N
hớ một chiều cuối năm, trên chuyến đò dọc từ Huế về quê ăn Tết, ngồi cạnh tôi là một người đàn ông chừng trên dưới lục tuần. Đò vừa nổ máy rời bến Đông Ba, tôi bắt chuyện làm quen với ông: “Bác về mô, làng Kế Môn hay làng Đại Lược?” “Tui về Đại Lược, cũng là quê của tui đó!” Sau câu nói này, ông bỗng trở nên gần gũi với tôi và câu chuyện giữa tôi với người đồng hương mới quen đã bắt đầu rồi say sưa dần khi đò rời bến...
Quê ông cũng là quê tôi, làng Đại Lược bên sông Ô Lâu. Nhưng ông cùng gia đình đã rời làng vô miền Nam sinh sống từ cuối thập niên sáu mươi khi mà tôi còn chưa ra đời. Xa quê từ nhỏ, nên giọng nói của ông gần như là giọng Nam Bộ, chỉ sót lại đôi ba từ là của miền Trung.
Chiến tranh bom rơi đạn nổ với bao mất mát; rồi hòa bình và những cuộc mưu sinh cơm áo nhọc nhằn đã làm cho gia đình ông ngày càng xa dần, xa dần cố hương cả về mặt địa lý và tình cảm. Cũng may là những cái Tết ấu thơ yên ả vui vầy vẫn còn trong ký ức của ông, dù thời gian đã qua mấy chục năm rồi...
Ông kể: “Hồi đó, bom đạn liên miên, xóm làng tiêu điều, xơ xác lắm! Người làng thì ly tán đây đó khắp nơi; nên những ngày Tết cổ truyền khi mô cũng đặc biệt cả. Đó là thời gian và không gian để những người xa quê trở về nhà, hướng về tổ tiên, ông bà. Tui vẫn còn nhớ tiếng pháo nổ đón giao thừa chen lẫn tiếng súng và ánh hỏa châu của mấy anh lính bắn lên trời chào năm mới. Ngày Tết là những ngày bình yên không có tiếng súng giao tranh bên này bên kia và mọi người có thể thoải mái đi trên đường làng đon đả chào nhau, chúc nhau và đến từng nhà thăm nhau...
Tui vẫn còn nhớ cái bánh in làm bằng bột củ bình tinh, bóc lớp giấy ra là phải đổ thẳng vô miệng ăn liền, ngọt và thơm lắm; chỉ có điều khi ăn thì không được nói, được cười chi cả, không thì sặc chết bà nội à! Tui nhớ quê mình có cái bánh bài, là thứ bánh làm bằng bột nếp trộn với đường đen; được đúc ra từ chiếc khuôn hình chữ nhật bằng gỗ to như lá bài tây, ăn một cái thôi là no cả ngày; rồi cái món da trâu khô rang với cát cho vàng lên rồi đem xào với giá đậu xanh không thể thiếu trong mâm cỗ tất niên ăn giòn giòn, béo béo mà từ ngày xa quê chừ tui không còn được ăn nữa…
Tui nhớ sáng mồng một Tết mô ba tui cũng dắt mấy anh em tui lên chùa lễ Phật rồi lên nhà thờ của dòng tộc thắp hương tổ tiên… Rồi tối mồng ba Tết có chương trình ca vũ nhạc của mấy anh chị trong làng. Mấy chị múa theo điệu nhạc vui tươi của bài hát chi có câu: ‘Xuân đã đến rồi - Gieo rắc ngàn hồn hoa xuống đời - Vui trong bình minh - Muôn loài chim hát vang mọi nơi...’ hay thiệt là hay, không thể nào quên được nghe! Mà tui là người lạc quê từ nhỏ mà sao vẫn nhớ hoài ngày Tết cũ ở làng mình?”
Ông đúng là người lạc quê đang tìm được lối về trong chiều cuối năm se se gió lạnh. Trời ngả sang chiều. Con đò chạy chầm chậm trên con phá Tam Giang kéo ông về với bao nhiêu kỷ niệm đã đánh rơi đâu đó qua bao tháng năm phiêu bạt nơi đất khách, quê người...
Hai cụ thân sinh của ông quy tiên cũng đã mấy năm rồi. Ở quê cũ, ông chỉ còn mỗi một ông chú họ mà chừ cũng đã già lắm. Ông hỏi tôi về những cảnh cũ, người xưa của quê nhà Đại Lược. Cảnh cũ thì vẫn còn đó như cây vông đồng to đứng giữa làng, quả chuông chùa làng bị sứt một miếng vì dính một mảnh bom bay lạc trong một trận Tây càn hay ngôi chợ Đại Lược với những trò vui ngày Tết từ đánh bài tới đến chơi bầu cua cá... Còn những người cũ mà ông từng quen biết khi ông còn bé ở làng, lúc đó tôi vẫn chưa ra đời nên cũng chỉ biết lơ mơ một vài người qua lời kể của ba mạ mà thôi…
Đò cập bến sông quê. Ông chậm rãi, run run từng bước trên mạn đò rồi từ từ đặt chân xuống bến. Ông đứng thật lâu trên bến sông, mắt nhìn yêu thương về phía làng. Đôi mắt của một người bôn ba, từng trải và lạc quê mấy chục năm thật lạ, nó chợt sáng long lanh như mắt trẻ thơ rồi cũng chợt u buồn thăm thẳm...
Chuyện đó cách đây cũng đã gần hai chục năm rồi. Nhưng cứ mỗi lần về quê, đi ngang qua chỗ bến đò năm cũ, tôi lại nhớ hình ảnh người đàn ông dạn dày sương gió, tóc đã bạc trắng gần hết mái đầu đứng trên bến sông chiều cuối năm mưa bụi mà nhìn đăm đăm, thao thiết về phía làng…