• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Bí ẩn của não phải
  3. Trang 8

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • 9
  • More pages
  • 16
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • 9
  • More pages
  • 16
  • Sau

Chương 2Phát huy năng lực tưởng tượng

1. Khả năng trực giác bắt nguồn từ hình ảnh

Bây giờ chắc các bạn cũng đã quen với sự thật là “bán cầu não trái là não của ngôn ngữ và bán cầu não phải là não của hình ảnh”. Chúng ta đều biết rằng bán cầu não phải vận hành được nhờ các hình ảnh. Nhưng những hình ảnh đó hoạt động như thế nào? Sự thật là chính các hình ảnh này tạo ra cảm giác cho con người. Người ta cũng có thể nói rằng những hình ảnh đó là tiến trình tư duy thông qua các giác quan. Hình ảnh là cây cầu trung gian kết nối nhận thức, cảm xúc với cơ thể con người. Sự tưởng tượng (tức là khả năng tạo ra hình ảnh) có ảnh hưởng lớn tới cơ thể chúng ta theo nhiều cấp độ khác nhau. Trong thể thao, người ta thấy rằng sự dẻo dai trong cơ bắp, huyết áp và sóng não của các vận động viên chuyên nghiệp có sự thay đổi tích cực rõ rệt khi họ được thực hành thêm các bài tập về tưởng tượng và các bài tập rèn luyện tinh thần.

Ngôn ngữ vốn thuộc về não trái chỉ có ảnh hưởng nhỏ tới cơ thể. Trong khi đó, hình ảnh lại có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các tế bào, các mô, các cơ quan trong cơ thể và kích thích sự thay đổi của toàn bộ cơ thể. Lý do là vì hình ảnh đã sử dụng một mạch thần kinh riêng biệt, khác với mạch thần kinh liên quan tới ngôn ngữ.

Trong khi mạch thần kinh truyền tải ngôn ngữ chỉ có thể tác động lên tầng ý thức bề nổi thì kênh thông tin hình ảnh lại tác động mạnh mẽ đến những tầng sâu bên dưới tầng ý thức hay còn gọi là tiềm thức của con người. Nếu như phần ý thức chỉ gây ảnh hưởng không đáng kể lên cơ thể con người thì phần tiềm thức lại có khả năng làm chuyển hóa toàn bộ cơ thể nhờ hiện thực hóa ý nghĩ của con người. Hoạt động tưởng tượng của não phải giúp phát huy được sức mạnh của tiềm thức bên trong con người một cách hiệu quả.

2. Hình ảnh hoạt động như thế nào?

Cũng như ngôn ngữ, hình ảnh là phương tiện để truyền tải thông tin.

Ngôn ngữ đóng vai trò là kênh giao tiếp của não trái trong khi hình ảnh là kênh thông tin của não phải.

Ở đây, chúng ta cần phải hiểu được sự vận hành của các hình ảnh trong não phải. Nếu như não trái sản sinh ra ngôn ngữ thì não phải lại có khả năng tạo ra hình ảnh. Các hình ảnh này đều sinh động và sắc nét, tuy nhiên, khi ở trạng thái ý thức thông thường, não trái luôn chiếm ưu thế hoạt động nên những hình ảnh đó khó có thể nhìn thấy được.

Con người có hai dạng ý thức: ý thức bị chi phối bởi não trái và ý thức bị chi phối bởi não phải. Khi con người ở trong trạng thái ý thức thông thường, não trái luôn chiếm ưu thế kiểm soát. Tuy nhiên, thông qua những hoạt động như thiền tập, hít thở sâu, chúng ta có thể thâm nhập vào vùng ý thức của não phải, và khi đó, các hình ảnh sẽ hiện ra rõ nét.

Trong bán cầu não phải luôn có những hình ảnh chuyển động không ngừng. Những người thường xuyên sử dụng phần ý thức của não phải có thể nhìn thấy những hình ảnh này rất rõ ràng bất cứ khi nào họ muốn và biến chúng thành hiện thực. Chính vì vậy, khi não phải được kích hoạt sau một quá trình rèn luyện, họ có thể đạt tới những khả năng đáng kinh ngạc.

Những năng lực này xuất phát từ vùng câm (thùy trán) của não phải và có thể được kích hoạt bằng cách luyện tập. Theo khoa học giải phẫu thần kinh, vùng dưới đồi não, hay còn gọi là trung tâm của hệ thần kinh thực vật, được kết nối với thùy trán thông qua nhân lưng bên đồi thị. Thùy trán tác động đến hệ viền và vùng dưới đồi não (vốn đóng vai trò cốt yếu trong hoạt động cảm xúc) thông qua nội tiết tố. Và nội tiết tố lại được kích hoạt nhờ sóng não. Khi tần số sóng não ở mức dưới 10 Hz, các nội tiết tố (kích thích phần ý thức của não phải) tiết ra, cho phép chúng ta nhìn thấy các hình ảnh. Bởi vậy, ý thức của não phải điều khiển thông tin dạng hình ảnh không nhờ xung điện mà bằng nội tiết tố. Lúc này, tất cả những suy nghĩ, tinh thần, cảm xúc và trạng thái sinh lý học của con người đều được chuyển thành hình ảnh. Chúng nằm dưới sự điều khiển của phần ý thức não phải.

Quá trình rèn luyện não phải bắt đầu từ các bài tập thiền. Thiền tập giúp con người vượt qua vùng ý thức thông thường để tiếp cận vùng ý thức đặc biệt hơn – vùng ý thức của não phải.

Dưới đây là các bước để rèn luyện năng lực tưởng tượng của não phải:

1. Thiền (nhắm mắt, thả lỏng cơ thể trong thời gian một phút)

2. Hít thở sâu (hít thở chậm rãi bằng bụng ba lần)

3. Gợi ý tích cực (dùng ngôn từ tích cực để dẫn dắt người tập)

4. Tưởng tượng (hình dung sống động về điều sẽ xảy ra trong tương lai)

Bằng các bước trên, chúng ta có thể hiện thực hóa những hình ảnh tưởng tượng được như hình dung bệnh tật được chữa lành và cơ thể đang dần hồi phục. Năng lực tưởng tượng của não phải không bị giới hạn và nhờ có năng lực này, con người có thể chạm đến nguồn năng lượng trong vũ trụ. Bởi vậy, tầm ảnh hưởng của năng lực tưởng tượng không chỉ đối với người trực tiếp thực hiện hoạt động tưởng tượng, mà còn có khả năng tác động đến những người xung quanh. Năng lực này không những được dùng để chữa bệnh mà còn có thể giúp người tập đạt được thành tích cao trong các hoạt động thể thao và nghệ thuật. Một đứa trẻ thường xuyên về cuối cùng trong các cuộc thi điền kinh có thể bất ngờ vươn lên vị trí dẫn đầu chỉ bằng việc tưởng tượng hình ảnh sống động của bản thân đang chạy về nhất.

Khả năng này được kích hoạt thông qua việc kích thích “vùng câm” của não phải, một vùng não với nhiều chức năng bí ẩn chưa từng được biết đến trước đây. Nếu như với người lớn, hoạt động tưởng tượng rất khó thực hiện thì với trẻ em, việc này lại rất dễ dàng. Các em học được cách sử dụng và thao tác hình ảnh khá đơn giản vì ở lứa tuổi càng nhỏ, não phải càng chiếm ưu thế. Phát hiện này đã làm thay đổi hoàn toàn nhận thức về khả năng tiềm ẩn của con người và qua đó thay đổi quan niệm của chúng ta về giáo dục.

Trước tiên, chúng ta hãy xem việc đánh thức khả năng tưởng tượng của não phải có thể thay đổi khả năng học hỏi của trẻ như thế nào. Dưới đây là báo cáo của Kana Ohira, một giáo viên phụ trách lớp học Kasuga của Viện Giáo dục Trẻ em Shichida ở Kyushu. Báo cáo này trình bày những thay đổi đáng kinh ngạc của các học sinh nhờ hoạt động tưởng tượng.

3. Những đứa trẻ hiếu động đã cải thiện được khả năng tập trung

Tôi đã áp dụng cho học sinh trong lớp phương pháp tưởng tượng tôi được học trong khóa đào tạo dành cho giáo viên. A học cùng lớp với các bé trong độ tuổi từ năm đến sáu tuổi. Cậu bé không có khả năng tập trung, thường ra khỏi chỗ vào giữa giờ học để đi vệ sinh hoặc ra khỏi lớp vì lý do khát nước. Không chỉ riêng cậu bé mà các bé khác trong lớp cũng rất hiếu động. Tuy nhiên, A có tiềm năng rất lớn và thể hiện khả năng ghi nhớ tốt. Cậu bé có thể nhớ được các bài thơ hoặc những thứ mà cậu thích ngay lập tức. Thế nhưng tâm trạng của cậu lại rất thất thường và tôi đã thử khá nhiều cách để giúp cậu thư giãn và hào hứng với bài học.

Trước khi hoạt động tưởng tượng được thực hiện thành công, tôi đã từng băn khoăn tự hỏi liệu có cách nào để trong một giờ học năm mươi lăm phút, tôi có thể giúp cả lớp tập trung vào bài học dù chỉ là trong vài phút không. Và rồi tôi quyết định sẽ thử bài tập tưởng tượng “Cây gậy” mà tôi đã được học.

014

Tôi gõ nhẹ vào từng học sinh và nói: “Con là một cây gậy”, khuyến khích các bé căng cứng người lên giống như một cây gậy thật. Sau đó tôi bảo rằng mẹ chúng sẽ nhặt những cây gậy đó lên và mang đi. Những đứa trẻ căng cứng cơ thể lên và khi đó, rất dễ dàng nhấc chúng lên như nhấc một mảnh gỗ thật.

015

Từ hôm đó trở đi, mỗi khi tôi bước vào lớp, A đều chạy theo và nói: “Hôm nay con muốn tưởng tượng làm cây gậy nữa”. Bây giờ A đã học được cách thư giãn và điềm tĩnh hơn, cậu bé cứ như biến thành một con người khác vậy. Cậu tham gia các hoạt động rất hào hứng, không hề tỏ ra chán nản hay hiếu động quá mức. Trước đây A thường hay bồn chồn và ngọ nguậy mỗi khi đến hoạt động tráo thẻ, nhưng bây giờ cậu bé rất chăm chú xem thẻ với ý thức hoàn toàn khác. Cậu thường hào hứng rủ mẹ làm các phép tính cộng. Toán học đã trở thành một trong những môn học cậu thích nhất.

Tất nhiên, trước đây A vốn đã có những khả năng này nhưng chúng chưa có cơ hội được bộc lộ. Giờ đây cậu đang thể hiện những tiến bộ vượt bậc và đặc biệt trong hoạt động kể chuyện, cậu luôn là người đứng đầu lớp.

Thế nhưng, người thay đổi nhiều nhất lại là mẹ của cậu bé. Có lẽ vì bà đã có những trải nghiệm thực sự về hiệu quả mà phương pháp Shichida mang lại nên bà rất tin tưởng các giáo viên. Nhờ đó, chúng tôi đã biến giờ học trở thành mối liên kết tương tác ba bên rất tốt đẹp.

Lũ trẻ rất thích được làm bài tập tưởng tượng tái hiện những trải nghiệm về khoảng thời gian khi còn nằm trong bụng mẹ. Các bé liên tục muốn tôi cho chơi lại hoạt động này. Ngay cả những bé trai hiếu động nhất cũng trông giống hệt một thai nhi chưa chào đời khi các bé nằm cuộn tròn lại trong tư thế của một bào thai. Điều đó khiến tôi phải tự hỏi không biết lũ trẻ đã nhìn thấy hình ảnh đó ở đâu. Tiếp đến các bà mẹ nói chuyện với chúng nhẹ nhàng và khích lệ rằng con sẽ chào đời thật khỏe mạnh, thế rồi những đứa trẻ cựa mình, mở to đôi mắt sáng lấp lánh cứ như thể chúng thực sự vừa mới chào đời.

Sau đó, tôi nói với bọn trẻ: “Cô sẽ đếm đến năm và các con sẽ đều lại là các bé nhỏ năm tuổi nhé”, tất cả đều ngoan ngoãn quay trở lại bàn học với một vẻ mặt hết sức dễ thương. Khi những đứa trẻ được trở lại trong bụng mẹ thông qua bài tập tưởng tượng, chúng sẽ hồi tưởng lại thời khắc chào đời đáng nhớ đó và tôi tin rằng tình mẫu tử thiêng liêng giữa mẹ và con sẽ ngày càng bền chặt.

Các kết quả đánh giá năng lực trí tuệ sau đó đã cho thấy tất cả các em học sinh này đều nằm trong số bảy phần trăm học sinh thuộc tốp đầu, điều đó một lần nữa cho thấy hoạt động tưởng tượng mang lại hiệu quả tốt đẹp như thế nào.

4. Hoạt động tưởng tượng giúp nâng cao khả năng văn học và nghệ thuật

Những đứa trẻ được hướng dẫn khai mở khả năng của não phải thông qua hoạt động tưởng tượng đều sáng tác nên các tác phẩm nghệ thuật rất tinh tế khi chúng vẽ hoặc viết lại những điều đã nhìn thấy.

Tiến sĩ Vladimir Raikov thuộc Trung tâm Nghiên cứu Y tế dự phòng Quốc gia tại Moscow đã tiến hành nghiên cứu về tác động của việc kích thích vùng não chưa phát triển bằng thuật thôi miên. Ông thử nghiệm bằng cách nói với người tham gia rằng họ là Van Gogh và có khả năng sáng tác những bức họa tuyệt đẹp. Sau đó, ông yêu cầu họ hãy vẽ một bức tranh. Ban đầu, những tác phẩm của họ còn khá sơ sài nhưng đến buổi thứ mười, trình độ vẽ tranh của họ đã tương đương với các họa sĩ chuyên nghiệp.

Đó cũng là cách mà Katia Gortbeeva, một nhân viên kỹ thuật phim ảnh hai mươi bảy tuổi ở Liên Xô (cũ) đã áp dụng để trở thành một họa sĩ hàng đầu. Tiến sĩ Raikov nói với cô “Bạn chính là Rembrandt”, và yêu cầu cô vẽ lại bức tranh “Người gác đêm”. Ở lần thử thứ mười, cô đã vẽ được một bản sao hoàn hảo. Tiến sĩ Raikov được biết đến là người đã đào tạo thành công khoảng bốn trăm họa sĩ, nhà vô địch thể thao, nhà sáng chế và nhà thiết kế theo cách thức này.

Dưới đây là bản báo cáo từ một giáo viên tiểu học kể về những câu chuyện mà các học sinh của cô đã sáng tạo ra thông qua hoạt động tưởng tượng.

5. Sáng tạo những câu chuyện giàu hình ảnh

Tôi bắt đầu dạy lớp Hai vào tháng Tư và bây giờ tôi đang bắt đầu thực hiện luyện tập hoạt động tưởng tượng cho lũ trẻ. Tôi dành năm đến mười phút mỗi sáng để dẫn dắt các em bước vào bài tập thiền và yêu cầu các em kể lại cho tôi nghe những gì đã nhìn thấy hoặc cảm thấy. Khoảng hai tuần sau, đã có ba mươi sáu trong tổng số ba mươi tám em bắt đầu nhìn thấy những hình ảnh rõ nét chuyển động. Sau đó, hai em còn lại thỉnh thoảng cũng nhìn thấy được những hình ảnh như vậy. Khi đã đạt được những kết quả rõ rệt, tôi lập tức để chúng sử dụng những hình ảnh đó trong giờ học ngôn ngữ, thông qua hoạt động kể chuyện.

Tôi đã sử dụng các học liệu dạy ngôn ngữ cho lớp Hai có tên là “Tôi kể chuyện” (Hikarimura). Tôi giúp các em thỏa sức sáng tạo những câu chuyện của riêng chúng. Mặc dù những bức tranh trong sách giáo khoa là cơ sở cho chúng tưởng tượng nên những hình ảnh và nội dung câu chuyện, nhưng trong đầu chúng còn hiện ra các hình ảnh chuyển động và cả những thay đổi của cảnh vật xung quanh mà sách không hề mô tả. Từ các hình ảnh có được, các em bắt đầu viết thành những câu chuyện. Câu chuyện các em viết rất tươi sáng, đầy hy vọng, thể hiện tình cảm yêu thương của các em dành cho thiên nhiên và con người. Các em thường miêu tả cảnh biển cả, núi non, sông ngòi, những cánh đồng, khu rừng, hoặc cảnh đi tìm kho báu và chia sẻ kho báu đó với mọi người.

Một giáo viên đến dự giờ lớp học của tôi nhận xét: “Đã đến lúc chúng ta cần đưa hoạt động tưởng tượng vào các giờ học khác trong trường. Điều này sẽ giúp chấm dứt việc lớp học bị phân tán thành các nhóm riêng rẽ vì các em luôn biết thấu hiểu người khác bằng cả trái tim”.

Tôi xin chia sẻ thêm về một trải nghiệm nữa của mình. Tôi dạy một em học sinh bị hội chứng sợ nước. Cậu bé đó rất sợ bể bơi và tôi đã hướng dẫn cậu thường xuyên hình dung trong đầu hình ảnh cậu đi đến bể bơi và bơi rất hào hứng. Từ đó trở đi, cậu bé không những dám bước xuống bể bơi mà còn bắt đầu học bơi trước sự kinh ngạc và vui mừng của bố mẹ cậu.

Tôi cũng giúp một số học sinh có văn phong nghèo nàn cải thiện khả năng diễn đạt của mình bằng cách dẫn dắt các em tưởng tượng hình ảnh mình đang viết văn rất trôi chảy, súc tích trước khi đặt bút viết thực sự. Kết quả là kỹ năng viết văn đã được cải thiện rõ rệt cứ như thể các em đã biến thành những đứa trẻ hoàn toàn khác.

Tôi mong rằng tất cả các giáo viên tiểu học đều có thể áp dụng được hoạt động tưởng tượng này trong lớp học. Nó vun đắp và làm phong phú thêm tâm hồn của trẻ, biến lớp học thành một môi trường tích cực nuôi dưỡng tài năng của các em.

6. Não trái kìm hãm chức năng của não phải

Sự vận hành của não trái chính là yếu tố cản trở những năng lực tiềm tàng của não phải.

Những kích thích từ môi trường bên ngoài thường được tiếp nhận bằng năm cơ quan cảm giác: mắt, tai, mũi, miệng và da, và thông tin từ các giác quan này sẽ được dẫn truyền đến não trái. Tuy nhiên, nếu chỉ tiếp nhận các kích thích đầu vào bằng não trái thì chỉ có não trái mới được kích hoạt để xử lý thông tin và đưa ra kết quả. Để kích hoạt được não phải, cần phải tạm gác lại các hoạt động thiên về não trái để xây dựng một kênh dẫn truyền khác đến não phải.

Việc tiếp thu các tác nhân kích thích đến não phải đòi hỏi quá trình tác động vào thùy trán, hay còn gọi là “vùng câm” - phần não vốn chưa được các nhà khoa học tìm hiểu đầy đủ và chính xác về chúng. Hình thái thông tin mà não phải tiếp nhận khác với hình thái thông tin tiếp nhận thông qua não trái. Não phải nhận thông tin dưới dạng chuyển động sóng thông qua các tế bào và hoạt động độc lập với năm cơ quan cảm giác của não trái. Chuyển động sóng là chìa khóa để phát huy những khả năng tiềm ẩn bên trong của não phải.

Não trái hoạt động dựa trên các nguyên tắc vật lý cổ điển trong khi não phải hoạt động dựa trên các nguyên lý về vật lý lượng tử. Cần nắm rõ điểm mấu chốt này để tránh gây ra những tranh cãi vô ích và chỉ càng làm cản trở quá trình phát triển những khả năng của não phải. Khi đã hiểu được điều này, tất cả những gì bạn cần làm đơn giản là khai mở các giác quan của não phải.

7. Nâng cao khả năng nhận biết chuyển động sóng

Muốn khai mở các giác quan não phải đòi hỏi quá trình rèn luyện cảm giác và nắm bắt được các chuyển động sóng. Chuyển động sóng là một loại ánh sáng, mà con người cần có quá trình rèn luyện để nhìn thấy loại ánh sáng đó. Con người là một thực thể có ý thức và bản chất của con người là ánh sáng. Bản chất của vũ trụ cũng là ánh sáng, do vậy, bản chất của con người, vốn tồn tại hợp nhất với vũ trụ, cũng là ánh sáng.

Năng lượng của sự sống chính là yếu tố thúc đẩy con người, do đó, năng lượng sống cũng chính là ánh sáng. Bằng việc tiếp nhận với ánh sáng, chúng ta có thể đánh thức vùng não phải chưa được biết tới. Nói cách khác, nếu con người nhìn nhận cơ thể mình là một nguồn ánh sáng và tập trung rèn luyện để nhìn thấy ánh sáng đó, con người có thể kích hoạt những tiềm năng ẩn chứa bên trong não phải.

Một phương pháp thường được sử dụng để kích hoạt khả năng này là “Soft Focusing” (Chọn tiêu điểm linh hoạt). Phương pháp này không đòi hỏi người nhìn tập trung vào vật mà mình muốn thấy mà là tập trung vào một điểm ở gần ngay phía trước hoặc phía sau vật. Chẳng hạn, hãy giơ một ngón tay cái lên trước mặt và nhìn tập trung vào một điểm ở ngay phía trước hoặc ngay phía sau ngón cái, tiếp tục nhìn chăm chú vào ngón tay cái cho đến khi ý thức trở nên trống rỗng và mắt chỉ nên hé mở một nửa.

Khi làm như vậy, người thực hiện sẽ nhìn thấy một vầng hào quang ánh sáng xung quanh đầu ngón cái. Bình thường thì ánh sáng này không thể nhìn thấy được. Khi vầng hào quang này xuất hiện có nghĩa là các giác quan của não phải đã được kích hoạt nhằm giúp con người nhận biết được những thứ vô hình với mắt thường, và khơi dậy khả năng cảm nhận bằng giác quan thứ sáu hay còn gọi là khả năng trực giác – một khả năng tự nhiên của não phải.

Sau khi dự thính bài giảng của tôi, cô S đến từ Chiba đã bắt đầu luyện tập bài tập “Chọn tiêu điểm linh hoạt” với mọi người trong gia đình. Tất cả mọi người trong gia đình cô đều bắt đầu nhìn thấy ánh hào quang và dần dần có thể thoải mái sử dụng những khả năng tiềm ẩn của não phải. Một số vị thầy tâm linh còn cho rằng đây là cách duy nhất để giác ngộ. Bạn có muốn thử không?

8. Bài tập tưởng tượng ánh sáng

Trước tiên, hãy đưa trẻ vào bài tập thiền và hít thở sâu. Sau đó yêu cầu chúng nhìn vào vầng hào quang của một bông hoa trước mặt. Tất cả những đứa trẻ sẽ nói rằng chúng nhìn thấy vầng hào quang này. Thỉnh thoảng bạn hãy thử yêu cầu chúng nhìn vào vầng hào quang ở bàn tay mình và chúng sẽ nhìn thấy được. Khả năng nhìn thấy vầng hào quang (vốn không thể quan sát được bằng mắt thường) cho thấy trẻ đã kích hoạt được những giác quan tiềm ẩn của não phải.

Các giác quan của não phải còn được coi là giác quan thứ sáu và khả năng nhìn thấy những thứ vô hình như trên đã cho thấy rằng chức năng này của não phải thực sự tồn tại.

Khi các em đạt đến giai đoạn này, hãy bắt đầu hướng dẫn các em luyện tập thực hành bài tập hình dung ánh sáng như dưới đây.

018

Bằng cách thực hành bài tập chọn tiêu điểm linh hoạt (không tập trung trực tiếp vào vật mà vào một điểm ở trước hoặc sau vật), bạn có thể tự luyện tập cho bản thân mình nhìn thấy hào quang của bàn tay hoặc của một bông hoa.

017

Trước tiên, dẫn dắt các em vào bài tập thiền và hít thở sâu. Sau đó, yêu cầu trẻ nhìn chăm chú vào ánh sáng của một ngôi sao và nói với chúng rằng ánh sáng này sẽ đi vào cơ thể qua con mắt thứ ba, qua đó đánh thức tuyến tùng. Khi được đánh thức, tuyến tùng sẽ tỏa ra một tia sáng rực rỡ sau mí mắt của chúng. Hãy giải thích với trẻ rằng chúng sẽ nhìn thấy nối tiếp sau tia sáng rực rỡ đó là những tia sáng với nhiều màu sắc khác nhau như đỏ, vàng, xanh dương. Đừng quên nhắn nhủ với các bé: “Từ giờ trở đi, các con sẽ dễ dàng nhìn thấy các hình ảnh với những ánh sáng rực rỡ nhiều màu sắc”.