TRUYỀN ĐI NIỀM TIN VÀ SỰ CHẮC CHẮN
“Khi một thầy cô giáo đang giảng bài, dù ở lớp hay ở nơi khác, em luôn tập trung, chăm chú vào bài học, tâm trí không bị xao nhãng bởi những thứ vô bổ xung quanh. Đặc biệt chính các em không làm hay nói bất kì điều gì như thế.”
“Các em rất thông minh và đúng là các em rất thông minh, các học trò của tôi. Các em dễ dàng hiểu và ghi nhớ bài học. Những điều các em đã học được sắp xếp ngăn nắp trong trí nhớ của các em. Các em sẽ nhớ lại kiến thức này và áp dụng chúng vào thực tế khi cần hoặc khi muốn truyền đạt chúng cho những người khác.”
“Tương tự vậy, khi các em ở một mình, học bài ở nhà hay làm một nhiệm vụ, các em chỉ tập trung vào công việc mình đang làm. Bằng cách này, em sẽ có một kết quả học tập tốt.”
Nếu thực sự kiên trì làm theo phương pháp đấy, chúng ta sẽ tạo ra một thế hệ với những năng lực và phẩm chất tốt đẹp nhất, cả về thể chất lẫn tinh thần.
Trong phương pháp này, đây sẽ là chỉ dẫn dành cho những người thực hành tạo ra các tự kỉ ám thị tốt, ngắn gọn, có được hiệu quả như mong muốn.
Hãy ghi nhớ nguyên tắc của phương pháp tự kỉ ám thị:
• KHÔNG NGHĨ VỀ HAI THỨ CÙNG MỘT LÚC
Nghĩa là, cùng lúc bạn có thể chọn nhiều lời ám thị mang ý nghĩa khác nhau, nhưng hãy thực hiện chúng trong các giai đoạn khác nhau. Hai suy nghĩ có thể đặt cạnh nhau, vấn đề là chúng ta không thể xếp chồng chúng lên nhau. Vì việc nhắc đi nhắc lại một đống lệnh như thế làm chúng ta dễ bị loạn và khó nhớ được hết. Kết quả là phép tự kỉ ám thị sẽ mất tác dụng.
• NHỮNG SUY NGHĨ HOÀN TOÀN LẤP ĐẦY TÂM TRÍ CHÚNG TA SẼ TRỞ THÀNH SỰ THẬT (ĐỐI VỚI CHÚNG TA) VÀ CHÚNG TA CÓ XU HƯỚNG CHUYỂN HÓA CHÚNG THÀNH HÀNH ĐỘNG THỰC TẾ
Do vậy, nếu bạn làm cho một người bệnh nghĩ rằng tình trạng của người đó đang tiến triển tốt, thì căn bệnh đó sẽ biến mất. Nếu bạn khiến một người ăn cắp vặt nghĩ rằng anh ta có thể ngừng việc ăn cắp, thì anh ta sẽ không ăn cắp nữa, anh ta được chữa lành.
Hãy luôn động viên thân chủ của mình, khơi gợi trong họ mối cảm tình thân mật và lòng tự tin đích thực. Họ luôn sẵn sàng làm theo hướng dẫn của bạn trong các thực nghiệm tự kỉ ám thị. Nếu bạn hướng tinh thần họ đến sự hài lòng và thiện chí, bạn sẽ dễ dàng có được các kết quả mong đợi.
Lời khen có tác dụng như một chất kích thích mang lại lợi ích tốt cho thân chủ, nhưng nó không còn hiệu quả khi bị phóng đại. Lời trách mắng gây ra những tổn thương và nếu tiếp tục nó sẽ trở thành sự dày vò vô tận. Bạn có thể chỉ trích bản thân, nhưng nếu ai đó trách cứ bạn, bạn lại thấy vô cùng khó chịu. Vì thế, chúng ta nên dùng câu từ không gây tổn thương, kể cả khi chê trách. Không có ai phản kháng lại những lời nói nhẹ nhàng, vì họ cảm thấy rằng chúng ta không có ý chỉ trích họ. Tôi không chê trách, tôi chỉ nêu ra thực tế một cách tế nhị và chân thành.
Bạn phải có lòng tin đích thực rằng, bạn sắp làm điều tốt cho mỗi thân chủ của mình. Hãy quả quyết với chính mình rằng bạn có thể hoàn thành công việc của bạn, không phải dừng ở mức tạm được mà phải có hiệu quả thực sự. Bạn phải tin tưởng vào những điều bạn nghĩ.
Hãy để giọng điệu của bạn truyền đi niềm tin và sự chắc chắn đó. Không cần một giọng nói hùng hổ nhưng nên rõ ràng dứt khoát, đồng thời vẫn phải nhẹ nhàng.
Bạn nên nói một cách vừa hài hòa vừa chắc chắn, nhấn mạnh vào những từ ngữ quan trọng. Đừng lên giọng cũng đừng hạ thấp giọng xuống, không ậm ừ ngắc ngứ. Như thế, bạn vừa truyền đi được sự tin tưởng và quyết liệt cho thân chủ, vừa giữ được sự ôn hòa giữa hai bên.
Nếu thân chủ lạnh lùng và không đồng tình lúc ban đầu, bạn đừng cảm thấy khó chịu, càng đừng để nó ngăn cản bạn thực hiện phương pháp điều trị của mình. Ngược lại, cần kiên trì nỗ lực gấp đôi gấp ba lần. Hãy nói với chính mình: “Dù lúc đầu thân chủ còn lạnh lùng và tỏ ra không hợp tác, nhưng dần dần anh sẽ có thiện cảm và lắng nghe mình hơn.” Khi đó thái độ của thân chủ không tác động đến bạn nữa, rồi thân chủ chắc chắn trở nên thân thiện hơn. Đó cũng là một phép tự kỉ ám thị bạn dành cho chính mình.
CÁC THỬ NGHIỆM DẪN NHẬP ÁM THỊ
Thực hành để có những kết quả như mong muốn, bạn thấy dường như là điều không thể thì thực sự nó không thể thành hiện thực. Ấy vậy nếu bạn nghĩ không khó để thực hiện các ám thị, thì đó lại là việc dễ làm nhất trên đời. Tất cả những gì bạn cần là hướng dẫn cho thân chủ của mình thực hiện phương pháp thích hợp và tùy theo mức độ khó dễ khác nhau của phép tự kỉ ám thị ý thức.
Sau đây là các thực nghiệm phép tự kỉ ám thị. Nếu làm tỉ mỉ từng bước, bạn chắc chắn thu được những kết quả tốt, ngoại trừ với những người không đủ sự minh mẫn và không sẵn sàng thấu hiểu bản thân mình tôi đã đề cập trước đây.
Thử nghiệm thứ nhất (Bước chuẩn bị sơ bộ)
Đề nghị thân chủ đứng thẳng, giữ thẳng lưng, khép hai bàn chân vào nhau, thả lỏng phần cổ chân. Hãy nói với thân chủ tưởng tượng rằng, chính mình là một cái cột trụ đặt thăng bằng trên sàn, đôi chân giống như cái bản lề linh động. Chỉ cần hơi đẩy cái cột một chút về trước hoặc sau, dễ dàng làm nó đổ xuống sàn. Bạn sẽ kéo vai thân chủ ra sau và anh ta hãy để mình ngã vào tay bạn mà không phản kháng. Giữ bàn chân dưới sàn nhà, xoay cổ chân như cái cột xoay trên bản lề. Tiếp theo đẩy vai anh về lại như cũ. Nếu lần đầu thí nghiệm không thành công, hãy lặp lại đến khi thành công hoặc gần thành công.
Thử nghiệm thứ hai
Hãy giải thích với thân chủ rằng, bạn muốn cho anh ta thấy mức độ ảnh hưởng của trí tưởng tượng lên chúng ta. Bạn đề nghị anh ta tưởng tượng một chút: “Mình đang ngã về sau,” đừng suy nghĩ điều gì khác, không cần ngẫm xem liệu mình có ngã hay không, hoặc nghĩ khi ngã mình có thể bị đau, v.v. Thêm nữa, anh ta đừng nghĩ mình phải cố tình ngã về sau để làm hài lòng nhà trị liệu. Thân chủ chỉ cần tập trung vào tưởng tượng thôi. Nếu thực sự cảm thấy điều gì đó đang thúc ép, anh không cần phản kháng, cứ làm theo thôi thúc đó.
Sau đó đề nghị thân chủ ngẩng cao đầu và nhắm mắt lại. Đặt nắm tay phải của bạn sau gáy anh ta, đặt bàn tay trái của bạn lên trán anh ta và bảo anh nghĩ trong đầu: “Mình đang ngã ra sau… Mình đang ngã ra sau...” và “Bạn sẽ ngã ra sau... Bạn sẽ ngã ra sau…” Cùng lúc đó, bạn nhẹ nhành chuyển bàn tay trái sang bên thái dương bên trái của anh ta, làm thật chậm nhưng liên tục, đồng thời rút nắm tay phải lại. Thân chủ sẽ chuyển động ra sau, hoặc cố gắng không để mình ngã hoặc ngã ra sàn.
Nếu thân chủ cố gắng để mình không bị ngã nghĩa là anh ta có sự phản kháng. Anh không chỉ có suy nghĩ mình sẽ ngã, mà còn nghĩ ngã sẽ đau. Điều này là rất đúng, vì nếu anh không nghĩ thế anh hẳn đã ngã thẳng xuống sàn. Hãy lặp lại thử nghiệm này, bạn phải nói với giọng thật quyết liệt và chắc chắn. Tiếp tục thực hiện cho đến khi thử nghiệm thành công.
Tôi gợi ý bạn nên đứng xa thân chủ một chút, chân trái ở trước, chân phải ở sau, để thân chủ không ngã vào chân bạn. Đừng bỏ qua lưu ý này, nếu thân chủ nặng cân, nhiều khả năng cả hai sẽ ngã.
Thử nghiệm thứ ba
Bạn đứng đối mặt với thân chủ, giữ thân đứng thẳng, cổ chân thả lỏng, hai bàn chân khép vào nhau. Áp hai tay của bạn lên hai bên thái dương của thân chủ, lưu ý là không ấn mạnh. Nhìn cố định vào gốc mũi (giữa hai khóe mắt) của thân chủ và bảo anh ta nghĩ trong đầu: “Mình đang ngã về trước... Mình đang ngã về trước...” Bạn nhắc lại với thân chủ, nhấn mạnh từng từ “Bạn... đang… ngã… về… trước… Bạn… đang… ngã… về… trước...” Hãy nhớ là, bạn phải chăm chú nhìn vào thân chủ của mình.
Thử nghiệm thứ tư
Đề nghị thân chủ đan hai tay vào nhau và ép chặt các ngón tay lại đến khi các ngón tay bắt đầu run nhẹ. Nhìn cố định vào gốc mũi của thân chủ và đặt tay bạn lên tay anh ta. Bạn dùng hai tay ép nhẹ tay anh ta lại như thể bạn muốn chúng khép chặt hơn. Nói thân chủ nghĩ rằng anh ta không thể gỡ tay mình ra, bạn đếm đến ba. Khi bạn nói BA, anh ta phải cố gắng tách hai tay ra và chỉ nghĩ: “Tôi không làm được… Tôi không làm được…” Thân chủ sẽ thấy rằng anh ta không thể làm thế.
Bạn đếm thật chậm: Một… hai… ba… và nói: “Bạn… không… làm… được... Bạn… không… làm… được...” Nếu thân chủ chỉ nghĩ “Mình không làm được” thì anh ta không những không thể gỡ tay ra, mà càng cố gắng tách ra, các ngón tay của anh ta sẽ càng ép chặt vào nhau hơn. Kết quả trái ngược với những gì anh cố gắng làm. Sau một vài giây, bạn nói thân chủ hãy nghĩ: “Tôi có thể”, những ngón tay anh sẽ tự tách ra.
Điểm quan trọng nhất là bạn phải nhìn cố định vào gốc mũi của anh ta, không để thân chủ mất sự tập trung vào bạn. Nếu thân chủ tách hai bàn tay ra trong khi bạn nói: “Bạn… không… làm... được” nghĩa là anh ta không chỉ có một suy nghĩ duy nhất:
“Tôi không làm được.” Hãy làm lại thử nghiệm một lần nữa và nói với thân chủ một cách dứt khoát.
Khi những thử nghiệm này thành công, thì những thử nghiệm tương tự cũng thành công. Bạn sẽ có kết quả như mong muốn bằng cách làm theo những hướng dẫn này.
Chúng ta không nên sử dụng những từ ngữ không cần thiết. Một lời ám thị ngắn gọn và cụ thể có hiệu quả hơn. Bạn có thể nói: “Bạn mắc chứng suy nhược thần kinh. Tôi biết rõ nguyên nhân của nó và bạn phải chịu đựng nhiều chừng nào. Tôi tin bạn sắp được chữa lành.” Khi bạn chia sẻ về những nỗi đau và sự chịu đựng của thân chủ, họ luôn cảm thấy hài lòng và tin tưởng bạn hơn. Đó là sức mạnh của sự đồng cảm và thấu hiểu.
Đừng tỏ ra thương hại thân chủ. Họ có thể nói: “Ôi! Ông có trái tim sắt đá!” Bạn hãy vui vẻ đáp lại: “Đó là vì lợi ích của chính bạn. Nếu tôi thương xót bạn, tôi sẽ làm hại bạn.”
Tôi chủ tâm sử dụng những thuật ngữ không thô cứng, tế nhị và quen thuộc vì chúng đầy sức thuyết phục. Hãy nói một cách điềm tĩnh, như một người đã quen với việc người khác luôn lắng nghe và tuân theo.
Chúng ta có thể tạo nên chất giọng cho riêng mình thông qua quá trình rèn luyện. Chắc chắn bạn sẽ có một giọng nói tuyệt vời, vừa nhẹ nhàng vừa chắc chắn. Người chịu khó luôn thu được kết quả tốt.
Càng thử nghiệm và quan sát, tôi càng thấy rõ ràng rằng, một người không dễ dàng tập trung hoàn toàn ngay lập tức. Theo bản năng của chúng ta, các ám thị càng ngắn và càng đơn giản thì càng tốt. Đừng cố gắng tạo ra nhiều ám thị trong cùng một khoảng thời gian.
“MỖI NGÀY, VỀ MỌI MẶT, TÔI ĐANG TRỞ NÊN TỐT HƠN VÀ TỐT HƠN” là ám thị phù hợp cho mọi hoàn cảnh.
Một người không thể mở bàn tay của mình trong nhiều năm, dù điều trị qua nhiều bác sĩ. Ấy vậy mà bác sĩ Vachet đã giúp anh ta xòe bàn tay của mình ra ngay lập tức chỉ bằng ám thị “Tôi có thể.”
Một số thân chủ dễ dàng nghe theo nhà trị liệu. Chúng ta có thể nhận ra họ qua cách họ cử động ngón tay và bàn chân gần như ngay lập tức. Sau hai hoặc ba thử nghiệm thành công, chúng ta không phải bảo họ: “Nghĩ cái này” hay “Nghĩ cái kia”. Nhà trị liệu chỉ cần nói những ám thị tích cực với giọng điệu ôn hòa nhưng quyết liệt. Chẳng hạn: “Khép hai bàn tay của bạn vào nhau. Giờ bạn không thể tách chúng ra.” “Nhắm mắt lại. Giờ bạn không thể mở chúng ra.” Bạn sẽ thấy rằng thân chủ không thể nào tách hai tay hay mở đôi mắt của anh ta ra được, dù đã cố hết sức. Sau một vài phút, bạn nói với thân chủ: “Bạn có thể” và ngay lập tức anh ta sẽ làm được, tách hai tay và mở đôi mắt ra.
Có rất nhiều thử nghiệm chúng ta có thể thực hiện. Say đây là một vài thử nghiệm khác:
• Để thân chủ nắm hai tay vào nhau và ra ám thị cho anh ta rằng chúng bị gắn chặt vào nhau;
• Đặt tay thân chủ lên bàn và ám thị rằng nó bị dính vào bàn;
• Nói với thân chủ rằng anh ta bị gắn vào ghế và không thể đứng lên;
• Bảo thân chủ đứng lên và nói rằng anh không thể đi;
• Đặt một quản bút lên bàn và nói với anh rằng nó nặng 100 cân và anh không thể nâng nó lên được.
...
Trong các thử nghiệm này, tôi xin nhấn mạnh vào thực tế rằng không phải ám thị tạo ra những hiện tượng này. Nói một cách chính xác, tự kỉ ám thị đã tạo ra chúng. Tự kỉ ám thị được tạo ra trong bệnh nhân bằng ám thị của người ra ám thị.
CÁC PHƯƠNG PHÁP ÁM THỊ CHỮA LÀNH
Khi thân chủ đã trải nghiệm những thử nghiệm dẫn nhập và hiểu về chúng, anh ta sẽ sẵn sàng cho ám thị chữa bệnh. Giống như những hạt giống nảy mầm và phát triển giữa một cánh đồng canh tác. Nhưng trước đó, thân chủ chẳng khác nào một khoanh đất bị cày xới với những hạt giống chết.
Dù thân chủ có vấn đề về thể chất hay tinh thần, điều quan trọng là nhà trị liệu phải luôn thực hiện theo cùng một cách và sử dụng cùng một lời ám thị, tùy từng trường hợp. Nhà trị liệu nói với thân chủ:
“Ngồi xuống và nhắm mắt lại.
Tôi sẽ không cố gắng đưa bạn vào giấc ngủ. Điều đó là không cần thiết.
Tôi đề nghị bạn nhắm mắt lại, đơn giản là để bạn không bị những thứ xung quanh làm xao lãng.
Giờ hãy nhớ rằng mọi lời tôi sắp nói ra đây sẽ đi vào tâm trí bạn và được in dấu, khắc sâu, đóng chắc vào đó.
Những lời của tôi sẽ luôn ghim lại và ở trong tâm trí bạn. Bản thân bạn, toàn bộ cơ thể bạn sẽ chịu sự chi phối của nó mà không hề hay biết, bạn cũng không thể dùng lí trí để điều khiển. Bạn hoàn toàn không hay biết về điều này.
Trước hết, tôi nói với bạn: Mỗi ngày, ba lần một ngày, sáng, trưa và tối, vào các khung giờ ăn hàng ngày, bạn sẽ thấy đói, bạn sẽ có một cảm giác dễ chịu khiến bạn nghĩ: ‘Ồ! Mình sẽ ăn luôn, ăn ngon lành thoải mái vô cùng.’
Bạn quả thực sẽ vô cùng thích thú và thưởng thức bữa ăn của mình. Đương nhiên, bạn không ăn quá nhiều. Bạn cẩn thận nhai nhuyễn đồ ăn để chuyển hóa chúng thành hỗn hợp mềm, sau đó bạn sẽ nuốt.
Thức ăn của bạn sẽ được tiêu hóa hết. Bạn không cảm thấy chút khó chịu hay đau đớn nào ở dạ dày và trong ruột.
Bạn sẽ tiêu hóa hết thức ăn của mình. Các cơ quan trong cơ thể bạn hưởng lợi từ việc tiêu hóa này. Chúng chuyển hóa và tạo máu, cơ bắp, sức mạnh, năng lượng – tóm lại là: sự sống.
Sau khi đã tiêu hóa hết, hoạt động bài tiết là hoàn toàn bình thường.
Mỗi sáng thức dậy, bạn sẽ muốn thải ra ngoài mà không cần đến thuốc hay biện pháp kích thích nào, bạn đại tiện hoàn toàn bình thường và thoải mái.
Hơn nữa, mỗi tối, từ lúc bạn buồn ngủ đến lúc bạn thức giấc vào buổi sáng, bạn có một giấc ngủ sâu, trọn vẹn và không gặp ác mộng. Sau khi thức dậy bạn cảm thấy khỏe, vui vẻ và sẵn sàng làm việc.
Đôi khi nếu bạn buồn chán hay thất vọng, nếu bạn đang lo nghĩ hay ưu tư, thì từ bây giờ tâm trạng này sẽ biến mất. Thay vì thấy buồn bã, thất vọng hay lo lắng, bạn tươi cười, vui vẻ, thậm chí đôi chút hớn hở. Bạn có thể không có lí do nào để vui vẻ, nhưng cũng không có lí do nào để buồn phiền. Hơn nữa, tôi nói rằng, nếu có bất cứ lí do nào khiến bạn buồn chán hay thất vọng, bạn cũng không cảm thấy thế, hay sẽ không rơi vào tâm trạng đó.
Đôi khi, nếu bạn có tình cờ mất kiên nhẫn và không thể bình tĩnh, bạn sẽ không bao giờ như vậy nữa. Ngược lại, bạn luôn kiên nhẫn, luôn kiểm soát chính mình. Những chuyện khiến bạn lo lắng, phát cáu và khó chịu, từ giờ sẽ để bạn an yên và điềm tĩnh.
Đôi khi, nếu bạn bị tấn công, đeo bám hay ám ảnh bởi những suy nghĩ xấu và không lành mạnh, bởi những nỗi sợ hãi, sự ác cảm, sự cám dỗ hay lời nguyền rủa chống lại người khác, thì tất cả những ý nghĩ này sẽ dần biến mất khỏi tâm trí bạn. Chúng sẽ phai nhạt và mất dấu như một đám mây đang trôi, như một giấc mơ tan biến khi bạn tỉnh dậy. Những tưởng tượng hão huyền của bạn cũng được tháo gỡ.
Tôi nói rằng các cơ quan trong cơ thể bạn đều đang làm tốt chức năng của chúng.
Nhịp tim đều đặn, máu lưu thông tốt. Phổi đang hít thở nhẹ nhàng.
Dạ dày, ruột, gan, bàng quang, thận và ống mật đều hoạt động tốt.
Nếu bây giờ, chúng có đôi chút khó khăn, tình trạng đó sẽ khá lên từng ngày và hoàn toàn bình phục. Sớm thôi, cơ thể bạn sẽ khỏe mạnh và dẻo dai.
Thêm nữa, nếu có bất kì chấn thương nào trên thân thể, vết thương đó sẽ cải thiện từng ngày và nhanh chóng lành lặn.
(Về vấn đề chấn thương này, dù ở bất cứ cơ quan nào trên thân thể đều có thể điều trị. Thể vô thức sẽ mang sức mạnh của tự kỉ ám thị “Mỗi ngày, về mọi mặt, tôi đang trở nên tốt hơn và tốt hơn” để chữa lành chấn thương đó).
Tôi cũng phải bổ sung một điều vô cùng quan trọng rằng, nếu bạn vẫn đang thiếu lòng tin vào bản thân, thì tôi nói với bạn là sự không tin tưởng ấy sẽ dần biến mất và nhường chỗ cho sự tự tin. Sức mạnh của bạn, năng lực của bạn không thể đo đếm được, chúng nằm trong chính bạn.
Ai cũng cần có lòng tin. Không có niềm tin, bạn chẳng thể đi đến đâu cả. Nhưng nếu có nó, bạn có thể làm bất cứ điều gì mình muốn (tất nhiên là trong giới hạn quy luật tự nhiên).
Từ giờ bạn sẽ có sự tự tin vào chính mình. Bạn tin rằng bạn có thể đạt đượt bất cứ mục tiêu nào bạn đặt ra cho mình (nếu nó phù hợp với quy luật tự nhiên).
Bạn sẽ làm tốt mọi nhiệm vụ bạn phải làm.
Khi bạn muốn làm gì đó như một lẽ tự nhiên hoặc khi bạn có bổn phận phải thực hiện, hãy luôn nghĩ rằng đó là việc không khó. Những lời “Nó rất khó”, “Nó là bất khả thi”, “Tôi không thể”, “Nó vượt quá khả năng của tôi”, “Tôi không thể giúp chính mình” phải biến mất hoàn toàn khỏi từ điển của bạn. Hãy nghĩ: “THẬT ĐƠN GIẢN… TÔI CÓ THỂ...” Khi tin rằng một việc nào đó rất dễ dàng, việc đó sẽ trở nên dễ dàng với bạn, dù nó có vẻ khó với những người khác. Bạn sẽ làm việc đó vừa tốt vừa nhanh mà không thấy mệt nhọc, vì bạn không tốn chút sức nào.”
Mọi ám thị phải được nói ra với giọng êm dịu, nhà trị liệu chỉ nên dùng một tông giọng (không lên xuống, chuyển tông, v.v.) Tuy nhiên, chúng ta cần nhấn mạnh vào các từ quan trọng đủ để cho thân chủ mơ màng, nửa ngủ nửa tỉnh và ngừng suy nghĩ về bất cứ điều gì. Điều đó giúp những lời bạn nói có thể đi sâu hơn vào thể vô thức của thân chủ.
Nếu cần thiết, nhà trị liệu có thể thêm vào những ám thị nói chung, hơi dài dòng một chút và thậm chí trẻ con với một số thân chủ.
Khi nhà trị liệu nói xong những câu ám thị của mình, hãy nói với thân chủ:
“Nói tóm lại từ góc độ thể chất hay tinh thần, từ nay trở đi bạn sẽ có một sức khỏe tuyệt vời, ngày càng tốt hơn.
Tôi sẽ đếm đến ba, khi tôi nói ‘BA’ bạn hãy mở mắt ra và thoát khỏi trạng thái bị động của mình vào lúc này.
Bạn sẽ ra khỏi tình trạng này một cách nhẹ nhàng, không cảm thấy uể oải hay mệt mỏi.
Trái lại bạn sẽ cảm thấy mạnh mẽ, hoạt bát, tỉnh táo, năng động, tràn trề sức sống.
Hơn hết, bạn luôn vui vẻ, sung sức và mạnh mẽ. MỘT… HAI… BA…”
Khi nói xong từ “Ba” bệnh nhân mở mắt ra, nở một nụ cười cho thấy niềm hạnh phúc, sự khỏe khoắn và hài lòng trên gương mặt anh ta. Đôi khi, thực ra là hiếm thân chủ được chữa lành ngay lập tức. Thường thì thân chủ cảm thấy nhẹ nhõm hơn, ít đau đớn hơn, hay bệnh tình thuyên giảm một phần nào đó. Phải mất một thời gian, thân chủ mới được chữa lành hoàn toàn.
Trong hầu hết các ca bệnh, cần lặp lại các ám thị liên tục hoặc cách quãng ngày dài hay ngắn tùy theo sự tiến bộ của thân chủ, cho đến khi các ám thị không còn cần thiết nữa, nghĩa là khi thân chủ đã hồi phục.
Trước khi thân chủ rời đi, hãy khắc ghi vào tâm trí anh ta rằng anh ta mang trong mình công cụ tự chữa lành. Nhà trị liệu chỉ là một người hướng dẫn thân chủ làm thế nào sử dụng công cụ chữa lành đó. Anh ta phải tiếp tục giúp chính mình. Do vậy, trước khi thức dậy và khi lên giường ngủ, anh hãy nhắm mắt lại và tưởng tượng trong đầu rằng mình đang đứng trước mặt nhà trị liệu. Rồi anh lặp lại hai mươi lần câu nói sau đây bằng một giọng đều đặn. Anh có thể sử dụng một cái dây có 20 nút thắt để đếm và nói:
MỖI NGÀY, VỀ MỌI MẶT, TÔI ĐANG TRỞ NÊN TỐT HƠN VÀ TỐT HƠN
Trong đầu, anh phải nhấn mạnh cụm từ: VỀ MỌI MẶT. Nghĩa là nó áp dụng với mọi hoàn cảnh, về cả tinh thần lẫn thể chất.
Ám thị chung này có thể hiệu quả hơn các ám thị dành riêng cho một nội dung.
TÍNH SIÊU VIỆT CỦA PHƯƠNG PHÁP TỰ KỈ ÁM THỊ
Phương pháp này đã mang lại những kết quả thực sự phi thường. Rất dễ hiểu tại sao lại như thế. Nếu bạn làm theo đúng lời khuyên của tôi, bạn không thể nào thất bại (tất nhiên ngoại trừ hai nhóm người tôi đã đề cập trước đây, thật may họ chỉ chiếm vừa đủ 3% đám đông).
Mặt khác, nếu nhà trị liệu khiến thân chủ của mình ngủ ngay lập tức mà không có giải thích hay thử nghiệm sơ bộ nào cho họ, thì chắc chắn nhà trị liệu không thể thành công. Các thử nghiệm là cần thiết để thân chủ tin tưởng và chấp nhận những ám thị của bạn, từ đó chuyển hóa thành tự kỉ ám thị. Ngoại trừ những thân chủ có sự nhạy cảm khác thường, nhưng không có nhiều người như vậy đâu.
Tất cả mọi người có thể dễ dàng thuận theo các ám thị thông qua huấn luyện. Nhưng rất ít người làm được mà không có hướng dẫn chuẩn bị như tôi đã đề xuất. Các bước này chỉ mất một vài phút để thực hiện.
Trước đây tôi có nhận định sai lầm rằng ám thị chỉ có thể nói ra trong khi thân chủ đang ngủ. Do vậy tôi đã luôn cố gắng làm cho thân chủ buồn ngủ.
Nhưng thân chủ thường cảm thấy sợ hãi hay khó chịu khi tôi nói là tôi sẽ làm họ chìm vào giấc ngủ, nên tôi ngừng việc gây ngủ lại. Nỗi sợ đó thường vô tình gây ra sự phản kháng đối với việc ngủ.
Nếu nhà trị liệu nói với thân chủ là không làm anh ta ngủ thiếp đi, nhà trị liệu sẽ có được lòng tin của anh ta ngay lập tức. Thân chủ lắng nghe và tiếp thu những lời nói của nhà trị liệu mà không sợ hãi hay phản đối. Có một vấn đề thường xảy ra là, âm thanh dịu nhẹ và đều đặn từ nhà trị liệu làm cho thân chủ ngủ ngon lành. Khi tỉnh dậy, thân chủ vô cùng ngạc nhiên vì đã ngủ thiếp đi.
Chắc chắn sẽ có những thân chủ hoài nghi với phương pháp này. Trong trường hợp đó, một cách đơn giản là tôi nói với thân chủ: “Hãy đến và xem những thử nghiệm tôi đang thực hiện, bạn sẽ tin vào điều bạn tận mắt chứng kiến.”
Những hướng dẫn và các lời ám thị tôi đưa ra không phải là cách duy nhất để tạo ra các ám thị và từ đó chuyển hóa thành tự kỉ ám thị. Nhà trị liệu có thể tạo ám thị cho thân chủ mà không để họ biết và chuẩn bị bất cứ điều gì.
Việc nghe danh một bác sĩ hay một nhà trị liệu cũng có thể tạo ra ám thị lên thân chủ rồi. Một câu nói với thân chủ rằng ông không thể giúp gì cho anh ta, bệnh của anh ta không thể chữa khỏi, nhà trị liệu đã tạo ra một suy nghĩ tự kỉ ám thị với thân chủ mà có lẽ không lường trước được hậu quả. Mặt khác, nếu nhà trị liệu nói với thân chủ rằng, dù bệnh của anh ta khá nghiêm trọng, nhưng qua thời gian, bằng sự kiên nhẫn của mình và sự chăm sóc tận tình của chúng tôi, chắc chắn anh sẽ khỏi. Kết quả thu được rất đáng ngạc nhiên.
Sức ảnh hưởng của tâm trí lên thân thể là không thể phủ nhận. Nó có tác động mạnh mẽ hơn nhiều những gì chúng ta vẫn nghĩ và không thể đo đếm. Đôi khi nó gây ra các cơn co thắt hoặc tê liệt tạm thời, nhưng tình trạng đó cũng có thể kéo dài. Nếu có những tác động làm thay đổi tâm trí thì trạng thái thân thể của thân chủ cũng biến đối theo.
Hãy quả quyết trong đầu rằng bạn có thể đạt được những kết quả nhất định, chắc chắn bạn sẽ tìm ra cách và phương thức thực hiện. Đó rõ ràng là sự kì lạ của tâm trí. Nếu bạn coi việc đưa người thân đi khám bệnh là một bổn phận, bạn sẽ tìm ra lời thuyết phục họ. Họ đi và thậm chí họ sẵn sàng đi.
Người đưa ra ám thị có vai trò vô cùng quan trọng. Đó không phải là người ra lệnh mà là một người bạn, một người dẫn đường giúp thân chủ tiến từng bước trong quá trình bình phục. Ám thị được tạo ra vì lợi ích của thân chủ, nên vô thức của anh ta hoàn toàn chấp nhận và chuyển hóa chúng thành tự kỉ ám thị. Khi hoàn thành quá trình chuyển hóa này, việc trị liệu cũng diễn ra nhanh chóng.
Với một bác sĩ, sau khi khám xong, viết ra một đơn thuốc và đưa cho bệnh nhân mà không nói một lời nào, thì đơn thuốc đó thực sự không có nhiều tác dụng. Nhưng nếu bác sĩ giải thích cho bệnh nhân rằng phải dùng loại thuốc này, uống như thế này và chúng có tác dụng thế kia, chỉ dẫn thật cụ thể thì những kết quả đáng mong đợi chắc chắn sẽ xuất hiện.
Nếu bạn là nhân viên y tế hay dược sĩ đang đọc cuốn sách của tôi, tôi hi vọng các bạn sẽ không nhìn tôi như địch thủ. Tôi mong chúng ta là những người bạn thân thiết. Tôi muốn thêm môn học Lí thuyết và thực hành ám thị vào chương trình giảng dạy tại các trường y, đấy là một môn học vì lợi ích của người bệnh và của chính các bác sĩ. Khi bệnh nhân đến khám bác sĩ, thứ họ cần là bác sĩ kê cho họ một đơn thuốc, ngay cả khi không cần thiết. Thực tế là họ chỉ cần thay đổi hoạt động cá nhân và chế độ dinh dưỡng đã có thể chữa lành bệnh. Nhưng thường chúng ta lại không mấy coi trọng những thứ đơn giản như thế. Chỉ một lời dặn dò, một ám thị của bác sĩ sẽ tác động rất nhiều đến ý thức và hành động của người bệnh.
CHỮA LÀNH NHỮNG TỔN THƯƠNG
Công trình nghiên cứu này sẽ không trọn vẹn nếu không có một vài dẫn chứng tiêu biểu về những ca bệnh đã được chữa lành. Tôi không thể liệt kê hết các ca bệnh mà tôi điều trị thành công. Do vậy tôi sẽ trích dẫn một vài trường hợp đáng chú ý.
Để cho thấy rằng phương pháp chữa bệnh tự kỉ ám thị có tác dụng lâu dài, tôi chủ tâm chọn ra những ca cách đây khá lâu rồi, và cũng có vài ca gần đây.
Bệnh lao
Cô D. đến từ Troyes nước Pháp, khoảng 30 tuổi, ở giai đoạn cuối của bệnh lao phổi. Cô ngày càng gầy hơn dù áp dụng chế độ dinh dưỡng đặc biệt. Cô có tình trạng ho khan khiến cho thân thể đau nhức, đầu thỉnh thoảng cứ ong ong và hít thở khá khó khăn. Các dấu hiệu cho thấy sức khỏe của cô thực sự đáng báo động. Bác sĩ nói rằng cô không sống được lâu nữa, chỉ một vài tháng. Tôi thực hiện phép ám thị với D. Các thử nghiệm sơ bộ cho thấy vô thức của cô có tính nhạy cảm cao, có khả năng tiếp nhận các ám thị. Tôi thấy sự chuyển biến ngay lập tức của thân chủ. Những ngày tiếp theo, triệu chứng bệnh bắt đầu xuất hiện ít hơn, thuyên giảm từng ngày. Cô D. tăng cân nhanh chóng dù cô không ăn thức ăn dinh dưỡng đặc biệt nữa. Sau vài tháng, cô hoàn toàn bình phục. Quý cô D. đã gửi cho tôi một lá thư cảm ơn vào ngày 1 tháng 1 năm 1911 (8 tháng sau khi tôi rời Troyes). Cô thông báo rằng mình đang mang thai nhưng vẫn hết sức khỏe mạnh.
Cô bé X. từ Geneva Thụy Sĩ, 13 tuổi, cô bé cảm thấy đau ở thái dương. Một vài bác sĩ chẩn đoán triệu chứng đó có nguồn gốc từ bệnh lao. Cô được điều trị bằng nhiều phương pháp khác nhau trong hơn một năm rưỡi nhưng không có hiệu quả. Sau đó, cô đến gặp bác sĩ Baudouin, một học trò của tôi, sống tại Geneva. Baudouin đã chữa cho cô bé bằng phương pháp ám thị. Một tuần sau cô bé quay lại và chỗ cơn đau đã dứt!
Sung huyết phổi
Tháng 1 năm 1919, Bà Z. từ thành phố Nancy thuộc Đông Bắc nước Pháp, bà bị sung huyết phổi và sau hai tháng, không thấy có dấu hiệu hồi phục. Bà có thể trạng yếu ớt, kèm theo các triệu chứng ăn không ngon, khó tiêu, đại tiện khó khăn, mất ngủ, và đổ mồ hôi nhiều về đêm. Sau lần trị liệu đầu tiên, bệnh nhân có những chuyển biến tốt. Hai ngày sau, bà đến nói với tôi rằng bà thấy hoàn toàn khỏe mạnh. Các triệu chứng bệnh dường như không còn nữa và cơ quan trong cơ thể hoạt động khá ổn, nhưng bà vẫn bị ra mồ hôi đêm. Qua ba hay bốn lần thực hiện phương pháp tự kỉ ám thị ý thức, bà đã dứt hẳn triệu chứng đó. Sức khỏe của bà Z. đã tốt lên rất nhiều.
Bệnh hen suyễn
Cô M. D. Đến từ Troyes, mắc bệnh hen suyễn suốt tám năm. Vì cơ quan hô hấp hoạt động không tốt nên ban đêm, cô phải ngồi thẳng trên giường để hít thở dễ dàng hơn. Các thử nghiệm sơ bộ cho thấy cô là một người cực kì nhạy cảm, cô chìm vào giấc ngủ ngay khi tôi nói lời ám thị. Kết quả là từ ngày đầu tiên, tình trạng bệnh của cô đã có cải thiện lớn.
Cô M. D. đã có một đêm ngủ tốt, tuy nhiên vẫn bị gián đoạn bởi một cơn hen kéo dài mười lăm phút. Trong một khoảng thời gian rất ngắn, bệnh hen suyễn của cô biến mất và không tái phát về sau.
Bệnh viêm phế quản
Ông Hazot – 48 tuổi đến từ thị trấn Brin-sur- Seille nước Pháp. Ngày 15 tháng 1 năm 1915, ông được chẩn đoán mắc bệnh viêm phế quản mãn tính, ngày càng trở nặng. Ông đến gặp tôi vào tháng 10 năm 1915 và đã có cải thiện tức thì. Tại thời điểm tôi viết cuốn sách này, ông vẫn chưa khỏi hẳn nhưng đã tốt hơn rất nhiều.
Lão suy thanh quản
Ông X. là một giáo sư ở thành phố Belfort. Ông không thể nói nhiều hơn 10 - 15 phút, vì cổ họng sẽ trở nên đau rát. Nhiều bác sĩ thăm khám cho ông nói rằng không có thương tổn nào trong cơ quan phát âm. Nhưng có một bác sĩ chẩn đoán đó là chứng lão suy thanh quản và không có khả năng chữa khỏi. Ông đi nghỉ ở thành phố Nancy và một người bạn khuyên ông đến gặp tôi.
Lúc đầu, ông từ chối, nhưng sau cùng ông cũng đồng ý thực hiện phương pháp ám thị, cho dù ông không tin vào tác dụng của nó. Tôi điều trị cho ông và đề nghị ông quay lại sau một vài ngày. Ông đến và nói với tôi rằng, hôm trước ông đã có thể trò chuyện cả buổi chiều mà không có dấu hiệu đau rát phiền phức nào cả. Hai ngày sau đó, ông quay lại một lần nữa, lần này ông hoàn toàn thoát khỏi chứng đau họng, không những có thể nói mà ông còn mạnh dạn hát vâng một bài ca. Phép chữa bệnh này có tác dụng tốt với ông và tôi tin chắc nó sẽ còn kéo dài.
Bệnh Pott – lao cột sống
Anh Nagengast, 18 tuổi, sống tại số 30 phố Sellier. Anh mắc bệnh lao cột sống gây tổn thương ở đĩa đệm và thân đốt sống. Năm 1914, anh đến gặp tôi với cái đai nịt thạch cao để cố định cột sống. Cứ hai lần một tuần, anh đến thăm khám. Anh tự thực hiện phương pháp tự kỉ ám thị vào các buổi sáng và tối. Sự tiến triển xuất hiện rất nhanh chóng và anh có thể trở lại làm việc mà không cần đeo đai thạch cao. Tôi gặp lại anh một lần nữa hai năm sau đó và anh đã hoàn toàn khỏi bệnh. Anh từng là một y tá chăm sóc người ốm cho Trung tâm Dịch vụ Cứu thương Nancy. Và giờ khi trung tâm này ngừng hoạt động, anh tiếp tục làm nhiệm vụ đưa thư của mình.
Bệnh Eczema – chàm bội nhiễm
Bà H. đến từ thị trấn Maxeville, mắc bệnh chàm bội nhiễm8, đặc biệt nghiêm trọng ở chân trái. Cả hai chân của bà phồng lên và sưng tấy, nhất là phần mắt cá chân. Bà đi lại rất khó khăn và đau nhức. Tôi thực hiện phương pháp ám thị và ngay tối đó, bà H. có thể đi lại chừng vài trăm mét mà không thấy mệt nhọc. Sáng hôm sau bàn chân và phần mắt cá của bà không còn sưng nữa và cũng không tái phát kể từ hồi đó. Bệnh chàm bội nhiễm biến mất nhanh chóng.
8 Bệnh chàm bội nhiễm là bệnh ngoài da khiến da bị bị khô, đỏ và ngứa. Đôi khi những chỗ da này có thể bị nứt, chảy dịch và sau đó đóng vảy. Không có thuốc trị dứt điểm chứng bệnh này. Bệnh chàm bội nhiễm không lây.
Bệnh Gout
Ông E. đến từ Troyes thường phải chịu những cơn đau vì bệnh Gout. Mắt cá chân phải sưng tấy nên ông không thể đi lại. Các thử nghiệm sơ bộ cho thấy ông có khả năng phản ứng rất nhanh. Sau lần trị liệu đầu tiên, ông có thể tự đi ra xe ngựa để di chuyển đến phòng khám của tôi. Ông không cần chống gậy và cũng không có cảm giác đau đớn. Ngày tiếp theo, ông không phải quay lại nữa, vì tôi đã hướng dẫn ông cách làm phương pháp tự kỉ ám thị. Sau đó vợ ông E. đến nói với tôi rằng, chồng bà đã có thể dậy sớm, đi giày và đạp xe đến xưởng vẽ của ông. Ông là một họa sĩ tài năng. Thật đáng ngạc nhiên lắm. Tôi không thể theo dõi ca bệnh này vì thân chủ của tôi còn không bận tâm đến việc tới gặp tôi một lần nữa. Tôi từng nghe rằng ông chưa tái phát lần nào, nhưng đến giờ tôi không biết tình hình của ông ra sao.
Tật vẹo gót chân bẩm sinh
T. Maurice, 8 tuổi rưỡi, từ Nancy. Cậu bé mắc tật vẹo bàn chân bẩm sinh. Ca phẫu thuật đầu tiên gần như xử lí được bàn chân trái, nhưng bàn chân phải vẫn còn tật. Hai ca phẫu thuật tiếp sau đó cũng không cải thiện được khiếm khuyết đó.
Đứa trẻ được mang đến chỗ tôi lần đầu tiên vào tháng 2 năm 1915. Cậu bé đi khá tốt nhờ hai dụng cụ giữ thẳng bàn chân. Buổi trị liệu lần đầu tiên cho thấy những dấu hiệu khả quan, nhưng chưa thực sự rõ ràng. Sau lần trị liệu thứ hai, đứa trẻ đã có thể đi bộ trong một đôi giày bình thường. Vào ngày 17 tháng 4, cậu bé bước đi chắc chắn hơn và có chút nhanh nhẹn. Tuy nhiên, bàn chân phải yếu đi, do bong gân hồi tháng 2 năm 1916.
Bệnh thấp khớp
Bà Meder, 52 tuổi, đến từ Einville. Suốt 6 tháng liền, bà phải chịu những cơn đau đầu gối phải. Nó bị sưng tấy lên khiến bà không thể gập đầu gối. Bà gặp tôi lần đầu tiên vào ngày 7 tháng 12 năm 1917. Lần thứ hai bà đến vào ngày 4 tháng 1 năm 1918 để nói với tôi rằng bà không còn thấy đau nữa và có thể đi lại hoàn toàn bình thường.
Ông Ferry Eugene, 60 tuổi, ở số 56 đường Côte. Ông bị thấp khớp ở hai vai và chân trái đã 5 năm. Ông đi lại khó khăn, phải chống gậy và không thể nâng hai cánh tay của mình cao quá vai. Ông đến khám chỗ tôi vào ngày 17 tháng 9 năm 1917. Sau lần thăm khám đầu tiên, cơn đau hoàn toàn biến mất và thân chủ không những đi được bước dài mà còn có thể chạy. Hơn nữa, cánh tay của ông có thể xoay chuyển nhịp nhàng. Tôi gặp ông lần nữa vào tháng 11 năm đó, bệnh thấp khớp không tái phát nữa.
Bà Castelli, 41 tuổi, đến từ thị trấn Einville. Bà bị thấp khớp ở đầu gối phải đã 13 năm. Cách đây 5 năm, bệnh thấp khớp của bà chuyển nặng: đầu gối và chân sưng to đáng kể và phần chân dưới bị teo. Bà buộc phải dùng gậy hoặc nạng mới đi lại được và cảm thấy rất đau đớn. Tôi gặp bà ấy lần đầu tiên vào ngày 5 tháng 11 năm 1917. Bà rời đi mà không cần dùng đến gậy hay nạng. Kể từ đó bà chưa bao giờ cần dùng đến gậy, nhưng thỉnh thoảng bà vẫn dùng nạng do đầu gối đau nhẹ.
Liệt dây thần kinh
Ông X. là nhân viên bưu điện ở thị trấn Luneville. Tháng 1 năm 1910, một người con của ông ra đi khá đột ngột. Cú sốc tinh thần này gây ra những xáo trộn trong não bộ khiến ông run rẩy chân tay không thể kiểm soát.
Bác của ông đưa ông đến chỗ tôi vào tháng 6 năm đó. Tôi thực hiện các thử nghiệm ám thị sơ bộ. Bốn ngày sau ông quay lại và nói với tôi rằng chứng run tay chân đã không còn. Tôi lặp lại các ám thị và dặn thân chủ đến gặp tôi sau một tuần.
Một tuần trôi qua, rồi hai, ba, bốn tuần trôi qua mà không có tin tức gì từ ông X. Vài tháng sau, bác của ông X đến gặp tôi và nói ông nhận được một lá thư từ cháu mình, thông báo rằng cháu hết sức khỏe mạnh. Ông X đang tiếp tục làm nhân viên điện tín, trước đây ông phải tạm nghỉ vì không đủ sức khỏe. Ông viết bức thư dài 170 từ để gửi đi, và không gặp chút khó khăn nào. Ông nói thêm trong thư rằng ông thậm chí có thể gửi một bức dài hơn thế. Bệnh tình của ông cũng không tái phát.
Ông D. từ thị trấn Jarville, bị liệt dây thần kinh ở mí mắt trái. Ông đến bệnh viện để tiêm, kết quả là ông có thể nâng mí mắt của mình lên, nhưng mắt trái bị lệch hơn 45 độ và có vẻ cần phải phẫu thuật. Ông đến gặp tôi. Nhờ có phương pháp tự kỉ ám thị, mắt ông đã quay về vị trí cũ, từng chút một.
Ông M. là một thợ làm mũ, sống ở Sainte- Savine, gần Troyes. Ông bị liệt hai chi dưới đã 2 năm, do một chấn thương ở phần nối cột sống và xương chậu. Máu ở hai chi không lưu thông được, chúng sưng lên, sung huyết và đổi màu. Ông thử qua nhiều phương pháp điều trị khác nhau nhưng bệnh tình không tiến triển. Tôi thực hiện các thử nghiệm sơ bộ và đã cho những kết quả thuận lợi bước đầu. Ông chuyển hóa các ám thị của tôi thành tự kỉ ám thị. Trong vòng một tuần, chân trái của ông có thể cử động nhưng rất khó nhận ra.
Tôi sử dụng các ám thị mới. Sau hai tuần nữa, tình trạng liệt cải thiện trông thấy, chân bớt sưng, tuy chậm nhưng đều đặn. Mười một tháng sau, là khoảng tháng 11 năm 1906, thân chủ của tôi có thể đi xuống cầu thang một mình, đi bộ 1000 thước Anh (khoảng 914 mét). Đến tháng 7 năm 1907, ông đã trở lại nhà máy làm việc như chưa từng có gì xảy ra.
Tật nói lắp
Linier, 15 tuổi, ở số 88 đường Montet. Cô bé có tật nói lắp bẩm sinh. Cô đến khám vào ngày 20 tháng 7 năm 1917. Nhờ ám thị, cô bé ngay lập tức thoát khỏi tật nói lắp. Tôi gặp Linier một tháng sau đó và cô không còn lắp ba lắp bắp nữa.
Bệnh thận
Bà P. từ thị trấn Laneuveville. Bà bị đau hai bên thận, và đầu gối. Bà than phiền về tình trạng này từ 10 năm nay. Càng ngày những cơn đau của bà càng khó chịu hơn. Tôi đưa ra các ám thị và bà tự nhắc lại các ám thị, biến chúng thành suy nghĩ của mình, hay chuyển hóa ám thị thành tự kỉ ám thị. Tình trạng bệnh thay đổi tức thì và tiến triển tốt. Bà được điều trị khá nhanh và không có dấu hiệu tái phát.
Viêm ruột – Enteritis
Ông A. G. đến từ Troyes. Ông bị viêm ruột non mãn tính. Ông thử qua rất nhiều phương pháp điều trị nhưng không có sự cải thiện đáng kể. Điều đó làm ông cảm thấy chán nản, lo lắng, khó chan hòa và bị ám ảnh bởi suy nghĩ tự tử. Khi hoàn thành các thử nghiệm sơ bộ, phương pháp ám thị bắt đầu phát huy tác dụng. Tôi tiếp tục thực hiện ám thị thêm ba tháng. Thời gian đầu làm ám thị hàng ngày, sau đó cách quãng ngày. Kết quả rất khả quan, chứng viêm ruột non biến mất hoàn toàn và tinh thần của ông cũng rất tốt. Ca bệnh này từ 12 năm trước, cho đến nay không tái phát lần nào nên có thể cho là chữa khỏi vĩnh viễn.
Ông G. là một ví dụ điển hình cho các tác dụng của phương pháp ám thị hay tự kỉ ám thị. Lời ám thị có tác động đồng thời đến cả thân thể lẫn tinh thần. Ông G. thể hiện rất rõ điều đó.
Sự tự tin của ông tăng lên hàng ngày. Ông là một công nhân lành nghề. Để kiếm thêm tiền, ông cố gắng mua một cái máy và làm việc tại nhà. Một thời gian sau, một công ty sản xuất nhận thấy trình độ xuất sắc của ông nên giao cho ông bộ công cụ mà ông muốn. Nhờ có kĩ năng của mình, ông G. có năng suất cao hơn một người công nhân bình thường. Hài lòng với kết quả này, người chủ của ông đưa cho ông G. thêm nhiều công cụ khác. Nếu không nhờ đến phương pháp ám thị, có lẽ ông G. vẫn là một người thợ bình thường. Giờ đây ông có thể phụ trách sáu loại máy và tạo ra nguồn thu nhập đáng kể.
Chứng khó tiêu do suy nhược thần kinh
Bà T. ở Nancy, mắc chứng suy nhược thần kinh dẫn đến chứng khó tiêu, đau dạ dày, viêm ruột và gây đau ở các bộ phận khác nhau trong cơ thể. Bà tự điều trị trong một vài năm nhưng không có kết quả khả quan. Tôi cho bà ấy các ám thị và hướng dẫn thực hiện hàng ngày, bà biến chúng thành tự kỉ ám thị. Bệnh của bà có sự cải thiện đáng kể ngay từ ngày đầu tiên. Qua một quá trình liên tục thực hiện ám thị, cả tinh thần lẫn thân thể của bà đã khỏe mạnh hơn, không cần theo chế độ ăn đặc biệt nào cả. Bà vẫn còn hơi đau đụng, có thể ở phần ruột non nhưng không chắc chắn.
Chứng đau dây thần kinh
Bà L. ở Nancy mắc chứng đau nửa đầu bên phải đã hơn 10 năm. Bà đến gặp nhiều bác sĩ nhưng phương pháp điều trị của họ không giúp được gì.
Cuối cùng, bà quyết định phẫu thuật. Nhưng trước đó, bà đến gặp tôi vào ngày 25 tháng 7 năm 1916. Tình trạng đau nửa đầu của bà cải thiện tức thì, 10 ngày sau cơn đau dứt hẳn. Cho đến tháng 12, bệnh không tái phát nữa.
Bà Lacour, 63 tuổi, đến từ Chemin des Sables. Bà bị đau dây thần kinh mặt suốt 10 năm. Dù qua nhiều lần điều trị nhưng không có kết quả. Khi được khuyên phẫu thuật, bà đã từ chối. Bà đến phòng khám của tôi lần đầu vào ngày 25 tháng 7 năm 1916. Bốn ngày sau cơn đau đã dứt và cho đến bây giờ bà không thấy đau lần nào nữa.
Chứng suy nhược thần kinh
Ông Y. từ Nancy, mắc chứng suy nhược thần kinh một vài năm. Ông có ác cảm với nhiều thứ, lo lắng sợ hãi, trào ngược dạ dày và rối loạn tiêu hóa. Vì giấc ngủ chập chờn, ông hay thấy u ám và ám ảnh bởi ý nghĩ tự sát. Ông bước đi lảo đảo như người say rượu và luôn chìm vào những ưu phiền của mình.
Các phương pháp điều trị khác đều thất bại và tình trạng của ông trở nên tệ hơn. Một tháng điều trị trong viện điều dưỡng không có chuyển biến nào. Ông Y. đến gặp tôi vào đầu tháng 10 năm 1910. Các thử nghiệm sơ bộ chứng tỏ ông không phải là một ca bệnh khó.
Tôi giải thích cho thân chủ các nguyên tắc của phương pháp tự kỉ ám thị, sự tồn tại của thể ý thức và thể vô thức, rồi tôi tạo các ám thị. Trong 2-3 ngày đầu, ông Y. không hiểu những các giải thích của tôi, không bắt kịp những lời tôi nói. Phải mất một khoảng thời gian, tâm trí mịt mờ của ông mới trở nên sáng rõ hơn và ông đã hiểu ra vấn đề. Tôi cho ông các ám thị mới và tự ông thực hiện chuyển hóa chúng thành tự kỉ ám thị mỗi ngày. Ông có thêm những ám thị khác tùy theo mong muốn của ông. Lúc đầu bệnh của ông tiến triển chậm, cải thiện từng chút một và sau đó nhanh dần. Sau một tháng rưỡi, ông không còn chứng suy nhược nữa. Ông từng nghĩ mình là kẻ bất hạnh nhất, nhưng giờ lại thấy bản thân thật hạnh phúc. Không những bệnh không tái phát mà cũng không có bệnh mới phát sinh, bởi vì ông Y. tin chắc chắn rằng ông không thể nào rơi vào tình trạng khốn khổ một lần nữa.
Bà X. là một ca mắc chứng suy nhược thần kinh nặng và hầu hết thời gian bà phải nằm trên giường. Bà không thể di chuyển hay làm việc. Bà ăn không ngon, có dấu hiệu trầm cảm và rối loạn tiêu hóa. Bà hoàn toàn khỏi bệnh chỉ trong một lần thăm khám và không bao giờ tái phát.
Cô D. đến từ xã Mirecourt, 16 tuổi. Cô có các cơn hoảng loạn trong suốt 3 năm. Thời gian đầu, các cơn hoảng loạn này không xảy ra thường xuyên, nhưng sau đó liên tục tái phát với tần suất dày hơn. Khi cô đến gặp tôi vào ngày 1 tháng 4 năm 1917, các cơn hoảng loạn của cô diễn ra ba lần trong hai tuần. Đến ngày 18 tháng 4, khi đã trải qua quá trình trị liệu bằng phương pháp ám thị, cô không còn lên cơn hoảng loạn. Tôi bổ sung thêm rằng kể từ khi điều trị, cô gái trẻ này cũng dứt hẳn những cơn đau đầu tồi tệ trước đây.
Vết loét do suy tĩnh mạch
Suy tĩnh mạch (Varicose) là tình trạng suy yếu chức năng của các van một chiều nằm dọc theo lòng tĩnh mạch chân. Các van này bị hở ra không khép kín lại được, máu hồi lưu về tim không còn hiệu quả, gây ứ đọng máu ở chân và lan lên dần. Hậu quả là các tĩnh mạch bị quá tải, căng dãn ra, làm thoát dịch ra mô xung quanh.
Bà Urbain Marie, 55 tuổi, đến từ Maxeville. Bà có những vết loét ở chân do suy tĩnh mạch trong một năm rưỡi. Lần điều trị đầu tiên của bà là tháng 7 năm 1915, lần thứ hai diễn ra sau đó một tuần. Bà đã khỏi bệnh sau hai tuần thực hiện phương pháp ám thị.
Bà H. sống trên đường Guilbert-de-Pixerecourt, Nancy, 49 tuổi. Bà bị loét chân do suy tĩnh mạch từ tháng 9 năm 1914. Bác sĩ riêng của bà đã điều trị trong thời gian dài nhưng không có kết quả. Phần chân dưới bị phù lớn. Vết loét to bằng một đồng hai franc, ở phía trên mắt cá chân và ăn sâu vào đến phần xương. Miệng vết loét có dấu hiệu sưng viêm, mưng mủ nhiều và đau ngứa. Bà đến gặp tôi lần đầu tiên là vào tháng 4 năm 1916. Tôi thực hiện các thử nghiệm và đưa ám thị cho bà trong nhiều ngày liên tiếp, bệnh tình có vẻ khả quan. Sau hơn 10 tháng điều trị, phần sưng tấy xẹp xuống hoàn toàn và cũng hết đau rát. Vết loét thu gọn lại bằng hạt đậu, sâu khoảng 2-3 milimet và vẫn hơi mưng mủ. Đến năm 1920, bệnh của bà đã khỏi từ lâu.
Ông Philippe Schirer, 48 tuổi, từ Bouxieres-aux- dames. Lần đầu, ông đến điều trị là ngày 20 tháng 4 năm 1917, với một vết loét do suy tĩnh mạch ở chân trái to bằng một đồng 5 franc. Ông đã chiến đấu với chứng bệnh này suốt 15 năm, mà chỉ sau một tuần thực hiện phương pháp tự kỉ ám thị, vết loét không còn nữa. Ngày 4 tháng 5, tôi gặp ông lần nữa và không thấy có dấu hiệu tái phát.
Vết loét do chấn thương
Cô X. từ Blainville, có một vết lở loét ở bàn chân trái. Nguyên nhân xuất phát từ một lần bị bong gân, dẫn đến sưng tấy và kèm theo cơn đau buốt. Cô đã thử rất nhiều phương pháp điều trị khác nhau nhưng không có tác dụng. Một thời gian sau, vết thương mưng mủ và có dấu hiệu bị mục xương. Việc đi lại của cô càng ngày càng khó khăn cho dù điều trị liên tục. Theo lời khuyên từ một thân chủ cũ của tôi, cô đến gặp tôi và có tiến triển thấy rõ sau một vài lần điều trị. Dần dần chỗ sưng tấy xẹp đi, ít đau hơn. Mưng mủ ít hơn và vết loét cũng dần thu gọn lại. Phải mất vài tháng để có được kết quả này. Khi viết cuốn sách này, bàn chân của cô X đã gần như bình thường trở lại, tuy vẫn đau nhức nhưng không còn sưng. Phần uốn phía trên gót chân còn hơi cứng, nên thân chủ phải đi khập khiễng.
Chứng Áp-xe
Chứng Áp-xe (Abscess: tụ mủ cục bộ) là một bọc mủ hình thành trong các mô của cơ thể.
Cô Z. đến từ Geneva, đã trải qua một ca phẫu thuật chữa Áp-xe đầu gối khi 17 tuổi, nên chân phải bị co lên. Cô đề nghị bác sĩ Baudouin điều trị bằng phương pháp ám thị. Khi ông vừa bắt đầu thực hiện ám thị, chân của cô bắt đầu di chuyển tới lui như một người bình thường (tôi phải thừa nhận rằng ca này có nguyên nhân tâm lí).
Xoang trán
Ông B. bị viêm khoang trán (xoang) được 24 năm và trải qua 11 lần phẫu thuật. Tuy vậy, vùng viêm xoang không dấu hiệu cải thiện, gây ra nhiều cơn đau khó chịu. Do ảnh hưởng của viêm xoang, thể trạng của ông ngày càng yếu đi. Ông có các cơn đau kéo dài, ăn không ngon, không đi lại được, mất ngủ hay gặp khó khăn trong việc đọc. Đương nhiên, tình trạng này tác động không nhỏ đến trạng thái thần kinh của ông. Ông đến thăm khám nhiều bác sĩ giỏi như Bernheim9 ở Nancy, Dejerine10 tại Paris, Dubois11 đến từ Berne, nhưng bệnh tình vẫn tiếp tục đi xuống và ngày càng xấu hơn.
9 Hippolyte Bernheim (1840 - 1919) là bác sĩ và nhà thần kinh học người Pháp. Ông được biết đến với các học thuyết liên quan đến thôi miên.
10 Joseph Jules Dejerine (1849 - 1917) là nhà thần kinh học người Pháp.
11 Paul Charles Dubois (1848 - 1918) là nhà thần kinh học người Thụy Sĩ, gốc Pháp.
Theo lời khuyên từ một bệnh nhân cũ của tôi, ông đến gặp tôi vào tháng 9 năm 1915. Từ lúc đó sức khỏe của ông cải thiện nhanh chóng và tại thời điểm này (1921) ông vẫn rất khỏe mạnh. Đây là sự hồi sinh đích thực.
Bệnh tim
Emile Chenu, 10 tuổi, ở số 19 đường Grande (một người tị nạn từ Metz). Cô bé có những cơn đau tim (không phải do bẩm sinh) khiến cô bé thường nôn ra máu vào mỗi tối. Lần đầu tiên cô đến khám vào tháng 7 năm 1915. Sau vài lần thực hiện ám thị, tình trạng nôn ra máu giảm dần. Cô bé tiếp tục điều trị hơn một năm, bệnh đã dứt hoàn toàn và không còn tái phát.
Young B., 13 tuổi, nhập viện vào tháng 1 năm 1912 do những cơn đau tim kéo dài. Việc thở của cậu bé khá khó khăn, chỉ có thể đi những bước chậm và ngắn. Bác sĩ đã điều trị cho cậu là một trong những bác sĩ tốt nhất nước Pháp. Ông đưa ra những cảnh báo về tình trạng tim đập nhanh dẫn đến chết người.
Yong B. rời viện vào một tháng sau đó vì bệnh tình không khá hơn. Một người bạn của gia đình mang cậu bé đến phòng khám của tôi. Tôi không hi vọng nhiều vào ca bệnh này. Tuy vậy tôi vẫn tiến hành các thử nghiệm sơ bộ, thật bất ngờ là cậu bé có phản ứng rất tốt. Sau khi thực hiện ám thị và hướng dẫn cậu bé cách ra ám thị cho chính mình, tôi dặn cậu bé quay lại sau hai ngày. Có sự cải thiện thấy rõ trong hô hấp và bước đi của cậu. Tôi tiếp tục dùng phương pháp ám thị để điều trị cho cậu. Mỗi lần tái khám, cậu bé đều có những tiến triển tốt hơn.
Qua ba tuần, cậu bé có thể tự đi lại và cùng mẹ mình đến cao nguyên Villers. Tiếng thở đã nhẹ hơn nhiều. Cậu bé không còn hụt hơi khi đi bộ, thậm chí là có thể đi lên gác. Thật khó thể tưởng tượng ra viễn cảnh đó vào lần đầu gặp cậu bé.
Young B. xin phép tôi đi đến Carignan12 để thăm bà mình. Dường như cậu bé đủ khỏe mạnh thực hiện chuyến đi của mình. Cậu bé đã đi, và thường xuyên liên lạc với tôi qua thư. Sức khỏe của cậu bé ngày càng tốt hơn, ăn ngon miệng, tiêu hóa tốt và không có áp lực tinh thần hay thể chất. Giờ đây cậu bé không chỉ đi lại như những người khác, thậm chí còn chạy nhảy và rượt đuổi những cánh bướm.
12 Một xã ở phía Bắc nước Pháp.
Cậu bé quay trở lại vào tháng 10 và tôi gần như không nhận ra. Anh bạn nhỏ dặt dẹo yếu ớt đã trở thành một chàng trai cao lớn và có thể đứng thẳng lưng, khuôn mặt hồng hào. Cậu bé đã cao thêm 12 cm, nặng thêm khoảng 8 cân rưỡi. Từ đó trở đi, cậu bé sống một cuộc sống như bao đứa trẻ khác, chạy lên xuống cầu thang, đi xe đạp và chơi bóng đá.
Bệnh tử cung
Bà Martin, ở số 105 đường Grande (Ville Vieille). Bà bị viêm tử cung đã 13 năm, kèm theo đó là các cơn đau và tiết dịch nhầy trắng đỏ. Bà thường đau bụng kinh rất dữ dội, chu kì khoảng 22-23 ngày, kéo dài từ 10-12 ngày. Lần đầu tiên bà đến khám là ngày 15 tháng 11 năm 1917 và tái khám hàng tuần. Bà cảm thấy tốt hơn sau lần ám thị đầu tiên và cải thiện nhanh chóng. Mất khoảng 2 tháng, tình trạng viêm đã thuyên giảm, kinh nguyệt của bà đều đặn và ít đau đớn hơn. Thêm vào đó, bệnh đau ở đầu gối của bà cũng không còn nữa.
Bà M., 43 tuổi, ở số 2 đường Amance, Malzeville. Cuối năm 1916, những cơn đau đầu của bà trở nên dữ dội hơn và thực sự khó chịu. Sau vài lần thực hiện ám thị, các cơn đau biến mất hoàn toàn. Khoảng 2 tháng sau, bà để ý thấy rằng bệnh sa tử cung13 của bà cũng được chữa khỏi. Bà không nói với tôi về bệnh này trước đó và cũng không nghĩ tới khi thực hiện tự kỉ ám thị. Kết quả này có được nhờ các từ “MỌI MẶT” có trong câu ám thị lặp lại vào mỗi buổi sáng và tối.
13 Sa tử cung: thành tử cung tụt xuống vào trong ống âm đạo.
Bà D. ở Choisy-le-Roi, chỉ có duy nhất một câu ám thị chung chung “Mỗi ngày, về mọi mặt, tôi đang trở nên tốt hơn và tốt hơn.” Bà tự làm ám thị hai lần mỗi ngày vào buổi sáng và tối. Tôi rất vui khi nghe bà thông báo rằng bà đã tự chữa khỏi bệnh sa tử cung làm khổ bà suốt 20 năm. Đến tận năm 1920, bệnh không tái phát.
Bà R. đến từ thị xã Chavigny. Bà bị viêm tử cung (viêm dạ con) trong 10 năm. Bà gặp tôi vào tháng 7 năm 1916. Sự cải thiện xuất hiện ngay lần đầu tôi thực hiện ám thị. Tình trạng đau bụng dữ dội và xuất huyết ổ bụng giảm dần và biến mất sau 2 tháng. Kinh nguyệt vốn kéo dài từ 8-10 ngày giờ chỉ còn 4 ngày.
Ghim 3
Nguyên tắc của phương pháp tự kỉ ám thị:
• Không nghĩ về hai thứ cùng một lúc;
• Những suy nghĩ hoàn toàn lấp đầy tâm trí một người, người đấy có xu hướng chuyển hóa chúng thành sự thật (đối với người đấy).
Một lời ám thị cần rõ ràng dứt khoát giúp truyền đi niềm tin và sự chắc chắn.
Không tạo ta nhiều ám thị trong cùng một thời gian. “Mỗi ngày, về mọi mặt, tôi đang trở nên tốt hơn và tốt hơn” là ám thị phù hợp cho mọi hoàn cảnh.