Bạn có thể đặt ra câu hỏi rằng, sự thích nghi và điều chỉnh cảm xúc của bản thân có phải luôn dẫn đến chứng trầm cảm hay không? Có nhất định là sẽ như thế không? Trong cuộc đời này, chẳng có ai là luôn vui vẻ hạnh phúc, nhất khi họ sống thật với những cảm xúc của mình. Trong một nền văn hóa được bảo vệ khỏi các hệ thống giá trị khác, một người đã học cách thích nghi sẽ không thể tồn tại độc lập. Anh ta dần đánh mất ý thức về bản sắc riêng đích thực có thể thúc đẩy cho sự phát triển đúng nghĩa của anh ta, thay vào đó anh ta cảm thấy được hội nhóm của mình ủng hộ. Ngày nay, xu hướng hòa nhập phát triển hơn bao giờ hết, bất kì hội nhóm nào cũng khó có thể độc lập hoàn toàn với những hội nhóm và các giá trị ngoại lai. Do đó, một người phải tìm được sự ủng hộ bên trong chính mình để tránh trở thành nạn nhân của những lợi ích và những hệ tư tưởng khác nhau.
Các cộng đồng trị liệu có thể củng cố, nhưng không thể cung cấp hoặc thay thế quá trình trưởng thành nội tâm này. Mục đích của cộng đồng là “tiếp thêm năng lượng” cho các thành viên trong đó, bằng cách cho họ sự ủng hộ và cảm giác thuộc về. Tuy nhiên, sự kìm nén những cảm xúc thời thơ ấu là quy tắc, là điều kiện hình thành và chi phối những cộng đồng này nên chứng trầm cảm của một người không thể được tháo gỡ. Hơn nữa, một cá nhân có thể trở nên ng- hiện chính cộng đồng của mình, vì nó mang đến ảo tưởng rằng những nhu cầu không đáp ứng khi còn nhỏ cuối cùng cũng được thỏa mãn (bởi cộng đồng). Không ai có thể thực sự chữa lành tổn thương với ảo tưởng như vậy. Sức mạnh bên trong chúng ta, thông qua việc kết nối với những nhu cầu và cảm xúc thực sự trong nội tâm, cùng với khả năng bộc lộ chúng là điều rất quan trọng nếu chúng ta muốn sống mà không rơi vào chứng trầm cảm hoặc nghiện ngập.
Một số đứa trẻ sở hữu sức mạnh tiềm tàng chống lại sự thích nghi và chỉ thích nghi một phần. Những đứa trẻ lớn hơn, nhất là khi chúng đến tuổi dậy thì, có thể tiếp thu thêm những giá trị mới, vốn thường đối lập với những giá trị của cha mẹ. Một đứa trẻ vị thành niên có thể chấp nhận và điều tiết theo những lí tưởng của một hội nhóm trẻ tuổi nào đó như cái cách cậu chấp nhận lí tưởng của cha mẹ khi còn nhỏ. Nhưng nỗ lực này bắt nguồn từ việc cậu ta không nhận thức được nhu cầu và cảm xúc thật sự của mình, nên cậu ta sẽ lại từ bỏ và phủ nhận cái tôi của bản thân một lần nữa, để được nhóm bạn chấp nhận và yêu thương. Cậu không thực sự là chính mình, cậu ta cũng không biết điều này, không biết yêu thương chính mình: Tất cả những gì cậu làm là hi vọng ai đó sẽ yêu thương cậu, như tình yêu thương cậu từng tha thiết mong cầu khi còn nhỏ. Nhưng thật không may, tình yêu thương mà cậu mong muốn không được đáp ứng ở đúng thời điểm trong quá khứ, thì cũng thật khó để cậu có thể cảm nhận nó về sau.
Có vô vàn ví dụ cho vấn đề nan giải này. Tôi sẽ mô tả hai ví dụ trong số đó:
1. Paula, 28 tuổi, muốn giải phóng bản thân khỏi gia đình gia trưởng của mình, mẹ cô hoàn toàn phải phục tùng cha cô. Cô cưới một người đàn ông ngoan ngoãn và có cách cư xử rất khác. Chồng cô cho phép cô đem người tình về nhà. Bản thân cô không cho phép mình cảm thấy ghen tuông hay nhạy cảm, cô muốn cặp kè với nhiều đàn ông mà không bị ràng buộc cảm xúc với họ, để cô có thể cảm thấy mình độc lập giống như một người đàn ông. Nhu cầu “cấp tiến” của cô đi xa đến mức cô cho phép những người tình của mình lạm dụng và nhục mạ mình, và cô kìm nén mọi cảm xúc tủi nhục và tức giận với niềm tin rằng, cách cư xử của cô giúp cô trở nên hiện đại và tự do khỏi định kiến. Bằng cách này, cô đã vô thức thêm vào những mối quan hệ này cả sự vâng lời thời thơ ấu và sự phục tùng của người mẹ. Thỉnh thoảng, cô rơi vào trầm cảm nghiêm trọng, vì thế cô tìm đến trị liệu, để cô có thể cảm nhận được bản thân phải chịu đựng như thế nào do sự thụ động của mẹ mình – người đã bao dung cho người cha lạm dụng mà không hề có sự phản kháng nào dù là nhỏ nhất. Đối mặt với nỗi đau không được người mẹ thờ ơ bảo vệ, ở trạng thái phòng vệ cuối cùng, Paula dần chấm dứt thái độ tự hủy hoại bản thân (thái độ được thừa hưởng từ mẹ cô) trong mối quan hệ khác giới của cô. Cô đã biết yêu thương những người xứng đáng với tình yêu của mình.
2. Amar, hiện 40 tuổi, lớn lên trong một gia đình gốc Phi, sống một mình với mẹ sau khi người cha mất lúc anh ta còn nhỏ. Mẹ anh luôn khăng khăng giữ một số luật lệ và không cho phép anh ta nhận thức những nhu cầu của mình, chứ chưa kể đến việc bộc lộ chúng. Mặt khác, bà mẹ luôn mát-xa bộ phận sinh dục của con trai cho đến khi anh ta bước vào tuổi dậy thì, với lí do đấy là từ lời khuyên y học. Khi trưởng thành, rời khỏi người mẹ và thế giới của bà, cậu con trai cưới một cô vợ châu Âu hấp dẫn với một hoàn cảnh hoàn toàn khác. Do quá khứ bị dồn nén của mình, anh ta đã chọn một người phụ nữ không chỉ tra tấn, sỉ nhục mình, mà còn phá hoại sự tự tin của anh ta đến cực điểm, để anh vừa không thể chống lại cô, vừa không thể rời bỏ cô.
Một ví dụ khác giống như kiểu hôn nhân bạo dâm và khổ dâm này, đại diện cho nỗ lực phá vỡ hệ thống xã hội của cha mẹ với sự giúp đỡ của người khác. Amar chắc chắn có khả năng giải phóng bản thân khỏi người mẹ khi còn là trẻ vị thành niên, nhưng anh ta vẫn còn ràng buộc cảm xúc với người mẹ của thời thơ ấu (và những kí ức vô thức của anh ta về bà). Và vợ anh ta sẽ là người đảm nhận vai trò này cho đến khi anh ta có thể cảm nhận được những cảm xúc thật của mình từ giai đoạn thành niên đó. Anh ta đau đớn nhận ra bản thân cần mẹ ra sao nào khi còn bé, và đồng thời cảm thấy bị lạm dụng trong sự bất lực như thế nào, anh vừa yêu vừa ghét mẹ mình và hoàn toàn phó mặc đời mình cho bà. Nhưng sau khi nhận ra những nhu cầu, những cảm xúc bị dồn nén của mình, anh ta đã không còn sợ vợ mình nữa, và lần đầu tiên trong đời dám nhìn nhận bản chất thật sự của cô.
Đứa trẻ phải thích nghi để đảm bảo ảo tưởng về tình yêu thương, sự quan tâm và lòng tốt, nhưng người trưởng thành không cần ảo tưởng này để tồn tại. Anh ta có thể từ bỏ chứng hay quên của mình, sau đó tự xác định hành động tiếp theo với đôi mắt mở to. Chỉ có con đường này mới giúp anh ta thoát khỏi trầm cảm. Cả người trầm cảm và người vĩ cuồng đều hoàn toàn phủ nhận thực tế tuổi thơ của mình bằng cách sống như thể vẫn lấy lại được chút yêu thương thiếu hụt từ cha mẹ: Người vĩ cuồng thì thông qua ảo tưởng thành tựu, và người trầm cảm thì thông qua nỗi sợ hãi thường trực mất đi “tình yêu thương”. Cả hai đều không chấp nhận sự thật rằng sự mất mát hoặc thiếu thốn tình yêu đã xảy ra trong quá khứ rồi, và không có bất cứ nỗ lực nào có thể thay đổi sự thật này.