghĩ mà tôi chưa sẵn lòng chia sẻ: tôi hỗ trợ anh vận động tranh cử, nhưng tôi cũng cảm thấy chắc chắn rằng anh sẽ không thành công. Anh thường xuyên nói đến việc xóa bỏ sự chia rẽ đang diễn ra trong đất nước của chúng tôi và tràn đầy nhiệt huyết với chuyện này, khơi gợi những lý tưởng cao đẹp hơn, những điều mà anh tin rằng bẩm sinh hầu như ai cũng có. Nhưng tôi đã chứng kiến quá nhiều sự chia rẽ đến mức phải dập tắt những hy vọng của bản thân. Suy cho cùng, Barack là một người da đen ở Mỹ. Tôi thật sự không nghĩ là anh có thể chiến thắng cuộc tranh cử này.


(1) Burrito: món gà trộn các loại rau củ và nước xốt theo phong cách Mexico.