• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Biểu tượng thất truyền
  3. Trang 117

Chương 112

K

atherine Solomon đang chấp chới trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê thì bị chấn động bởi dư chấn của một vụ nổ đinh tai.

Vài giây sau, bà ngửi thấy mùi khói.

Tai bà ong ong.

Có tiếng nói mơ hồ vang lên. Xa xăm. Tiếng la hét. Tiếng bước chân. Đột nhiên hô hấp chợt thông suốt hẳn. Nùm vải bịt miệng được kéo ra.

“Bà an toàn rồi”, một giọng đàn ông thì thầm. “Cố chịu đựng một chút nhé.”

Katherine chờ đợi người đàn ông này tháo kim truyền ra khỏi cánh tay mình, nhưng thay vì thế ông ta lại lớn tiếng ra lệnh. “Mang túi y tế tới... tiếp một túi truyền dung dịch tĩnh mạch vào kim... truyền dung dịch Ringer... đo huyết áp cho bà ấy.” Rồi người đàn ông bắt đầu kiểm tra tình trạng cơ thể của bà, và hỏi, “Bà Solomon, kẻ đã gây ra chuyện này... đi đâu rồi?”.

Katherine cố nói, nhưng không thể.

“Bà Solomon?”, giọng nói kia lặp lại. “Hắn đi đâu rồi?”

Katherine cố mở mắt, song cảm thấy mình đang lịm dần.

“Chúng tôi cần biết hắn đi đâu”, người đàn ông giục.

Katherine thì thào nói ba từ, dù biết chúng chẳng có ý nghĩa gì: “Ngọn... núi... thiêng”.

Giám đốc Sato bước qua cánh cửa thép vừa bị phá tung, bước xuống một lối đi dốc bằng gỗ dẫn tới tầng hầm bí mật. Một đặc vụ thuộc cấp tới gặp bà ở chân lối dốc.

“Giám đốc, tôi nghĩ bà muốn thấy cái này.”

Sato đi theo người đặc vụ vào một căn phòng nhỏ nằm cuối hành lang hẹp. Căn phòng sáng trưng và trống trải, ngoại trừ một đống quần áo dưới sàn. Bà nhận ra chiếc áo vest vải tuýt và quần của Robert Langdon.

Người đặc vụ chỉ tay về phía một cái hòm lớn trông giống như quan tài ở gần bức tường phía xa.

Cái quái gì vậy?

Sato đi lại gần cái hòm, nhận ra nó được nối với một đường ống nhựa trong suốt chạy xuyên qua tường. Bà giám đốc cảnh giác bước lại gần cái hòm.

Bà thấy có một nắp trượt nhỏ phía trên. Sato cúi xuống đẩy nó sang bên, một cái lỗ nhỏ lộ ra.

Bà giám đốc bật lùi lại.

Dưới lớp kính thủy tinh hữu cơ lập lờ khuôn mặt vô hồn của Giáo sư Robert Langdon..

Ánh sáng!

Không gian trống rỗng vô tận nơi Langdon đang lơ lửng đột nhiên tràn ngập ánh sáng lóa mắt. Những tia sáng chói chang xuyên qua bóng tối, chiếu thẳng vào tâm trí ông nóng rực.

Ánh sáng hiện diện khắp nơi.

Đột nhiên, trong đám mây rực rỡ trước mặt hiện ra một thân hình đẹp đẽ. Thân hình ấy mơ hồ và mờ nhạt, đôi mắt nhìn chăm chăm vào ông qua không gian trống rỗng. Từng vầng sáng bao quanh khuôn mặt, và Langdon tự hỏi liệu có phải ông đang nhìn thấy khuôn mặt của Chúa.

Sato nhìn chằm chằm vào trong hòm, tự hỏi liệu Giáo sư Langdon có biết chuyện gì đang xảy ra hay không. Bà ngờ là không. Nói cho cùng, gây mất phương hướng là mục đích chính của công nghệ này.

Hòm làm mất cảm giác đã được sử dụng từ những năm 1950, và vẫn là một cách thoát ly được ưa chuộng của những nhà thí nghiệm giàu có của Kỷ nguyên Mới. “Trôi nổi”, như người ta vẫn gọi, đem đến trải nghiệm quay ngược lại thời kỳ còn trong bụng mẹ... Một dạng hỗ trợ thiền định làm dịu hoạt động của não bộ bằng cách loại bỏ đi mọi tín hiệu các giác quan thu được - ánh sáng, âm thanh, sự tiếp xúc, và thậm chí cả tác dụng của trọng lực. Trong loại hòm truyền thống, người trải nghiệm sẽ nằm ngửa trong một dung dịch nước muối đặc, giữ cho khuôn mặt anh ta nổi lên mặt nước để có thể thở được.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, loại thiết bị này đã có bước tiến bộ nhảy vọt.

Perfluorocarbon oxy hóa.

Công nghệ mới này - được gọi là Thông khí Dung dịch Toàn phần (TLV[50]) - kì diệu tới mức rất ít người tin nó tồn tại.

[50] Viết tắt của “Total Liquid Ventilation”.

Chất lỏng dùng để thở.

Thở trong chất lỏng đã trở thành hiện thực từ năm 1966, khi Leland C. Clark thành công trong việc giữ cho một con chuột bị nhúng chìm vài giờ trong perfluorocarbon oxy hóa sống sót. Vào năm 1989, công nghệ TLV xuất hiện đầy ấn tượng trong bộ phim Vực thẳm, cho dù chỉ rất ít người nhận ra họ đang chứng kiến một thành tựu khoa học thực sự.

Phương pháp Thông khí Dung dịch Toàn phần ra đời nhờ nỗ lực của y học hiện đại nhằm giúp trẻ sơ sinh thiếu tháng hô hấp bằng cách đưa chúng trở lại trạng thái tương tự như trong bụng mẹ. Hai lá phổi của con người trải qua chín tháng trong tử cung nên đã quen với môi trường chất lỏng. Trước đây, perfluorocarbon quá đặc nên việc hô hấp khá khó khăn, song những đột phá hiện đại đã làm nó không khác gì nước.

Ban Khoa học và Công nghệ của CIA - vẫn được giới tình báo gọi là “những thầy phù thủy Langley” - đã nghiên cứu rất nhiều về các perfluorocarbon oxy hóa để phát triển công nghệ cho giới quân sự Mỹ. Các đội lặn sâu tinh nhuệ của hải quân nhận ra thứ dung dịch oxy hóa đó, thay vì các hỗn hợp heliox hay trimix thông thường, cho phép họ có thể lặn xuống độ sâu lớn hơn mà không gặp nguy cơ tai biến do áp suất. Tương tự, NASA và không quân nhận thấy các phi công được trang bị thiết bị thở bằng chất lỏng thay vì bình oxy truyền thống có thể chịu đựng lực G[51] tốt hơn nhiều so với thông thường vì chất lỏng làm lực G phân bố trong nội tạng đồng đều hơn so với chất khí.

[51] Gia tốc của một vật so với khi rơi tự do.

Sato nghe nói hiện nay có những “phòng thí nghiệm cực hạn”, nơi người ta có thể thử dùng những hòm Thông khí Dung dịch Toàn phần mà họ gọi là - “những cỗ máy thiền định”. Cái hòm này hẳn đã được lắp đặt cho trải nghiệm riêng của chủ nhân, song những cái chốt nặng trịch làm Sato nghi ngờ cái thùng này còn được dùng vào những chuyện đen tối hơn nhiều... như thẩm vấn - một kỹ thuật quá quen thuộc với CIA.

Phương pháp thẩm vấn bằng cách dìm nước có tiếng tăm chẳng hay ho gì nhưng lại rất hiệu quả vì nạn nhân thực sự tin anh ta đang chết đuối. Sato biết trong một số chiến dịch tuyệt mật, thiết bị làm mất cảm giác tương tự loại hòm này đã được dùng để nhấn mạnh thêm ảo giác về những bước kinh khủng hơn. Một nạn nhân bị nhấn chìm trong chất lỏng có thể bị “chết đuối” theo đúng nghĩa đen. Cơn hoảng hốt kết hợp với cảm giác chết chóc thường làm nạn nhân không nhận ra thứ chất lỏng anh ta đang hít vào hơi đặc hơn nước một chút. Khi chất lỏng tràn vào phổi, nạn nhân thường ngất đi vì sợ, rồi sau đó tỉnh lại trong trạng thái “bị biệt giam”.

Các chất gây tê tại chỗ, thuốc làm tê liệt và tạo ảo giác được trộn lẫn vào chất lỏng oxy hóa ấm đem tới cho nạn nhân cảm giác hồn lìa khỏi xác. Dù bộ não gửi lệnh để tứ chi cử động, nhưng chân tay đều không thể nhúc nhích. Bản thân trạng thái “chết” đã thật kinh hoàng, nhưng tình trạng mất phương hướng thực sự xuất phát từ quá trình “tái sinh”, trong đó, nhờ sự trợ giúp của ánh sáng cường độ cao, không khí lạnh và những âm thanh chói tai, mới thực sự gây đau đớn, ám ảnh. Sau vài lần sống lại rồi chết đuối, nạn nhân trở nên mất phương hướng đến mức không còn biết mình đang sống hay chết nữa... và sẽ nói cho người thẩm vấn biết bất cứ điều gì.

Sato định đợi đội y tế đến để đưa Langdon ra ngoài, song bà biết mình không có thời gian. Mình cần xem ông ta biết những gì.

“Tắt đèn đi”, bà ra lệnh. “Và tìm cho tôi mấy cái chăn.”

Thứ ánh sáng chói chang tắt phụt.

Cả khuôn mặt cũng biến mất.

Bóng tối quay trở lại, song Langdon có thể nghe thấy những tiếng thì thầm xa xăm vọng lại qua hàng năm ánh sáng trống rỗng. Những giọng nói nghèn nghẹt, những từ nghe không rõ. Và bây giờ có cả những rung động, như thể thế giới sắp sửa vỡ tung ra.

Rồi việc đó diễn ra.

Không hề báo trước, vũ trụ vỡ làm đôi. Một khe nứt khổng lồ mở toang trong hư không, như thể không gian đã bị đứt gãy tại các đường phân giới. Một màn sương mù xám xịt tràn qua khoảng hở, và Langdon nhìn thấy một cảnh tượng khủng khiếp. Những bàn tay đột nhiên vươn về phía ông, vồ lấy thân thể ông, cố lôi ông khỏi thế giới của mình.

Không! Ông cố chống lại chúng, nhưng ông không có tay hay nắm tay. Hay là có nhỉ? Đột nhiên ông định hình rõ cơ thể mình trong tâm trí. Thể xác ông đã trở lại và đang bị những bàn tay mạnh mẽ lôi lên trên. Không! Làm ơn!

Song đã quá muộn.

Cảm giác đau đớn lan ra khắp lồng ngực khi những bàn tay nhấc ông qua khoảng mở. Phổi ông như bị đổ đầy cát. Mình không thở được! Đột nhiên ông thấy mình nằm ngửa trên một mặt phẳng lạnh và cứng chưa từng thấy. Có thứ gì đó đang ép lên ngực ông, hết lần này tới lần khác, thật mạnh và đau. Ông đang nôn ra thứ gì đó âm ấm.

Mình muốn quay lại.

Langdon cảm thấy mình như một đứa trẻ vừa sinh ra từ bụng mẹ.

Ông vật vã, ho khạc chất lỏng. Lồng ngực và cổ đau dữ dội. Vô cùng nhức nhối. Cổ họng ông như bị thiêu đốt. Có tiếng người nói, cố gắng thì thầm thật khẽ, nhưng âm thanh ấy vẫn làm ông chói tai. Tầm nhìn của ông nhòe nhoẹt, và tất cả những gì ông thấy là hình dáng câm lặng. Da ông tê dại, hệt như một tấm da chết.

Ngực ông trở nên nặng nề hơn... áp lực. Mình không thở được!

Ông ho khạc ra nhiều chất lỏng hơn. Cảm giác buồn nôn trào lên dữ dội, ông cố nuốt ngược vào. Không khí lạnh buốt ùa vào phổi, và Langdon có cảm giác như mình là đứa trẻ sơ sinh vừa thở nhịp đầu tiên trong cuộc đời. Thế giới này thật đau khổ. Tất cả những gì Langdon muốn là quay trở lại bụng mẹ.

Không rõ bao nhiêu thời gian đã trôi qua, Robert Langdon mới nhận ra mình đang nằm nghiêng trên một mặt sàn cứng, người quấn trong khăn tắm và chăn bông. Một khuôn mặt quen thuộc đang chăm chú nhìn xuống ông, nhưng những luồng sáng chói lọi đã biến mất. Tiếng vọng của những lời rì rầm xa xa vẫn lưu lại trong tâm trí ông.

Verbum significatium... verbum omnificum...

“Giáo sư Langdon”, ai đó thì thầm. “Ông có biết mình đang ở đâu không?”

Langdon yếu ớt gật đầu, ông bắt đầu nhớ đến những gì đã diễn ra tối nay.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 116
  • 117
  • 118
  • More pages
  • 139
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 116
  • 117
  • 118
  • More pages
  • 139
  • Sau