“Một điều có vẻ như mỉa mai bản thân tôi không có bằng đại học nhưng Microsoft lại gần như chỉ muốn thuê những người có bằng đại học. [Bởi vì] Chúng tôi tin rằng sự trưởng thành và tri thức mà trường đại học trao cho chúng ta là vô giá. Chúng tôi đã thấy rằng những người theo học khoa văn đang đưa vào trong công việc những tri thức rộng lớn hơn về thế giới.”
“Tôi đã từng nói và sẽ vẫn nói rằng, “Hãy vào đại học!”
Bill Gates, 1996
“Ngày nay, các công cụ truyền thông đa phương tiện, cũng như sách giáo khoa trước kia, không thể thay thế thầy cô giáo hay cha mẹ và cũng không thể làm cho việc đọc sách ngày càng trở nên kém quan trọng đi. Nhưng hình ảnh và âm thanh sẽ hỗ trợ rất nhiều trong việc giáo dục. Tôi luôn là một người lạc quan. Tôi tin rằng trẻ con lớn lên trong điều kiện được tiếp cận với các nguồn tài nguyên này sẽ còn giữ được tính tò mò khao khát hiểu biết kể cả khi đã lớn. Thỉnh thoảng tôi nhận được thư của trẻ em nói rằng chúng muốn giống như tôi khi lớn lên. Nhưng khi tôi nhìn những gì có thể sắp xảy ra trong vài năm tới tôi lại ước gì mình là một cậu bé đang trưởng thành.”
Bill Gates 1995
Không giống những nhà tư bản khổng lồ như Vua Thép Andrew Carnegie hay các nhà phát minh vĩ đại như Thomas Edison thuở trước vốn xuất thân từ nơi bần hàn, Bill Gates, chào đời năm 1956, trong một gia đình thượng trung lưu. Cha của Gates, ông William Henry Gates, là một luật sư rất thành công, và mẹ của Gates, bà Mary, là con gái một chủ ngân hàng, có chân trong hội đồng quản trị của nhiều học viện, tổ chức từ thiện và ngân hàng. Gia đình Gates sống trong một ngôi nhà rộng lớn, đầy đủ tiện nghi ở tiểu bang Seattle, trông ra hồ Washington. Ba anh em nhà Gates là Kristi, lớn hơn Bill một tuổi và Libby, nhỏ hơn Bill chín tuổi, được cha mẹ chu cấp đầy đủ mọi thứ.
Bill Gates rất hãnh diện về cách nuôi dạy con cái của cha mẹ mình và anh mong sẽ theo gương cha mẹ trong việc áp dụng tinh thần cởi mở cũng như kỷ luật khi nuôi dạy những đứa con của anh. Nhưng bản thân Gates không phải là đứa trẻ ngoan ngoãn, dễ dạy. Người ta nói rằng khi vào lớp 6, cậu bé Bill nổi tiếng là một đứa trẻ ương ngạnh, đặc biệt là đối với mẹ, đến nỗi phải có giáo viên tham vấn riêng. Gates kể rằng anh rất thích việc kèm cặp này một phần là do giáo viên tham vấn đã đưa cho Gates đọc những quyển sách về tâm lý có nội dung vượt quá tầm hiểu biết của một học sinh 12 tuổi. Khi được đối xử như người lớn, rõ ràng tính khí của Bill có phần dịu đi, nhưng đến cuối năm học, theo báo Time, chuyên gia tâm lý này thẳng thừng tuyên bố với mẹ của Gates rằng chuyện lèo lái được Gates chẳng khác gì chuyện đội đá vá trời vì tính hiếu thắng quá mức của cậu bé. Ðồng thời người này cũng nói rằng chính mẹ của Gates phải tự lo uốn nắn con mình. Thực tế thì ở cả hai phía, mẹ và con, đều có những sự nhượng bộ lẫn nhau, vì khi Gates lớn lên, anh càng trở nên gần gũi với mẹ mình nhiều hơn.
Vào cấp II, Gates học trường Lakeside, một trường tư thục tại Seattle. Theo lời cha của Gates thì Gates là một học sinh “bé nhỏ và nhút nhát”, mặt khác ông cũng cảm thấy rằng chỉ trường tư mới có thể là nới thích hợp hơn trong việc đáp ứng nhu cầu trí tuệ rất năng động của Gates. Chính tại trường Lakeside, Gates đã gặp Paul Allen, người mà chỉ 7 năm sau cùng với Gates lập ra công ty Microsoft. Khi quen nhau, Gates 12 tuổi còn Allen lớn hơn 2 tuổi, Gates cũng thừa nhận rằng ở tuổi thiếu niên, chênh lệch hơn hai tuổi mà kết bạn với nhau thì cũng là chuyện lạ. Tuy nhiên cả hai có những sở thích giống nhau, đặc biệt các chàng trai đều mê mẩn với cái máy tính trạm (computer terminal) mà Câu lạc Bộ Các Bà Mẹ Học Sinh đã mua cho trường. Câu Lạc Bộ này cũng quyên tiền để mua giờ truy cập máy chủ cho học sinh. Chiếc máy tính này thậm chí không có cả màn hình, học sinh phải chờ kết quả làm việc của mình được in ra bằng một cái máy in rệu rạo, kêu lách kách đến inh cả tai.
Cha và mẹ của Bill Gates
Và Gates đã viết chương trình đầu tiên trên chính cái máy này năm 13 tuổi. Ðó là một trò chơi carô trên máy tính mà thật ra dùng giấy bút chơi thì sẽ nhanh hơn nhiều, nhưng chỉ vậy thôi các cậu nhỏ cũng đã lấy làm sướng mê khi cảm thấy có “sức mạnh” sai khiến được một cái máy làm theo lệnh của mình. Gates, Allen và cậu bé khác – Kent Evans, bạn thân nhất của Gates – lập ra Nhóm Những Nhà Lập Trình trường Lakeside. Cái tên nghe có vẻ người lớn này đã giúp bọn trẻ kiếm được một việc làm thực sự vào những lúc rãnh: viết chương trình tính lương cho một công ty nhỏ ở Seattle. Chúng đã học cách trở thành những nhà kinh doanh ngay từ khi còn rất trẻ nhưng rồi nhanh chóng phải đương đầu với một thảm kịch của người lớn: Kent Evans chết trong một tai nạn leo núi. Gates nói, “Cả hai tuần liền tôi không làm nổi một việc gì.”
Gates bên cạnh thiết bị đầu cuối Teletype rệu rạo của trường Lakeside, là chiếc máy cậu học trò Gates đã viết các chương trình đầu tiên của mình vào năm lớp 8
Sau cái chết của Kent, Gates và Allen càng thân nhau hơn. Cả hai tìm thấy niềm vui thú trong một số lần hợp tác với nhau. Trong số đó là lần viết chương trình trò chơi Risk – mặc dầu những người chỉ trích Gates thường lấy làm khoái trá khi hay viện dẫn mục đích của trò chơi này để kết luận rằng Gates đã có ý muốn thống trị thế giới từ khi còn nhỏ. Nhưng hai cậu bé chỉ đang trong quá trình học tập – và họ học rất nhanh – rồi liền đó đem áp dụng những kinh nghiệm tích lũy được vào công việc thảo chương trình cho các công ty trong vùng. Những chuyện “bạo gan” này đã lần hồi giúp Gates cảm thấy tự tin hơn và ngày càng biểu hiện nhiều phong thái đĩnh đạc trong cách giao tiếp của mình, một điều chắc hẳn đã làm hài lòng mẹ của Gates vì bà là người rất coi trọng phẩm chất đó. Gates rất thích nhắc lại lần được giao vai diễn chính trong vở hài kịch của trường mình dựa trên tác phẩm Black Comedy của Peter Shaffer. Vai này trước kia vốn đã từng được Tom Courtenay – một diễn viên nổi tiếng trong bộ phim Nỗi Cô ơn Của Kẻ ộc Hành – thủ diễn tại Hội Diễn Văn Nghệ Chichester ở Anh. Trong một bài báo, Gates làm dập tắt hoàn toàn ý kiến cho rằng mình có một “trí nhớ cực kỳ chính xác” nhưng lại nói rằng mình còn nhớ đầy đủ từng lời trong vở Black Comedy sau 25 năm. Gates giải thích là vì quá lo rằng sẽ quên trong khi đang diễn nên đã “khắc ghi mọi lời thoại” vào trong óc mình.
Có một công việc Gates và Paul Allen đã làm mà ngày nay những tay hacker trẻ đều mơ đến. Một công ty nọ đồng ý mua máy với điều kiện là tiền sẽ được trao chỉ khi máy tính hoàn toàn không có một sai sót nào. Gates nhớ lại, “Công ty này đã tiết kiệm vô khối tiền bằng cách cho tiền chúng tôi để tìm cách vô hiệu hóa hệ thống của họ - một điều mà tất cả các lập trình viên trẻ tuổi đều thích.” Tuy nhiên, Gates cũng cảnh cáo rằng ngày nay những việc làm như thế là phạm pháp. Bill và Allen cùng một học sinh khác đã thực hiện một việc làm thêm khác trong kỳ nghỉ hè và cả bọn được trả một số tiền mà Gates coi là “khổng lồ” – 5.000 đôla – mặc dù một phần số tiền này được quy đổi thành giờ sử dụng máy tính thay vì tiền mặt. Sau đó Gates còn nhận viết chương trình xếp thời khóa biểu cho trường mình và bằng cách “thêm vài dòng lệnh” Gates khám phá thấy mình gần như là con trai duy nhất trong một lớp toàn là con gái. Phần nào, có thể chính cái kiểu “nổi trội” này đã khiến cho một số bạn đồng môn nhớ về anh không mấy thiện cảm...
“Kể từ sau cái thời 13 tuổi thích nghiên cứu các phần mềm siêu nhỏ, tôi đã làm rất nhiều việc. Tôi đã trở thành một người viết phần mềm giỏi nhưng tôi vẫn thường nhờ những bậc thầy khác xem xét lại và chỉ bảo thêm cho tôi biết chỗ nào có thể sửa cho tốt hơn và làm cách nào để viết khác đi. Tôi đã nâng lên một đẳng cấp mới. Khi Microsoft ra đời có rất nhiều bạn bè thân thiết thách thức nhau, “Các anh có thể hoàn thiện bộ mã này không? Các anh có thể làm cho nó tốt hơn không?” Ðó là thời kỳ của những con người tuyệt vời, yêu thích sự tinh xảo, thuộc về một thế giới hoàn toàn khác hẳn.”
Bill Gates, “Trong Công Ty Của Những Người Khổng Lồ”, tác giả Rama Dev Jager và Rafael Ortiz, 1997
Cả Gates và Allen đều xác nhận giống hệt nhau rằng bước đầu hợp tác kinh doanh thật sự của họ diễn ra vào mùa hè năm 1972. Trong tạp chí Electronics, ở những trang gần cuối, Paul Allen đọc được một bài báo nói về bộ xử lý 8008 của Intel. Ðây là vi mạch điện tử (chip) thứ hai của Intel, mạnh gấp hai lần vi mạch đầu tiên công ty này sản xuất vào năm trước đó. Ngay lập tức Allen nhận ra một điều rằng những vi mạch này sẽ ngày càng mạnh hơn. Quả thực là vào năm 1965 người đồng sáng lập ra hãng Intel là Gordon Moore đã tiên đoán rằng mỗi năm những vi mạch sẽ tăng sức chứa lên gấp đôi. Lời tiên đoán này trở thành sự thật và đến cuối những năm 1970, các kỹ sư đã bắt đầu nói đến định luật Moore, khi mà sức mạnh của bộ vi xử lý tăng theo cấp số nhân trong khi thời gian chỉ tăng theo cấp số cộng.
Băng giấy này – chứa chương trình do Bill Gates, Paul Allen và Monte Davidoff viết bằng ngôn ngữ BASIC – là bước đi khởi đầu của công ty Microsoft
“BASIC trở thành ngôn ngữ máy tính phổ biến nhất và dễ có nhất không phải vì nó được cung cấp miễn phí. Sức mạnh của BASIC – sự đơn giản trong việc dùng biên dịch, khả năng xử lý chuỗi hiệu quả, sự phong phú của ngôn ngữ này, các từ khóa và cú pháp tương tự như tiếng Anh thường sử dụng, và sự thoái mái cho phép các nhà lập trình thử nghiệm – tất cả góp phấn làm cho người mới học lập trình muốn khám phá những sự phức tạp của máy tính.”
Bill Gates, nhân k niệm 25 năm ngôn ngữ BASIC, 1989
Mùa hè năm 1972, Gates và Allen đặt mua một bộ vi xử lý 8008 với giá 360 đôla. Trước đó, Gates đã nghĩ đến việc tạo ra một dạng ngôn ngữ lập trình theo kiểu BASIC (Beginner’s Allpurpose Symbolic Instruction Code) để chạy con chip này, nhưng rồi Gates nhận thấy nó không đủ mạnh vì vi mạch này vẫn chưa chứa đủ số bản dẫn (transistor) cần thiết. Nhưng họ đã có thể dùng nó để chạy chương trình phân tích lưu lượng xe cộ do họ viết ra, và mơ tưởng sẽ bán được các máy tính ứng dụng cho mục đích này. Ðể thực hiện điều đó, họ thành lập công ty đầu tiên lấy tên là Traf-O-Data. Paul Allen nhận xét rằng công ty “không thành công lắm”. Những máy tính mẫu của họ dẫu hoạt động rất tốt nhưng không hấp dẫn được khách hàng. Trên thực tế, việc các nhà thiết kế là những “chú nhóc” có lẽ đã không mấy gây ấn tượng nơi người mua. Dẫu sao cả hai cũng có được một số ít khách hàng quan tâm đến chính chương trình này, nhưng điều quan trọng nhất ở Traf-O-Data là học hỏi được nhiều kinh nghiệm kinh doanh thực tiễn.
Trong thời gian này, Allen đã hoàn tất trung học ở Lakeside và sắp vào đại học Washington. Gates thực hiện phần công việc lập trình cho Traf-O-Data trong khi đang đáp xe buýt đi ngao du khắp tiểu bang để bàn bạc với các bạn bè và đối tác kinh doanh. Ðến năm Gates xong trung học (1973), Allen cũng chán học đại học và có ý định cùng Gates lập một công ty mới – một công ty với mục tiêu lớn hơn Traf-O-Data. Nhưng cha mẹ của Gates thì kiên quyết muốn Gates phải theo học ở trường đại học Harvard. Theo lời Gates, anh đã luôn được điểm cao nhất từ năm học lớp 9 khi anh bắt đầu tâm niệm là “mình phải được toàn điểm A mà không cần về nhà học bài”. Khi Gates lọt vào trong số 10 học sinh đứng đầu cả nước trong kỳ thi năng khiếu về toán thì giai đoạn hiếu thắng của Gates cũng chấm dứt.
Người ta đã thêu dệt nhiều chuyện về những việc “phạm quy” mà chàng sinh viên Gates làm ở Harvard ví dụ như đi nghe giảng ở những lớp anh không ghi danh học và, ngược lại, trốn học ở những lớp ghi danh của mình. Nhưng thực ra những hành vi kiểu này ở Harvard không hề bị xem là khác thường. Ở trường đại học này, các sinh viên sẽ được tham dự trong những lớp học tổ chức theo kiểu hội thảo nhỏ trong đó chú trọng đến phần thảo luận của sinh viên, nhưng mặt khác điểm số mới là yếu tố quyết định chứ không phải là việc sinh viên đến lớp hay không hoặc học hành theo cách khác. Gates thừa nhận rằng thói quen chờ “Nước đến chân mới nhảy” – nấn ná cho đến gần kỳ thi rồi mới học cật lực – mà Gates áp dụng ở Harvard không phải là một tiền lệ tốt cho lĩnh vực kinh doanh.
Altair 8800 là một máy điện toán nhỏ được công ty Micro Instrumentation Telemetry Systems (MITS) (New Mexico) giới thiệu vào năm 1975. Máy tính Altair được thiết kế dựa trên bộ vi xử lý 8 bit: Intel 8080, kích thước bộ nhớ RAM là 256 byte, nhận dữ liệu nhập (input) thông qua một hàng nút tắt/mở từ một bảng đặt ở phía trước và hiển thị thông tin kết quả (output) bằng một dãy đèn LED. Máy được bán chủ yếu theo nguyên bộ. Mặc dù có tuổi thọ ngắn nhưng Altair đã được xem như là chiếc máy điện toán “cá nhân”thành công đầu tiên của nhân loại.
Máy Altair trở nên nổi tiếng sau khi được đăng tin ngay trang bìa của tạp chí Popular Electronics, ấn bản tháng 1/1975. Không ai có thể ngờ mức độ hồi đáp mạnh mẽ từ thông tin này: MITS chỉ mong là bán được 200 chiếc (con số đủ để hòa vốn) nhưng thay vào đó lại nhận được hàng ngàn đơn đặt hàng chỉ riêng trong năm đầu tiên.
Với giá bán lẻ là 397 USD, Altair được coi là còn rẻ tuy nhiên người dùng phái mất nhiều thao tác chỉ để khởi động và chạy nó. Bất chấp việc được tiếp thị như là một bộ máy tính hoàn chỉnh, Altair đòi hỏi người sử dụng phải tương đối thành thạo về k thuật thì mới mong biến nó thành chiếc máy hữu ích. Một khi đã được cấu trúc đầy đủ. Máy tính Altair vận hành và làm sáng các bóng đèn gắn ở bảng điều khiển phía trước cùng lúc với chương trình mà người dùng phải nhập vào máy bằng cách thao tác các nút tắt/mở cũng nằm trên bản này.
Tính cách tân đáng kể nhất của máy điện toán Altair là có các khe (slot) được chừa sẵn bên trong máy, cho phép người dùng gắn thêm các bo mạch điện tử do các hãng khác sản xuất. Kết quả là đa số các công ty chế tạo bộ vi xử lý đầu tiên có thể bắt tay vào việc sản xuất các bo mạch mới hoặc tốt hơn cho máy tính Altair. “Cấu trúc mở” này dẫn đến một k nguyên mới trong việc phát triển máy vi tính.
Mùa thu năm 1974, khi Gates học năm thứ hai, Paul Allen lái chiếc xe Chrysler cũ mèm lặn lội đến công ty Honeywell gần Boston nhận một công việc lập trình. Ðiều đó có nghĩa là Allen và Gates có thể cùng đàm đạo ngày đêm cho vấn đề cả hai cùng tâm huyết là tương lai của máy tính và ngôi thứ mà giờ đây cả hai chắc chắn sẽ đạt được trong cái thế giới đặc thù này. Nhưng việc thư từ qua lại cũng không mang đến cho họ điều gì mới mẻ lắm. Cho đến một hôm, trước khi Gates về nhà nghỉ lễ Giáng Sinh, tình cờ họ đọc được tờ báo Popular Electronics số tháng 1 năm 1975. Hai người bạn chăm chú đọc tờ báo khi đang đứng trong cái lạnh ghê người tại một sạp báo ở Quảng Trường Harvard. Dòng tít lớn ngay trên trang bìa đập vào mắt họ, “Một Dự Án ột Phá! Máy Vi Tính ầu Tiên Của Thế Giới Dành Cho Các Mô Hình Thương Mại Cạnh Tranh...! “Altair 8800”. Tiết kiệm hơn 1000 đôla.”
Altair là tên của một vì sao xa xôi trong dải Ngân Hà bỗng dưng được hàng triệu người biết đến chỉ vì nó đã được con tàu Enterprise trong bộ phim khoa học viễn tưởng Star Trek viếng thăm. Hai chàng thanh niên thấy rằng Altair chẳng khác gì một món đồ chơi nho nhỏ, với các công tắc tắt mở và những bóng đèn chớp tắt. Ðây không phải là một phát minh tầm cỡ vì nó không có bàn phím, cũng không có màn hình hiển thị và không có phần mềm nào để chạy. Nhưng họ sửng sốt khi phát hiện trong Altair có con chip 8800 mới do Intel tung ra vào mùa xuân trước, mạnh gấp 10 lần con chip 8008 mà họ đã dùng cho chương trình Traf -O- Data. Một nỗi buồn xâm chiếm tâm tư của cả hai khi thấy rằng tương lai họ đang ước mơ lại xảy ra mà không cần đến họ, rằng rốt cuộc cũng đã có người viết được những chương trình chính hiệu cho vi mạch này, biến Altair 8800 trở thành một cái gì đó hơn là một món đồ chơi bình thường. Còn hiện thời trong tay họ không hề có lấy một máy vi tính Altair cũng chẳng có nỗi con chip 8800. Trong tự truyện Con Ðường Phía Trước, Gates kể rằng Paul Allen “nghiên cứu tài liệu hướng dẫn sử dụng chip 8800 và viết một chương trình để một máy tính Altair nhỏ bé. iều này giống như dùng một dàn nhạc khổng lồ để chơi một bản nhạc hát bè đôi đơn giản. Tuy nhiên Allen đã làm được.” Sau đó hai người đã bỏ ra năm tuần lễ làm việc cật lực, gần như quên ăn quên ngủ, để viết một chương trình bằng ngôn ngữ BASIC cho máy vi tính Altair.
Kế đó họ tìm cách thuyết phục MITS, công ty sản xuất Altair, để bán chương trình này. MITS là một công ty rất nhỏ, tọa lạc tại một khu vực “khỉ ho cò gáy” ở Albuquerque thuộc tiểu bang New Mexico. Nhưng Gates và Allen không quan tâm: họ đã đặt chân được vào những gì mà họ tin rằng sẽ là tương lai của nền công nghệ điện toán. MITS mời Allen làm việc cho họ và dành cho hai chàng trai một chỗ trong văn phòng của công ty đặt tại một thương xá. Allen từ bỏ công việc ở Honeywell; và Gates nghỉ học ở Harvard. Gates đã bàn bạc thấu đáo với cha mẹ mình về quyết định này. Nhận thấy rõ năng lực và quyết tâm thành lập công ty riêng của Gates, cha mẹ anh chiều theo ý nguyện của con trai. Nhưng xem ra, cho mãi về sau Gates thấy rằng việc bỏ học ở Harvard của anh vẫn thường xuyên được đem ra thảo luận. Ðề tài này được nêu ra trong các cuộc phỏng vấn dành cho anh và trong nhiều lá thư từ các chuyên gia điện toán trẻ gởi về cho cột báo do anh phụ trách để chất vấn về việc bỏ học này. Gates luôn khẳng định rằng anh hài lòng với ngôi trường Harvard, và cảnh báo cho những người nào tự cho mình đủ thông minh để bỏ học chỉ vì sự thành công của anh. Gates nhấn mạnh rằng mình nghỉ học phần lớn là nhìn thấy thời vận của mình đang tới – một thời kỳ hoàn toàn mới sắp mở ra và Gates tin rằng mình có thể giữ một vai trò quan trọng trong thời kỳ đó. Gates quá khiêm tốn, hay quá khôn khéo, để không bộc bạch rằng mình có một thiên tài mà không ai cũng có được. Nói rộng ra hơn, Gates cố gắng chứng tỏ cho thấy mình có khá nhiều điều thuận lợi và đã được giáo dục tương đối kỹ lưỡng về khoa xã hội nhân văn.
Paul Allen, đồng sáng lập công ty Microsoft
Kể từ khi cùng với Bill Gates sáng lập công ty Microsoft vào năm 1975, Paul G. Allen đã luôn là người đi đầu trong việc mở ra những hướng mới cho ngành công nghiệp máy vi tính. Ông giữ chức vụ Phó Chủ Tịch điều hành phụ trách nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới cho Microsoft mãi tới năm 1983. Ngày nay, ông vẫn là một cổ đông chính và có chân trong ban giám đốc của Microsoft.
Paul Allen sở hữu và đầu tư vào một loạt các công ty khám phá tiềm năng trong ngành truyền thông đa phương tiện k thuật số. Chiến lược kinh doanh của Allen là tìm cách khuyến khích việc liên lạc và điều phối các hoạt động giữa các công ty của ông để có được những lợi ích hỗ tương. Các công ty do ông sở hữu toàn phần gồm Asymetrix Corporation, Starwave Corporation, Vulcan Ventures Inc, và the Paul Allen Group of Bellevue, Washington; Internet Research Corp, thuộc Palo Alto, California và Ticketmaster Corporation ở Los Angeles, California. Ông cũng là chủ nhân của đội bóng chày Portland Trail Blazers, là người nắm giữ trọng trách đối với Seattle Seahawks NFL, là thành viên đối tác của phim trường Dreamworks SKG và là người đang đầu tư vào hơn 25 công ty k thuật khác trên khắp nước M.
Ngoài ra, Allen còn phụ trách bốn qu từ thiện mang tên ông, Allen Charitable Foundations, và là người sáng lập tổ chức Experience Music Project (nguyên là Bảo tàng Jimi Hendrix) ở Seattle.
Cả Gates và Allen đều có một số vốn nhỏ khi họ khởi đầu sự nghiệp. Allen dành dụm được một số tiền kha khá trong thời gian làm việc cho Honeywell. Về phần Gates. Về phần Gates, ngoài số tiền kiếm được bằng việc lập trình trong các mùa hè qua, đã kiếm chác được bộn tiền nhờ đánh bài poker ở Harvard – một điều mà Gates dừng như rất tự hào với một vẻ gần như trẻ con. Lẽ dĩ nhiên, lúc đó, nói gì thì nói Gates vẫn chưa trưởng thành gì mấy – anh mới 19 tuổi – còn Allen chỉ lớn hơn Gates hai tuổi. Theo Gates, ở các quốc gia khác, trong cả hai môi trường kinh doanh và công luận, những thanh niên tuổi đời còn rất trẻ không được đón tiếp và động viên nhiều như ở Hoa Kỳ, do đó Gates tự cho rằng mình may mắn đã sinh ra ở Hoa Kỳ vào đúng thời đại, mình thích hợp cho tài năng của anh.
Cho đến giờ không ai biết đích xác cái tên Microsoft là ai khai sinh. Với Gates thì anh nói rằng chính mình là người nghĩ ra cái tên đó, nhưng với Allen, thậm chí khi trả lời phỏng vấn chung với Gates, thỉnh thoảng đã gieo cho người nghe ấn tượng rằng anh mới là người nắm quyền quyết định tối hậu trong việc đặt tên cho công ty. Dẫu sao lúc đầu công ty mang một cái tên hơi khác một chút: MicroSoft. Gates thuật lại với tạp chí Fortune rằng trong phần nêu tên tuổi những người đóng góp công trạng trong bộ mã nguồn của sản phẩm đầu tiên chi là “MicroSoft BASIC: Bill Gates viết phần lớn chương trình, Paul Allen viết một số phần còn lại.” Họ cũng đã dự tính đặt tên là công ty Allen và Gates nhưng kinh nghiệm của IBM và một số công ty khác đã cho họ thấy rằng một cái tên chung chung sẽ có lợi về sau, ít nhất là trong ngành máy vi tính. Họ cho rằng cái tên Allen và Gates nghe giống như một công ty tư vấn pháp luật nhiều hơn. Mãi đến năm 1981 họ mới thống nhất tên gọi Microsoft.
Thông tin về công ty Traf-O-Data in trên đầu các trang thư hiếm hoi còn sót lại.
“Những công ty sản xuất phần mềm bắt buộc phải đánh bài liều trong một thị trường vẫn còn mù mờ vì gần như không thể nào yêu cầu các khách hàng tiên đoán dùm xem họ có muốn mua một sản phẩm mới mà họ chưa từng biết đến hay không. Những công ty phần mềm thành công điều không thể được vượt qua điều không thể được. Chúng tôi không còn cách nào khác là phải tiêu hết số tiền chúng tôi có thể tạo ra một sản phẩm trước khi mang bán với hy vọng rằng người ta sẽ mua sản phẩm đó.”
Bill Gates, 1997 ở Albuquerque họ tiếp tục sống như những sinh viên thực thụ, thi thoảng cũng có đi xem phim, nhưng hầu hết thời gian là làm việc và thường kéo dài đến khuya. Gates không chỉ ngủ dưới gầm bàn mà có khi còn ngủ gật trong các buổi họp. Allen thì đi về nhừ trọ của cả hai để ngủ nhưng thường bị dựng dậy giữa đem vì những cú điện thoại của Gates. Cả hai đều thừa nhận rằng họ đã học hỏi kinh nghiệm kinh doanh khi làm việc chung với nhau. Tất cả mọi quyết định đều được cả hai nhất trí, thường là phải sau nhiều giờ tranh luận, nhưng Allen luôn là người đưa ra ý tưởng sản phẩm mới trong khi Gates lo việc kinh doanh. Trong những ngày này cả hai đều tham gia viết chương trình nhưng gần như mọi trường hợp Allen là người đảm nhận phần viết còn Gates lại bộc lộ một năng khiếu đặc biệt trong việc xử lý các trục trặc.
Lâu nay báo chí vẫn kể rằng quan hệ giữa Gates và Allen đã có lúc suýt tan vỡ. Ðiều này xảy ra ngay vào những ngày đầu hợp tác. Lúc ấy cả hai còn đang học tại trường Lakeside, Allen có lần nhận được hợp đồng viết một chương trình và anh định làm một mình. Nhưng rốt cuộc, Allen thấy rằng mình cần phải có mã nguồn của Gates. Báo Times kể rằng Gates đã trả lời, “ ược, tôi tham gia. Nhưng tôi phải chịu trách nhiệm chính và tôi sẽ phải quen với vai trò lãnh đạo. Từ nay đừng mời tôi làm việc nếu không để tôi lãnh đạo.” Mặc dù sau đó họ còn đụng độ với nhau nhiều trận nẩy lửa nữa nhưng cả hai đều nói rằng thời kỳ ở Albuquerque hầu như không có cãi vã. Có lẽ một phần là do họ quá phấn khởi hoặc do quá bận rộn nên không rảnh hơi để gấu ó với nhau.
Không phải một sớm một chiều họ mới nhận ra rằng lâu nay với giá bỏ thầu thật rẻ - đang được họ áp dụng nhằm bảo đảm ký được hợp đồng viết chương trình với các công ty như Texas Instruments – là có thể thoải mái tăng lên mà không chút âu lo. Hóa ra là hấu hết các công ty đều sẵn lòng bỏ ra số tiền cao hơn nhiều so với những gì họ đòi. Có lần họ đã bỏ thầu một công việc ở Texas Instrument với giá 99.000 đôla chỉ vì họ không có gan để nâng lên tới giá sáu con số. Nhưng họ nhanh chóng vượt qua sự ngại ngùng đó vì họ biết một điều rằng các đối thủ cạnh tranh không thể nào làm việc đó tốt hơn hay nhanh hơn họ được.
Thế nhưng, cùng lúc họ cũng khám phá ra là họ nhận hợp đồng thực hiện những sản phẩm mà ngay lúc đó họ vẫn chưa có kinh nghiệm nào, mặt khác còn phải cố gắng chứng tỏ mình thực sự giỏi hơn so với các đối thủ khác. Ðã có lần công ty Ricoh của Nhật phải cử riêng một nhân viên đến văn phòng của họ, chỉ với việc duy nhất là ngồi ngay đó để bảo đảm rằng hai chàng trai không được làm bất kỳ việc nào khác và phải tập trung giải quyết xong công việc đã quá hạn của Ricoh. Do dám nhận lời viết những chương trình mà họ chưa suy nghĩ cặn kẽ về nó nên hai chàng trai không những phải vận dụng tối đa khả năng trí tuệ của mình mà còn xem đó như là sự thách thức của bản thân để chứng tỏ cả hai luôn vượt trội hơn các đối thủ cạnh tranh của họ trên nhiều phương diện. Ngày nay, chúng ta thường nghe thấy nhiều lời chỉ trích về nền công nghiệp điện toán nói chung, và về công ty Microsoft nói riêng, cho rằng bản chất cạnh tranh gay gắt trong ngành công nghiệp này đã dẫn đến một thói quan hứa hão và huênh hoang về những tính năng mới mà thực sự không có gì nổi bật. Microsoft là công ty thường xuyên bị kết tội là loan truyền về những tính năng mới mà họ chưa hề để mắt đến chỉ với mục đích là hù dọa các đối thủ cạnh tranh. Một số đối thủ của Microsoft vẫn thường mỉa mai, “Thấy không, từ hồi còn ở Albuquerque họ đã làm thế rồi.” Nhưng Microsoft nói rằng ngày nay họ không còn như vậy nữa, đồng thời Gates và Allen cũng vạch ra cho thấy trong thuở ban đầu đó, nền công nghiệp phần mềm quá sơ khai đến mức chẳng có gì lạ lùng khi người ta phải hỏi một nhà sản xuất phần cứng là họ cần gì và rồi đồng ý cung cấp, dù đó chỉ là những ý tưởng hết sức sơ sài, khái quát về cách hoàn thành các yêu cầu. Các nhà sản xuất phần mềm lúc ấy đang đứng trước miền đất lập trình còn rất hoang sơ, và việc khai phá miền đất này thường có nghĩa là phải gật đầu chấp thuận một số điều kiện trong khi đường đi nước bước dẫn qua khu rừng rậm này vẫn chưa được khai thông. Ðiều cần thiết là họ phải tìm đủ mọi cách “chui chủi để tìm ra được một con đường thông suốt cho mình.
Trong khi việc phát triển các phần mềm mới chắc chắn không tránh khỏi những khủng hoảng thì giai đoạn đáng sợ nhất trong những trang sử đầu tiên của Microsoft hóa ra là những vấn đề thuộc về lĩnh vực kinh doanh. Hợp đồng đầu tiên mà họ ký với MITS có điều khoản yêu cầu công ty này bán chương trình Gates/Allen BASIC cho khách hàng của họ và Microsoft không được bán trực tiếp cho người dùng. Ðiều này thoạt đầu nghe có vẻ khôn ngoan vì nó giúp Microsoft bớt đi công sức bán hàng. Nhưng bản hợp đồng chỉ ghi là yêu cầu MITS phải “hết sức cố gắng” để bán được sản phẩm, và thực tế là chỉ một thời gian ngắn sau đó họ gần như bỏ mặc và không hề có một chút cố gắng nào trong việc bán hàng cả. Hậu quả là phần mềm Gates/Allen BASIC bị “đạo chích” thoải mái và hầu như ai ai cũng có thể sao chép được một cách vô tội vạ.
Hai bên đưa nhau đến trọng tài kinh tế để yêu cầu MITS phải tôn trọng hợp đồng. Nhưng việc phân xử này kéo dài đến 9 tháng, và trong khi chờ quyết định cuối cùng. MITS ngưng trả tiền cho Microsoft. Gates và Allen nói thẳng rằng MITS muốn họ phải “chết đói”. Vì không có tiền, thậm chí là tiền để thuê luật sư, Microsoft suýt chút nữa phải chấp nhận hòa giải, nhưng lòng kiên trì của họ cuối cùng đã được đền bù khi trọng tài ra phán quyết hoàn toàn nghiêng về phía họ. Nếu như thua trong vụ phân xử này thì họ chẳng còn con đường nào khác ngoài việc phải bắt đầu lại từ đầu. Cả hai đều cho rằng thời kỳ đó thật đáng sợ, nhưng cuối cùng thì nó cũng dạy cho họ một bài học kinh doanh quí giá là phải làm chủ lấy chính vận mệnh của mình. Từ đó về sau trong mọi hợp đồng kinh doanh họ đều đưa vào những điều khoản bảo đảm an toàn cho họ. Người ta thường kết tội Microsoft là quá cứng rắn đến mức độ tàn nhẫn, nhưng Gates và Allen đã học được một bài học cay đắng là phải “cứng rắn để tồn tại”.
Kazuhiko (Kay) Nishi nguyên là chủ tịch công ty phần mềm ASCII (Nhật). Trở thành Phó Chủ Tịch khu vực Viễn ông của Microsoft vào cuối thập niên 70 và đến cuối thập niên 80 là Giám ốc kiêm PCT phụ trách các công nghệ mới
Thời gian này, nhiều công ty khác cũng bắt đầu tham gia vào thị trường máy tính cá nhân, kể cả Commodore và Radio Shack, nhưng chỉ có Apple II là thật sự cất cánh. Ðến cuối năm 1978, MITS, một công ty nhỏ bé với tài năng và tầm nhìn hạn hẹp, đã bị bỏ rơi lại phía sau. Cũng trong năm 1978, Gates hợp tác với một doanh nhân dám nghĩ dám làm người Nhật tên là Kazuhiko Nishi, hay còn gọi là Kay. Kay tiếp xúc với Microsoft và ngay lập tức anh ta cùng với Gates, cả hai cùng tuổi với nhau, trở thành một cặp bài trùng. Trong quyển Con ường Phía Trước, Gates mô tả Kay là một người “khoa trương”. Gates không có cá tính này nhưng rõ ràng anh rất thích tính cách này nơi đồng nghiệp mới. Qua sự trung gian của Kay, gần một nửa công việc kinh doanh của Microsoft được hợp đồng với các công ty Nhật. MITS lúc này đang lu mờ dần nên không còn lý do gì để họ nấn ná ở Albuquerque cả. Vào ngày đầu tiên của năm 1979, Gates và Allen chuyển công ty về quê nhà Seattle, tại một vùng ngoại ô có tên Belvue. Lúc đó họ có khoảng 12 nhân viên và hầu hết đều chấp nhận theo về Seattle.
Công ty Microsoft năm 1978. Ở hàng cuối cùng, bên phải là Paul Allen và bên trái là Bill Gates.
Steve Ballmer Tổng Giám ốc (CEO) Công ty Microsoft từ tháng 1/2000
Steve Ballmer gia nhập Microsoft Corporation vào năm 1980 và đã nắm giữ nhiều trọng trách trong công ty này. Trong đó bao gồm chức vụ phó chủ tịch phụ trách phần mềm hệ thống với trách nhiệm chỉ đạo việc phát triển, tiếp thị và thử nghiệm phần mềm hệ thống.
Khi còn giữ vai trò Phó Chủ Tịch điều hành phụ trách công việc mua bán và hỗ trợ, Steve Ballmer là người chịu trách nhiệm thúc đẩy mọi mọi hoạt động liên quan đến doanh số, hỗ trợ và tiếp thị của công ty Microsoft. Chính ông là người đã tạo dựng ra mô hình mới, có tính qui mô, về dịch vụ khách hàng trong thập niên 90, xây dựng và duy trì các mối giao tiếp lâu bền với khách hàng.
Ballmer theo học ở ại học Harvard và sau khi lấy được bằng về toán ứng dụng và kinh tế học, ông về làm trợ lý giám đốc sản xuất cho hãng Procter and Gamble. Sau đó ông ghi danh học thêm ở trường Thương Mại Stanford.
Ballmer có chân trong Ban Giám Sát của H Harvard và Hội ồng Cố Vấn của trường Stanford Business School. Ông dùng thì giờ rảnh rỗi của mình để tập thể dục, chạy bộ và chơi bóng chày.
Nằm thu mình ở Seattle, công ty nhanh chóng lớn mạnh. Ðầu năm 1980, công ty có 35 nhân viên. Lúc này Gates và Allen biết rằng cần phải có thêm người cho bộ phận quản trị. Ðồng thời hai người không đủ sức kiểm tra tất cả các bộ mã được viết ra nữa. Gates quyết định tìm đến người bạn cũ trong hai năm theo học ở Harvard là Steve Ballmer. Vào năm học thứ hai, Gates và Steve sống cùng một dãy phòng với nhau ở ký túc xá và học chung một lớp dạy môn toán và kinh tế học. Ballmer có lần đã kể với báo Time là Gates thường “chơi bài poker tận 6 giờ sáng, sau đó tôi gặp anh ta tại bữa điểm tâm và chúng tôi bắt đầu thảo luận về toán ứng dụng.” Cũng như nhiều người khác, Ballmer cho rằng Gates là người thông minh nhất mà anh từng gặp. Nhưng lúc đầu anh ta còn phân vân, không biết có nên về làm cho Microsoft không. Sau khi tốt nghiệp Harvard, Ballmer về làm giám đốc phụ trách phát triển sản phẩm cho Procter & Gamble, sau đó đăng ký học kinh doanh ở đại học Stanford, California. Khi Gates tìm đến thì Ballmer chỉ vừa học được một năm và cho rằng tốt hơn nên học cho đến khi lấy xong bằng. Gates nhờ mẹ mình, một người rất giỏi thuyết phục, đến nói chuyện với Ballmer, đồng thời Gates lôi kéo Ballmer bằng cách để anh được quyền tham gia sở hữu Microsoft. Ðến năm 1995, Ballmer có 5% cổ phần, trị giá 2,7 tỉ đôla và kể từ đó, giá trị cổ phần của ông ta về thực chất đã tăng lên rất nhiều lần.
“Nếu bạn cho rằng mình là một lập trình viên giỏi, hoặc nếu bạn muốn thử thách kiến thức của mình thì hãy tìm đọc quyển Nghệ Thuật Lập Trình Máy Tính của Donald Knuth. Hãy sẵn sàng giải quyết các vấn đề trong đó. Bản thân tôi đã không ngờ là phải tự đặt ra khuôn phép và phải mất nhiều tháng để đọc cuốn này. Tôi đọc mỗi lần khoảng 20 trang rồi gấp sách lại cất đi. Khoảng một tuần sau mới giở ra và đọc tiếp 20 trang nữa. Nếu bạn có thể đọc được hết thì tôi sẽ nhận bạn vào làm cho Microsoft.”
Bill Gates, 1995
Cả Gates và những người quan sát trung lập khác đều thừa nhận rằng Ballmer đóng vai trò quan trọng trong thành công của công ty, Ballmer càng sát cánh hơn với Gates, làm rễ phụ trong đám cưới của Gates ngày 1 tháng 1 năm 1994. Nhưng thời gian đầu, sau khi Ballmer đến Microsoft, quan hệ của cả hai đã không được xuôi chèo mát mái cho lắm. Chỉ sau ba tuần làm việc để làm quen với cơ chế hoạt động của Microsoft, Ballmer khẳng định rằng công ty ngay lập tức cần phải tuyển thêm 17 người đồng thời phải chuẩn bị tuyển thêm 50 người khác trong một thời gian ngắn sau đó. Gates hết sức kinh hoàng. Anh chỉ muốn công ty mình “thanh mảnh và thèm ăn”. Vì đã chứng kiến nhiều công ty khác phá sản nhanh chóng nên Gates muốn Microsoft phải dự trữ một lượng tiền mặt khá lớn, có thể đủ sức chống chỏi trong vòng một năm cho dù không thu về được đồng nào trong suốt thời gian đó.
Ballmer rất kiên quyết trong vấn đề tuyển thêm người. Ngoài ra, Ballmer còn tỏ ra vô cùng tức giận khi thấy khả năng phán đoán của mình bị nghi ngờ - ngay sau khi được mời tham gia để có thể đưa ra những kiểu quyết định như vậy – đến mức anh dọn ra khỏi căn nhà mà anh và Gates đang thuê chung với nhau. Ðến nước này, bố của Gates phải nhảy vào để dàn xếp mọi việc. Gates dịu đi và chấp nhận việc tuyển thêm người. Ðây là một quyết định hết sức đúng đắn vì chẳng bao lâu sau, công ty đã phải tuyển thêm nhiều, và thật nhiều người mới nữa.
“Bạn không thể chỉ chăm chú nhìn vào tình trạng thị trường của ngày hôm nay và hôm qua. Bạn còn phải nhìn xem nơi mà tình trạng này có lẽ sẽ hướng đến và bạn phải xét thêm nơi có thể đến đó dưới tác động của một số hoàn cảnh mà nó có thể phải hứng chịu; và rồi lúc đó bạn hãy lèo lái công ty của mình dựa trên những dự đoán tốt nhất bạn có”
Business @ the Speed of Thought