Có lẽ bằng kinh nghiệm của mỗi người, tất cả chúng ta đều biết đến trạng thái u uất trầm cảm, chúng được bộc lộ hoặc che giấu dưới vỏ bọc của những cơn đau thân xác hoặc căng thẳng thần kinh. Nếu để ý, chúng ta rất dễ nhận ra rằng những cơn đau này xuất hiện khá đều đặn, bất cứ khi nào chúng ta kìm nén một thôi thúc hoặc một cảm xúc không mong muốn. Sau đó, một cảm giác u uất trầm cảm sẽ kìm hãm mọi cảm xúc tự phát. Chẳng hạn, nếu một người trưởng thành không cảm thấy đau buồn khi anh ta mất đi người thân, mà lại cố khiến bản thân xao nhãng khỏi nỗi buồn; hoặc nếu anh ta kìm nén 13 và che giấu cảm giác phẫn nộ trước hành vi của một người bạn lí tưởng vì sợ mất đi tình bạn của mình, thì anh ta có nguy cơ rơi vào trạng thái trầm cảm (trừ khi cơ chế phòng vệ vĩ cuồng cũng liên tục được kích hoạt). Khi anh ta bắt đầu chú ý đến những kết nối cảm xúc này, anh ta có thể thấy mặt lợi từ chứng trầm cảm của mình và tận dụng nó để nắm bắt những sự thật về nội tâm của chính mình.
13 Kìm nén là một hành động có ý thức, trái ngược với dồn nén.
Khi chúng ta hiểu rằng sự bùng nổ của những cảm xúc mãnh liệt thời thơ ấu (có tính chất đặc biệt chưa thể nhận thức được) có thể giải tỏa một giai đoạn trầm cảm dài, chúng ta sẽ thay đổi dần cách tiếp cận những cảm xúc “không mong muốn” – mà trên hết là những cảm xúc đau đớn. Chúng ta khám phá ra rằng chúng ta không còn bị thôi thúc đi theo những lối mòn xưa cũ của cảm giác thất vọng, sự kìm nén nỗi đau và trạng thái trầm cảm, vì giờ đây, chúng ta có khả năng đối mặt với cảm giác thất vọng đó: Đấy là khả năng cảm nhận nỗi đau. Theo cách này, cuối cùng chúng ta có thể kết nối với những trải nghiệm đã qua của mình, kết nối với những khía cạnh của con người chúng ta và phần định mệnh bị chôn vùi sâu thẳm trong tâm hồn.
Một đứa trẻ chưa thể có cảm nhận về nỗi đau này. Nó chưa thể nhìn thấu được cơ chế tự dối lừa của mình. Mặt khác, nếu đứa trẻ không sống trong một môi trường có sự cảm thông và ủng hộ, nó sẽ phải chịu nhiều mối nguy hơn trước những cảm xúc mãnh liệt hơn so với một người trưởng thành. Hơn nữa, đứa trẻ có thể gặp nguy hiểm thực sự ở bên ngoài. Ngược lại với đứa trẻ, một người trưởng thành ít gặp nguy hiểm hơn khi anh ta dám cảm nhận và đối mặt với cảm xúc của mình. Tất nhiên, anh ta có thể vẫn sợ hãi về mối đe dọa của tình huống này trong quá khứ (lần đầu tiên), chừng nào những nguyên do của nỗi sợ này vẫn còn nằm trong vô thức.
Những cảm xúc mãnh liệt thời thơ ấu có thể thấy rõ nhất ở giai đoạn dậy thì. Tuy nhiên, việc thu lượm lại những nỗi đau tuổi dậy thì – cảm giác không thể hiểu hoặc đánh giá những thôi thúc của bản thân – thường sẽ dễ hơn những sang chấn từ nhỏ, vốn thường bị che giấu đằng sau một tuổi thơ bình dị, hoặc thậm chí chúng ta hoàn toàn mất đi kí ức về chúng. Đây có lẽ là lí do tại sao người trưởng thành hoài niệm về thời ấu thơ nhiều hơn về tuổi dậy thì. Hầu hết mọi người đều có thể lí giải về sự kết hợp giữa khao khát, kì vọng và nỗi sợ hãi thất vọng đi cùng với kí ức vui vẻ thời thơ ấu, khi họ tìm kiếm sự mãnh liệt trong cảm xúc mà họ đã từng đánh mất.
Chính bởi những cảm xúc của một đứa trẻ rất mạnh mẽ nên nếu những cảm xúc ấy bị dồn nén sẽ để lại những hậu quả nghiêm trọng. Một tù nhân càng mạnh mẽ, thì những bức tường của nhà tù càng phải dày, và không may là những bức tường này cũng cản trở hoặc hoàn toàn ngăn cản sự phát triển cảm xúc sau này. Trong giai đoạn trị liệu cuối cùng với tôi, một bệnh nhân đã mô tả sự thấu suốt mới của mình khi những bức tường nội tâm sụp đổ:
Không phải những cảm xúc đẹp đẽ hoặc thoải mái đem đến cho tôi thấu suốt này, mà là những cảm xúc tôi từng phải đấu tranh mạnh mẽ nhất: những cảm xúc khiến tôi cảm thấy bản thân rất hèn hạ, tầm thường, xấu tính, vô dụng, đáng khinh, yêu sách, cáu bẳn hoặc bối rối; và trên hết, là buồn rầu và cô đơn. Chính từ những trải nghiệm đó, từ thứ cảm xúc yếu đuối mà tôi từng né tránh rất lâu, giờ đây, tôi đã trở nên chắc chắn hơn, tôi đã hiểu về cuộc đời mình, về phần cốt lõi của con người tôi mà tôi không thể học từ bất kì cuốn sách nào!
Bệnh nhân này đang mô tả quá trình đạt được sự thấu suốt bên trong mình. Những diễn giải từ nhà trị liệu – người đã bỏ qua chính tuổi thơ của mình, có thể làm xáo trộn, cản trở và làm trì hoãn quá trình thấu suốt này, hoặc thậm chí gây cản trở và tối giản nó thành một sự hiểu biết đơn thuần về trí tuệ. Một người tìm kiếm sự giúp đỡ của nhà trị liệu cũng có thể sẵn sàng từ bỏ niềm vui trong việc khám phá và thể hiện bản thân, điều chỉnh sao cho phù hợp với những tư tưởng của nhà trị liệu mà không sợ mất đi tình cảm, sự thấu hiểu, lòng cảm thông của nhà trị liệu – những thứ mà anh ta đã phải chờ đợi suốt cuộc đời mình. Bởi những trải nghiệm từ nhỏ với người mẹ, anh ta tin rằng việc điều chỉnh này nhất thiết phải xảy ra. Nhưng thực ra không phải như vậy. Nếu anh ta phó mặc mình cho nỗi sợ hãi này và tự điều chỉnh bản thân theo nhà trị liệu, thì nhà trị liệu sẽ trượt sâu vào trong địa hạt của cái tôi giả dối, cái tôi thực sự vẫn sẽ bị che giấu và không thể phát triển. Do đó, điều cực kì quan trọng là nhà trị liệu không được phép để những nhu cầu cá nhân thôi thúc anh ta công thức hóa những kết nối mà bệnh nhân đang khám phá, thông qua cảm xúc của chính bệnh nhân. Nếu không, nhà trị liệu sẽ rơi vào cái bẫy hành xử như một người bạn đem đồ ăn ngon đến phòng cho tù nhân, vào đúng thời điểm quan trọng khi tù nhân này có cơ hội trốn thoát. Vì bước đầu tiên vào một miền đất xa lạ sẽ đòi hỏi rất nhiều can đảm, nên khi nhà trị liệu mang đồ ăn ngon đến, tù nhân ấy có thể trấn an bản thân bằng thức ăn và chỗ trú, rồi bỏ lỡ cơ hội của mình và ở lại ngục tù. Lẽ ra anh ta đã trốn thoát dù cho phải trải qua đêm đầu tiên đói khát, không chốn dung thân, nhưng anh ta có tự do.
Ranh giới giữa việc chữa lành hay tiếp tục chìm sâu vào những tổn thương là rất mong manh. Nhận ra điều này không có nghĩa là nhà trị liệu phải giữ một thái độ gần như im lặng và gây tổn thương. Ông ta phải quan tâm đến việc giúp cho bệnh nhân kết nối với cảm xúc thật của họ. Ông ta phải giúp khơi gợi lại những câu chuyện, những tình huống xưa cũ và không được bệnh nhân ghi nhớ một cách có ý thức cùng với toàn bộ bi kịch ban đầu, và đến cuối cùng chính bệnh nhân sẽ cảm thấy xót xa cho những điều anh ta đã trải qua. Với nhiều người, có vẻ như điều này có hiệu quả hơn khi không có sự giúp đỡ của nhà trị liệu.
Đấy phần nào là tính biện chứng của quá trình khổ sở khi trải qua cảm giác đau đớn của việc vừa được khuyến khích, vừa phụ thuộc vào sự tự khám phá bản thân. Nếu nhà trị liệu tâm lí mời bệnh nhân chia sẻ sự “vĩ đại” của mình, hoặc nếu bệnh nhân được kích hoạt cảm giác rằng anh ta là người có uy quyền trong nhóm trị liệu tâm lí, thì anh ta sẽ cảm thấy chứng trầm cảm của mình thuyên giảm trong một thời gian, nhưng sự rối loạn này vẫn sẽ ở đó, dưới một vỏ bọc khác. Bởi vĩ cuồng là trạng đối lập của trầm cảm bên trong chứng rối loạn ái kỉ, vì vậy thật khó có thể đạt được tự do trước cả hai hình thái rối loạn này nếu chúng ta không cảm thấy tiếc thương sâu sắc cho hoàn cảnh của đứa trẻ trong ta. Khả năng đau buồn này hay khả năng từ bỏ ảo tưởng về một tuổi thơ “hạnh phúc”, khả năng cảm nhận và nhận thức được mức độ trọn vẹn của tổn thương mà anh ta phải chịu đựng có thể khôi phục lại sức sống và sức sáng tạo của người trầm cảm, và giải phóng cá nhân vĩ cuồng khỏi nỗ lực phụ thuộc vào những việc làm nặng nhọc, vô ích, vô tận. Trong quá trình dài đằng đẵng này, nếu một người có khả năng cảm nhận thực tế rằng anh ta chưa bao giờ được yêu thương hồi còn nhỏ vì chính con người anh ta, mà thực chất chỉ vì người khác cần đến và lợi dụng thành tích, thành công và những phẩm chất tốt của anh ta, rằng anh ta đã hi sinh tuổi thơ của mình cho tình yêu ảo tưởng này, anh ta sẽ vô cùng suy sụp. Nhưng một ngày nào đó, anh ta sẽ khao khát kết thúc những nỗ lực vô ích này. Anh ta sẽ khám phá ra bên trong mình có một nhu cầu là sống theo con người thật của mình mà không nhất thiết phải có được thứ “tình yêu thương” luôn khiến anh ta tay trắng nữa, đấy là thứ tình yêu thuộc về con người giả dối của anh ta. Anh ta muốn sống với cái tôi đích thực mà anh ta có thể nương tựa vào nó.
Sự đối lập thực sự của chứng trầm cảm không phải là niềm vui hay không có đau đớn, mà là sức sống, là sự tự do trải nghiệm những cảm xúc chân thật. Đây là một phần trong lăng kính vạn hoa của cuộc đời, không chỉ có những cảm xúc vui vẻ, đẹp đẽ, tốt lành, mà còn có những cung bậc trải nghiệm khác: đố kị, ghen ghét, phẫn nộ, ghê tởm, tham lam, tuyệt vọng và đau buồn. Nhưng cảm giác tự do này không thể đạt được nếu tuổi thơ của một người bị chặn đứng, bị cắt đứt, không thể tiếp cận. Chúng ta chỉ có thể kết nối với con người thật của mình khi ta không còn sợ hãi thế giới cảm xúc mãnh liệt của tuổi thơ nữa. Một khi chúng ta đã cảm nhận được và quen thuộc với thế giới này, nó sẽ không còn kì lạ và đáng sợ. Chúng ta sẽ không cần che giấu chúng đằng sau những bức tường ngục tù của ảo tưởng. Giờ đây, chúng ta đã biết ai và cái gì khiến chúng ta tổn thương. Chính sự nhận thức này sẽ cho ta cảm giác tự do cuối cùng khỏi những thương tổn quá khứ.
Có rất nhiều những lời khuyên để đối phó với chứng trầm cảm (ví dụ như chuyển hóa sự hung hăng nội tại ra thế giới bên ngoài) đều mang tính chất thao túng rõ rệt. Chẳng hạn, một số bác sĩ tâm thần gợi ý rằng nhà trị liệu nên cho bệnh nhân thấy rằng sự vô vọng của anh ta là vô lí, hoặc nên khiến anh ta nhận thức được sự nhạy cảm thái quá của mình. Tôi cho rằng những động thái này không chỉ củng cố thêm cái tôi giả dối và sự điều chỉnh cảm xúc, mà còn khiến chứng trầm cảm nghiêm trọng hơn. Nếu nhà trị liệu muốn tránh điều này, họ phải coi trọng toàn bộ cảm xúc của bệnh nhân. Bệnh nhân trầm cảm rất thường xuyên nhận ra rằng họ đã phản ứng thái quá và tự trách móc bản thân vì điều đó. Chính sự nhạy cảm thái quá, cảm giác xấu hổ và sự dằn vặt này sẽ hình thành một sợi chỉ chạy dài xuyên suốt cuộc đời họ, không sao thoát ra được, trừ khi họ học cách hiểu rõ những cảm xúc này thực sự dẫn đến điều gì. Khi những cảm xúc càng trở nên thiếu thực tế và khó phù hợp với hiện tại, thì càng rõ ràng rằng chúng có liên quan đến những câu chuyện không được ghi nhớ trong quá khứ, chúng vẫn đang chờ được khám phá. Nếu cảm xúc bắt đầu trỗi dậy không được cảm nhận mà bị lí trí gạt đi, thì quá trình khám phá sẽ không diễn ra, và chứng trầm cảm vẫn sẽ ngự trị.
Pia, 40 tuổi, sau một giai đoạn trầm cảm dài cùng với những ý nghĩ tự sát, cuối cùng đã có thể cảm nhận và thừa nhận sự phẫn uất bị dồn nén từ lâu đối với người cha đã đối xử vô cùng tệ bạc với cô. Trải nghiệm này không dẫn đến cảm giác nhẹ nhõm ngay lập tức, cô đã trải qua một quãng thời gian đầy đau buồn và nhiều nước mắt. Vào cuối giai đoạn này, cô đã nói:
Thế giới không thay đổi. Có rất nhiều quỷ dữ và sự tàn nhẫn ở quanh tôi, tôi thậm chí còn nhìn thấy rõ điều đó hơn lúc trước. Tuy nhiên, lần đầu tiên tôi thấy cuộc sống thực sự đáng sống. Có lẽ đó là bởi, lần đầu tiên tôi cảm thấy tôi đang thực sự sống cuộc sống của mình. Đấy là một chuyến phiêu lưu thú vị. Mặt khác, giờ tôi có thể hiểu hơn những ý nghĩ tự sát của mình, nhất là những ý nghĩ có từ khi tôi còn trẻ. Thật vô ích khi tiếp tục bám lấy những suy nghĩ đó. Tôi từng luôn phải sống một cuộc sống không phải của mình, cuộc sống mà tôi vốn không muốn và tôi sẵn sàng từ bỏ nó.