T
ồn tại gần nửa thế kỷ qua, lầu may ở chợ Đông Ba cứ như một nốt trầm lặng lẽ giữa huyên náo của khu chợ lớn nhất Huế. Lối cầu thang nhỏ và tối dẫn lên lầu may, những bức tường loang lổ, ẩm mốc và cả những bàn máy khâu với âm thanh “tạch, tạch, tạch...” đều đặn, cần mẫn của những thợ may ở chợ cứ gợi cho mỗi ai đến đây về sự cũ kỹ, xa vắng…
O Tằm được bà con lầu may bầu là lầu trưởng của lầu may này. O trước đây là nữ sinh của trường Đồng Khánh - Huế. Học hết phổ thông thì Huế giải phóng. O không học tiếp mà lấy chồng và kiếm một công việc để mưu sinh. Nhờ vào những kiến thức nữ công gia chánh trong nhà trường, o Tằm đã đến với lầu may ở chợ Đông Ba này. Rứa mà cũng đã hơn 40 năm... O Tằm nói: “May ở chợ không được đẹp như ở tiệm nhưng được cái là việc chi cũng làm hết, từ may đồ tây, áo dài đến sửa áo, sửa quần, đơm nút, cắt lai nên cũng có nhiều khách hàng… Ngày qua ngày cũng đủ tiền để nuôi con cái trưởng thành!” O Tằm còn kể thêm là chồng o đã mất 20 năm rồi, một mình o với cái bàn máy may ở chợ mà nuôi ba đứa con tốt nghiệp đại học và chừ đã yên bề gia thất. Mấy đứa con cuộc sống đã ổn định cả, cứ nói mẹ nghỉ ngơi đừng đi may nữa để tụi con lo cho mẹ, nhưng đã quen với không khí lầu may ni rồi nên xa một ngày là o đã thấy nhớ nơi chốn thân thương này…
Anh chồng tên là Đen, chị vợ tên là Tiểu Bích. Hai người quen nhau ở lầu may mà nên gia thất. Bây chừ họ đã có bốn mặt con. Hai đứa lớn đi học. Hai đứa nhỏ, một đứa mới lên ba, một đứa còn nằm nôi, nên anh chị đưa luôn lên lầu may để vừa làm việc vừa chăm con, tiện cả đôi bề. Chị Bích nói: “Hai cái máy may nuôi sáu miệng ăn, lại còn tiền học hành của con cái nữa. Thôi thì đưa con lên lầu may cùng ba mẹ luôn đỡ tháng cũng hơn triệu bạc lại tiện lợi nhiều thứ…”
Mỗi người mỗi lô riêng với giá thuê 60.000 đồng/tháng; việc của ai người nấy làm, khách của ai nấy quen. Nhưng như lời của o Tằm, “Hồi trước lầu may ni lên đến 80 người. Qua thời gian có người già nên nghỉ, có người đã mất nên lầu may chỉ còn gần 50 người. Bà con đều coi đây là ngôi nhà thứ hai của mình. Ai có hàng nhiều thì san sẻ cho người không có hàng. O may ở đây hơn 40 năm rồi vẫn chưa thấy ai giàu lên từ cái máy may ở chợ; nhưng cũng chưa bao giờ thấy ai to tiếng, tranh giành với nhau cả!”
Có gần 50 thợ may nhiều lứa tuổi đang mưu sinh hằng ngày ở lầu may này. Có người đã bước vào tuổi 85 như bác Chúc, bác Thể. Gần như cả đời của họ gắn bó với lầu may. Bác Chúc kể rằng từ năm 14 tuổi đã ngồi may ở chợ Đông Ba. Hồi những năm năm mươi của thế kỷ trước, bác may ở tầng trệt. Sau này, chợ xây thêm lầu và từ đó đến nay bác trở thành người thợ già nhất, ngồi may lâu năm nhất ở đây. Bác Chúc là thợ may áo địa (trang phục áo dài mà đàn ông mặc trong những dịp lễ tết, cưới hỏi). Khách hàng ở khắp nơi biết tiếng bác đều đến đây đặt may. Hồi trước nghề may áo địa khá thịnh hành, sau này khách ngày càng thưa dần. Có những người đến tận lầu may để bác Chúc đo, cắt may trực tiếp. Nhưng cũng có những lúc, mấy tiệm may nổi tiếng ở Huế như Mỹ Lệ, Tân Hiệp có khách hàng đặt may loại áo này thường chuyển giao cho bác Chúc may gia công.
Bác Chúc nói rằng: “Đã qua tuổi bát thập, hơn 60 năm làm nghề rồi mà mắt vẫn sáng, lưng vẫn thẳng để ngồi may là trời cho sức khỏe. Tui ngồi đây ngày kiếm vài chục ngàn khỏi phải phiền con cái lo lắng lại có được niềm vui từ nghề… Đặc biệt, cái nghề may áo địa của tui cũng là góp phần giữ một nét văn hóa truyền thống của người Việt mình!”
Từ câu chuyện may áo địa của bác Chúc, tôi lại nhớ đến câu chuyện của một cụ già đáng kính hỏi tôi rằng tại sao trong những dịp lễ tết, thanh niên Việt Nam không mặc áo dài truyền thống? Tôi chưa thấy bè bạn cùng trang lứa với mình mặc áo dài đen khăn đóng bao giờ. Nhưng cỡ cái tuổi U50 rồi thì chắc có đứa lên chức ông nội, ông ngoại nên cũng đã mặc áo dài khăn đóng. Ngót nghét ngũ tuần, cái tuổi “tri thiên mệnh” nghĩa là bắt đầu có vai có vế trong họ, trong làng rồi đó, đi đứng nói năng phải dè xửng hơn, cách ăn mặc cũng phải chỉnh tề hơn.
Ở quê mà mặc vô bộ áo dài đen, quần trắng với thêm cái khăn đóng trên đầu nữa khi đi chạp, đi kỵ hay lễ lượt hiếu hỷ thì ra dáng hẳn. Tất nhiên là sẽ được ngồi mâm trên, được thưa trình và khi đã có vai có vế rồi thì ăn nói phải từ tốn và uống bia hay rượu thì không được say sưa nữa. Hay có lỡ mê ca mấy bài bolero thì thôi nén lại cảm xúc chút xíu, chứ cầm micro đứng giữa hôn trường mà ca nữa thì hơi kỳ kỳ...
Đó là chuyện giữa làng. Còn tại gia thì những người chưa già lắm mà có bộ đồ truyền thống thường là những người chủ gia đình. Tôi nhớ hồi trước ba tôi mỗi khi nhà có kỵ, khi cúng quảy thường mặc chiếc áo lam đi chùa. Sau này có cháu nội, ông mới sắm áo đen, khăn đóng...
Tôi là con trai trưởng, là cháu đích tôn nhưng lớn lên đi học rồi xa làng. Mọi chuyện gia tiên, họ làng đều do thằng em trai út đảm nhận. Mỗi khi nhà có cúng kỵ, tôi cũng lúng túng, lại vụng về nên thằng em hay nói tôi là “xớt xớt”. Nói thì nói rứa chứ vài năm nữa cũng sắm bộ đồ “dân tộc phục” để về làng. Biết đâu khi khoác bộ áo địa, tôi sẽ tự nhiên mà lớp lang hơn nhiều... Viết đôi dòng về bộ áo dài truyền thống của đàn ông Việt Nam trong nghi lễ, phong tục của người Việt cũng là tự nhắc nhở mình nhớ về những nét đẹp truyền thống từ bao đời nay như niềm tự hào của người thợ già may áo địa chợ Đông Ba hay cụ già đáng kính ở làng...