• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Biểu tượng thất truyền
  3. Trang 90

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 89
  • 90
  • 91
  • More pages
  • 139
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 89
  • 90
  • 91
  • More pages
  • 139
  • Sau

Chương 85

S

ự biến đổi.

Chánh xứ Galloway nghe thấy mọi việc diễn ra, vì thế ông không cần phải nhìn.

Ở phía đối diện ông bên kia bàn, Langdon và Katherine đều lặng thinh, nhìn trân trối vào cái hộp đá lập phương vừa biến đổi ngay trước mắt họ.

Galloway không đừng được mỉm cười. Ông đã lường trước kết quả, và cho dù không rõ bằng cách nào biến cố này có thể giúp họ giải được câu đố của kim tự tháp, ông vẫn hứng thú tận hưởng cơ hội hiếm hoi để dạy một giáo sư biểu tượng học của Harvard điều gì đó về các biểu tượng.

“Giáo sư”, vị chánh xứ nói, “ít người nhận ra các hội viên Tam Điểm rất kính ngưỡng hình lập phương - hay aslar, như cách chúng tôi vẫn gọi nó, vì nó là hình ảnh lập thể ba chiều của một biểu tượng khác... một biểu tượng hai chiều lâu đời hơn rất nhiều”. Galloway không cần phải hỏi xem vị giáo sư có nhận ra biểu tượng cổ xưa đang nằm trước mắt họ trên mặt bàn lúc này hay không. Đó là một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất thế giới.

Dòng suy nghĩ của Robert Langdon quay cuồng khi ông nhìn chằm chặp vào cái hộp vừa biến đổi hình dạng trên mặt bàn, trước mắt mình. Mình không ngờ...

Vài giây trước, ông cho tay vào trong hộp đá, cầm lấy cái nhẫn Tam Điểm, và khẽ xoay nó. Khi xoay cái nhẫn đi ba mươi ba độ, hình lập phương đột ngột thay đổi trước mắt ông. Những mảnh vuông tạo nên các thành bên của hộp tách khỏi nhau khi các móc chốt được giấu kín rã ra. Cái hộp lập tức sụp xuống, các mặt bên và nắp rơi ra ngoài, đập mạnh xuống bàn.

a12

Hình lập phương trở thành một thập tự, Langdon nghĩ thầm. Thuật giả kim tượng trưng.

Katherine sững sờ trước cảnh tượng cái hộp sụp xuống. “Kim tự tháp Tam Điểm có liên quan tới... Ki-tô giáo sao?”

Trong giây lát, Langdon cũng đã tự hỏi điều tương tự. Nói cho cùng, cây thập giá Ki-tô giáo là một biểu tượng được tôn sùng trong Hội Tam Điểm, và chắc chắn có rất nhiều hội viên Tam Điểm là tín đồ Ki-tô giáo. Tuy vậy, các hội viên Tam Điểm cũng có thể là người theo Do Thái giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Hin-đu giáo, và cả những tôn giáo chưa được đặt tên. Sự hiện diện của một biểu tượng thuần túy Ki-tô giáo dường như bị hạn chế. Thế rồi ý nghĩa thực sự của biểu tượng này lóe lên trong đầu ông.

“Đây không phải là cây thập giá”, Langdon nói và đứng dậy. “Thập tự với biểu tượng vòng chấm ở giữa là một biểu tượng kép - hai biểu tượng kết hợp lại để tạo nên một biểu tượng.”

“Anh đang nói gì vậy?”, Katherine đưa mắt nhìn Langdon đang đi đi lại lại trong phòng.

“Cho tới tận thế kỷ IV”, Langdon nói, “thập tự mới trở thành một biểu tượng Ki-tô giáo. Trước đó rất lâu, nó được người Ai Cập dùng để đại diện cho sự giao cắt hai chiều giữa con người và thiên đường. Thượng hạ tương liên. Đó là một hình ảnh đại diện cho giao điểm nơi con người và thần thánh hợp làm một”.

“Vậy sao?”

“Chúng ta đều biết vòng chấm có rất nhiều nghĩa”, Langdon nói, “một trong những ý nghĩa ít phổ biến nhất là hoa hồng, biểu tượng của sự hoàn hảo trong giả kim thuật. Nhưng nếu đặt một hoa hồng vào trung tâm của một thập tự, ta sẽ tạo nên một biểu tượng hoàn toàn khác - Hồng hoa Thập tự”.

Galloway ngả người ra sau trên ghế, mỉm cười. “Ái chà chà.

Giờ thì giáo sư hiểu đúng vấn đề rồi đấy.”

Lúc này cả Katherine cũng đã đứng dậy. “Tôi đã bỏ sót điều gì chăng?”

“Hồng hoa Thập tự”, Langdon giải thích, “là một biểu tượng thường gặp trong triết lý Tam Điểm. Trên thực tế, một trong các cấp độ của Phân hội Scotland được gọi là “Hiệp sĩ Hồng hoa Thập tự”, nhằm vinh danh tổ chức Hồng hoa Thập tự nguyên thủy, từng có nhiều đóng góp cho triết lý huyền bí Tam Điểm. Chắc Peter cũng từng nói qua về tổ chức Hồng hoa Thập tự với chị. Có hàng chục nhà khoa học lớn là thành viên của nó - John Dee, Elias Ashmole, Robert Fludd...”.

“Chắc chắn rồi”, Katherine nói. “Tôi đã đọc hết các tuyên ngôn của Hội Hồng hoa Thập tự trong quá trình nghiên cứu.”

Tất cả các nhà khoa học nên làm thế, Langdon nghĩ. Giáo hội Hồng hoa Thập tự - hay chính xác đầy đủ hơn là Giáo hội Hồng hoa Thập tự Cổ xưa và Huyền bí - có một lịch sử kỳ bí ảnh hưởng rất lớn tới khoa học và đồng hành kề cận với truyền thuyết về các Bí ẩn cổ xưa... Những nhà thông thái nguyên thủy sở hữu các tri thức bí mật chỉ được nghiên cứu bởi những bộ óc sáng láng nhất để lưu truyền lại qua các thời đại. Cũng phải thừa nhận danh sách các thành viên nổi tiếng của Hồng hoa Thập tự trong lịch sử toàn là những nhà khai sáng lừng danh châu Âu thời Phục hưng: Paracelsus, Bacon, Fludd, Descartes, Pascal, Spinoza, Newton, Leibniz.

Theo tôn chỉ của Hồng hoa Thập tự, giáo hội “được xây dựng trên những chân lý bí truyền của quá khứ xa xưa”, những chân lý cần được “giấu kín trước những kẻ phàm tục” và hứa hẹn đem tới sự thấu hiểu sâu sắc về “thế giới tâm linh”. Theo năm tháng, biểu tượng của hội này luôn là một bông hồng đang nở rộ trên cây thập tự trang trí cầu kỳ, song khởi đầu, nó chỉ là một vòng tròn có dấu chấm ở giữa trên một thập tự không được trang hoàng - hình thức biểu hiện đơn giản nhất của hoa hồng trên hình thức biểu hiện đơn giản nhất của thập tự.

“Peter và tôi thường thảo luận về triết lý Hồng hoa Thập tự”, Galloway nói với Katherine.

Trong khi vị chánh xứ phác thảo ra mối quan hệ liên đới giữa chủ thuyết Tam Điểm và chủ thuyết Hồng hoa Thập tự, Langdon hướng sự chú ý trở lại ý nghĩ vẫn dai dẳng ám ảnh ông suốt buổi tối.Jeova Sanctus Unus. Cụm từ này có mối liên hệ nào đó tới thuật giả kim. Ông vẫn không thể nhớ được chính xác những gì Peter nói về cụm từ này, nhưng vì một lý do nào đó, việc nhắc đến chủ thuyết Hồng hoa Thập tự dường như lại thổi bùng suy nghĩ này lên. Nghĩ đi nào, Robert!

“Người sáng lập nên tổ chức Hồng hoa Thập tự”, Galloway nói, “được cho là một nhà huyền học người Đức, có bí danh Christian Rosenkreuz, có thể là của Francis Bacon. Một số sử gia tin Bacon chính là nhân vật sáng lập nên tổ chức này, dù không hề có bằng chứng về...”.

“Một biệt danh!”, Langdon đột nhiên thốt lên, khiến cả chính ông cũng giật mình. “Phải rồi! Jeova Sanctus Unus! Đó là một biệt danh!”

“Anh đang nói về chuyện gì thế?”, Katherine hỏi.

Langdon cảm thấy mạch mình đập nhanh hẳn lên. “Suốt cả buổi tối, tôi đã cố nhớ lại những gì Peter từng nói về Jeova Sanctus Unus cũng như mối quan hệ của cụm từ này với thuật giả kim. Cuối cùng tôi cũng nhớ lại được! Nói đúng ra thì không phải với thuật giả kim mà là với một nhà giả kim! Một nhà giả kim rất nổi tiếng!”

Galloway cười khùng khục. “Cũng đến lúc rồi, giáo sư. Tôi đã nhắc tới tên người đó hai lần, và cả từ biệt danh nữa.”

Langdon nhìn vị chánh xứ già chằm chằm. “Cha biết sao?”

“À, tôi cũng có có chút nghi ngờ khi giáo sư nói cho tôi biết hình khắc có nghĩa là Jeova Sanctus Unus, cũng như việc anh đã giải mã nhờ vào ma phương giả kim thuật của Dürer, nhưng đến khi anh tìm ra Hồng hoa Thập tự thì tôi chắc chắn. Có lẽ anh cũng biết, trong tư liệu cá nhân của nhà khoa học chúng ta đang nói tới có một bản sao tuyên ngôn Hồng hoa Thập tự được chú giải rất kỹ lưỡng.”

“Ai vậy?”, Katherine hỏi.

“Một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất thế giới!”, Langdon đáp. “Ông là một nhà giả kim, một thành viên Hiệp hội Hoàng gia London, một hội viên của tổ chức Hồng hoa Thập tự, và ông đã ký biệt danh lên một số tài liệu khoa học bí mật nhất của mình ‘Jeova Sanctus Unus’.”

“Đức Chúa Đích thực Duy nhất?”, Katherine nói. “Một quý ông khiêm tốn làm sao!”

“Thực ra là cực kỳ thông minh”, Galloway đính chính lại. “Ông ký tên mình như thế vì, giống như các nhà giả kim cổ đại lão luyện, ông hiểu bản thân mình chính là thần thánh. Thêm vào đó, cũng vì mười sáu chữ cái của cụm từ Jeova Sanctus Unus có thể sắp xếp lại thành tên ông trong tiếng Latin, biến cụm từ này trở thành một biệt danh hoàn hảo.”

Đến đây Katherine có vẻ mù mờ không hiểu. “Jeova Sanctus Unus là cụm từ tiếng Latin bị đảo lộn trật tự từ tên một nhà giả kim lừng danh sao?”

Langdon vớ lấy một tờ giấy và cây bút chì trên bàn làm việc của chánh xứ, vừa viết vừa nói. “Trong tiếng Latin, có thể đổi chữ cái J thành I, chữ cái V thành U, nghĩa là Jeova Sanctus Unus thực sự có thể sắp xếp lại thành một cái tên hoàn hảo.”

Langdon viết lên giấy mười sáu chữ cái: Isaacus Neutonuus.

Ông đưa tờ giấy cho Katherine và nói, “Tôi nghĩ chị biết ông ấy”.

“Isaac Newton ư?”, Katherine hỏi lại, nhìn xuống tờ giấy. “Đó là điều hình khắc trên kim tự tháp đang cố nói với chúng ta sao?”

Trong chớp mắt, Langdon lại hình dung ra mình ở trong tu viện Wesminster, đứng trước ngôi mộ hình kim tự tháp của Newton, nơi ông đã trải nghiệm khoảnh khắc tương tự. Và tối nay, nhà khoa học vĩ đại lại xuất hiện một lần nữa. Tất nhiên, đây chẳng phải là trùng hợp ngẫu nhiên... Kim tự tháp, những bí ẩn, khoa học, tri thức bí truyền... tất cả đều đan xen vào nhau. Tên tuổi Newton luôn là cột chỉ đường cho những người tìm kiếm tri thức bí mật.

“Isaac Newton”, Galloway nói, “chắc chắn phải có gì đó liên quan tới cách giải mã ý nghĩa kim tự tháp. Tôi không hình dung ra được là cách nào, nhưng...”.

“Tuyệt vời!”, Katherine thốt lên, hai mắt mở to. “Đó chính là cách chúng ta biến đổi kim tự tháp!”

“Chị hiểu rồi sao?”, Langdon nói.

“Phải!”, bà nói. “Tôi không tin nổi chúng ta không nhìn ra nó! Nó vẫn luôn hiển hiện ngay trước mắt chúng ta. Một quá trình giả kim đơn giản. Tôi có thể biến đổi kim tự tháp này bằng cách sử dụng khoa học cơ bản! Khoa học Newton!”

Langdon căng óc cố hiểu.

“Chánh xứ Galloway”, Katherine nói. “Cha đọc trên mặt nhẫn, trên đó ghi...”

“Dừng lại!” Vị chánh xứ già đột ngột giơ ngón tay lên ra dấu im lặng. Rồi ông nhẹ nhàng nghiêng đầu sang bên, như thể đang lắng nghe gì đó. Vài giây sau, ông vụt đứng dậy. “Các bạn, kim tự tháp này hiển nhiên vẫn còn chứa đựng nhiều bí mật cần được khám phá. Tôi không biết cô Solomon đã hiểu ra điều gì, nhưng nếu cô biết được bước tiếp theo của hai người, vậy thì tôi cũng coi như hoàn thành bổn phận. Hãy thu dọn đồ của các vị và đừng nói gì thêm với tôi nữa. Lúc này hãy cứ để tôi trong bóng tối. Tôi sẽ không muốn bị những vị khách của chúng ta ép buộc phải chia sẻ thông tin này.”

“Khách ư?”, Katherine nói, rồi lắng tai nghe. “Con không nghe thấy ai cả.”

“Rồi cô sẽ nghe thấy”, Galloway nói, hướng ra phía cửa. “Nhanh lên!”

Ở bên kia thành phố, một trạm điện thoại đang cố bắt liên lạc với một chiếc di động đã vỡ tan tành trên đại lộ Massachusetts. Không tìm thấy tín hiệu, nó chuyển cuộc gọi sang tin nhắn thoại.

“Robert!”, giọng Warren Bellamy hốt hoảng gọi lớn. “Anh ở đâu? Gọi cho tôi ngay! Một chuyện khủng khiếp đang xảy ra!”