C
hiếc UH-60 cải tiến bay lờ lờ trên những mái nhà trải rộng của khu Kalorama Heights, lao về phía tọa độ được đội hỗ trợ cung cấp trong tiếng động cơ ầm vang như sấm. Đặc vụ Simkins là người đầu tiên nhìn thấy chiếc Escalade màu đen đậu giữa một bãi cỏ phía trước một trong các tư gia. Cổng vào khép chặt, ngôi nhà tối om, chìm trong im lặng.
Sato ra hiệu hạ cánh.
Chiếc máy bay lập tức đáp xuống bãi cỏ trước nhà, xung quanh là mấy chiếc xe hơi, một trong số đó là chiếc xe mui kín của lực lượng an ninh có đèn nháy trên nóc.
Simkins và đội của ông nhảy xuống, vũ khí sẵn sàng, tức tốc xông tới cửa trước. Thấy cửa trước khóa trái, Simkins khum tay lại che mắt nhìn qua một ô cửa sổ. Tiền sảnh tối om, nhưng Simkins vẫn nhìn thấy hình dáng mờ mờ của một thân hình dưới sàn.
“Mẹ kiếp”, ông thì thầm. “Hartmann.”
Một trong các đặc vụ của ông vớ lấy một cái ghế kê ngoài cửa và ném nó qua khung cửa kính lớn. Âm thanh của kính vỡ chìm trong tiếng động cơ ầm ầm của chiếc trực thăng phía sau. Vài giây sau, cả toán đặc vụ đều đã ở trong nhà. Simkins hối hả chạy vào tiền sảnh, quỳ xuống bên Hartmann xem mạch. Không còn. Máu chảy khắp nơi. Rồi ông nhìn thấy cái tua vít cắm ở cổ Hartmann.
Chúa ơi! Ông đứng bật dậy, ra lệnh cho người của mình lục soát toàn bộ ngôi nhà.
Các đặc vụ tỏa ra khắp tầng một, tia sáng từ kính ngắm laser của họ chiếu xuyên qua bóng tối trong ngôi nhà sang trọng. Họ không tìm thấy gì trong phòng khách hay phòng làm việc, nhưng trong phòng ngủ, toán đặc vụ ngạc nhiên tìm thấy một nữ nhân viên an ninh bị giết. Simkins không mất hy vọng về việc Robert Langdon và Katherine Solomon còn sống. Tên sát nhân tàn bạo này rõ ràng đã bày ra một cái bẫy, và nếu hắn đã có thể giết chết một đặc vụ CIA và một nhân viên an ninh có vũ trang, thì có vẻ như một giáo sư và một nhà khoa học sẽ chẳng còn bất cứ cơ hội nào.
Sau khi kiểm tra xong tầng một, Simkins cử hai đặc vụ lên lục soát trên lầu. Trong lúc đó, ông tìm thấy một cầu thang dẫn xuống tầng hầm ở ngoài bếp và đi xuống. Xuống dưới chân cầu thang, ông bật đèn. Tầng hầm rất rộng và sạch bong, như thể hiếm khi được dùng tới. Nồi hơi, tường xi măng trần, vài cái thùng. Ở đây chẳng có gì cả. Simkins quay trở vào bếp cùng lúc người của ông từ trên tầng hai đi xuống. Tất cả đều lắc đầu.
Ngôi nhà hoàn toàn vắng tanh.
Không có ai trong nhà và cũng chẳng có thêm cái xác nào.
Simkins liên lạc với Sato, cập nhật tình hình không mấy sáng sủa này.
Khi ông ra tới tiền sảnh, Sato đã leo lên các bậc cấp dẫn tới cửa trước. Warren Bellamy ngồi một mình ngơ ngẩn trong chiếc trực thăng, dưới chân ông là chiếc ca táp vỏ titan của Sato. Chiếc máy tính xách tay bảo mật của bà Giám đốc Văn phòng An ninh cho phép bà truy cập vào các hệ thống máy tính của CIA trên khắp thế giới qua các đường truyền vệ tinh mã hóa. Trước đó, bà đã dùng máy tính này để chia sẻ với Bellamy những thông tin đủ khiến ông hoàn toàn hợp tác. Simkins không rõ Bellamy đã thấy những gì, song dù đó là gì đi nữa, vị Kiến trúc sư chắc chắn đã bị chấn động mạnh kể từ lúc ấy.
Khi bước vào tiền sảnh, Sato dừng lại một lát, cúi đầu nhìn thi thể Hartmann. Một giây sau, bà ngước mắt lên, nhìn chằm chằm vào Simkins. “Không có dấu vết nào của Langdon hay Katherine? Hay Peter Solomon?”
Simkins lắc đầu. “Nếu họ vẫn còn sống thì hắn đã mang họ đi theo rồi.”
“Ông có thấy máy tính nào trong nhà không?”
“Có, thưa bà. Trong phòng làm việc.”
“Cho tôi xem.”
Simkins dẫn Sato qua tiền sảnh và tiến vào phòng khách. Tấm thảm nhung trải sàn vương đầy mảnh vỡ từ tấm cửa kính lớn. Hai người đi qua một lò sưởi, một bức tranh lớn và vài giá sách tới cửa phòng làm việc. Căn phòng này được ốp ván gỗ, kê một bàn làm việc kiểu cổ và một màn hình máy tính lớn. Sato bước vòng ra sau bàn làm việc và nhìn lên màn hình, lập tức cau mày.
“Chết tiệt”, bà lẩm bẩm.
Simkins vòng ra sau bàn và nhìn lên màn hình. Trống trơn.
“Có gì không ổn sao?”
Sato chỉ vào một chỗ đặt máy tính bỏ trống trên bàn làm việc.
“Hắn dùng một máy tính xách tay. Hắn mang nó theo rồi.” Simkins không hiểu. “Hắn có thông tin bà muốn xem sao?”
“Không”, Sato đáp, giọng rất nghiêm trọng. “Hắn có thông tin tôi muốn không ai nhìn thấy.”
Dưới khu tầng hầm bí mật, Katherine Solomon nghe thấy tiếng cánh quạt trực thăng, tiếp theo là tiếng kính vỡ và tiếng ủng nặng nề giẫm lên sàn phía trên đầu. Bà cố hét lớn cầu cứu, nhưng bị nùm vải bịt kín miệng ngăn cản. Bà gần như không thể phát ra âm thanh nào. Càng cố gắng, máu từ khuỷu tay càng chảy nhanh hơn.
Katherine cảm thấy khó thở và hơi chóng mặt.
Bà biết mình cần bình tĩnh lại. Hãy sử dụng trí tuệ, Katherine. Bà tập trung hết cỡ để đưa mình vào trạng thái thiền định.
Tâm trí Robert Langdon bồng bềnh trôi nổi trong không gian trống rỗng. Ông nhìn chằm chằm vào khoảng trống vô tận, tìm kiếm điểm bấu víu. Nhưng không thấy gì.
Hoàn toàn tối đen. Hoàn toàn im lặng. Hoàn toàn bình yên.
Thậm chí còn không có cả lực hấp dẫn để ông biết đâu là phía trên.
Cơ thể ông đã tan biến.
Đây hẳn là cái chết.
Thời gian dường như đang biến dạng, không ngừng co giãn, như thể không hề có ý nghĩa gì với nơi này. Ông đã mất hết manh mối về thời gian.
Mười giây chăng? Hay mười phút? Hay mười ngày?
Tuy vậy, như những vụ nổ rực lửa tại các thiên hà xa xôi, ký ức bắt đầu định hình, lao về phía Langdon như những cơn sóng xung kích ào qua không gian trống rỗng vô tận.
Ngay lập tức, Robert Langdon bắt đầu nhớ ra. Những hình ảnh đâm xuyên qua ông, sống động và đầy ám ảnh. Một khuôn mặt phủ đầy hình xăm. Hai bàn tay mạnh mẽ nhấc đầu ông lên và nện mạnh xuống sàn.
Cơn đau bùng nổ rồi tất cả tối đen.
Ánh sáng xám xịt.
Đau nhói.
Từng mảnh ký ức mơ hồ. Langdon bị lôi đi, nửa mê nửa tỉnh, xuống, xuống mãi. Kẻ bắt giữ ông lẩm nhẩm cầu khấn gì đó.
Verbum significatium... Verbum omnificum... Verbum perdo...