Ngày xửa ngày xưa, có một ông vua nọ, ông có một vị đại thần thường xuyên che đậy, giấu giếm làm rất nhiều điều sai trái. Cuối cùng, nhà vua cũng phát hiện ra và quyết định trừng phạt tội lỗi của viên quan đó. Nhà vua nói với quan đại thần:
- Nếu ngươi có thể tìm ra một con dê béo mà không có chút mỡ nào thì ta sẽ tha tội cho ngươi.
Viên đại thần này cũng có chút thông minh. Ông ta dắt một con dê đến cột ở một nơi cỏ non, nước mát để nuôi. Đồng thời, mỗi ngày ba bận sáng, chiều, tối, ông ta lại xua một con sói đến dọa cho con dê này sợ chết khiếp. Cứ vậy, viên quan nuôi cho con dê béo tròn nhưng nó lại chẳng có chút mỡ nào cả.
Khi viên quan dắt con dê đến dâng lên nhà vua, nhà vua hỏi ông làm cách nào mà có thể tìm được một con dê như vậy.
Viên đại thần thành thực tâu bày mọi chuyện. Sau đó, nhà vua tha tội cho viên quan.
Vô thường cũng đáng sợ như con sói ấy vậy. Ngay cả các đấng Bồ Tát(1) đứng trên ngũ dục(2), tuyệt không có lòng tham ác, nhưng cũng lấy vô thường làm lẽ soi tỏ. Cũng tựa như nhìn thấy con sói hư không vô thường vừa có thể làm tiêu tan “mỡ” dục vọng, vừa cũng lại làm phì nhiêu tấm thân công đức của pháp tánh(3).
Ghi chú:
(1) Bồ Tát (菩薩) là từ viết tắt của Bồ Đề Tát Đỏa (菩提 薩埵 - Bodhisattva). Bồ Tát là những đấng có lòng từ bi và trí tuệ, cứu độ chúng sinh, sẵn sàng nhận mọi khổ đau của chúng sinh, hồi hướng phúc đức của mình cho kẻ khác. Trong Phật giáo có rất nhiều Bồ Tát, trong số đó, Quán Thế Âm Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát… là chư vị Bồ Tát thường được nhắc đến hơn cả.
(2) Ngũ dục (五欲) là năm sự ham muốn bao gồm “sắc, thanh, hương, vị, xúc” (色聲香味觸). Sắc dục là ưa thích sắc đẹp; thanh dục là thích nghe lời hay; hương dục là mê đắm hương thơm; vị dục là ham ăn món ngon; xúc dục là ham muốn đụng chạm. Ngoài ra, ngũ dục còn có “tài, sắc, danh, thực, thùy” (財色名食睡). Tài dục là ham muốn của cải; sắc dục là tham đẹp, mỹ miều; danh dục là cầu mong địa vị; thực dục là ham muốn ăn uống; thùy dục là tham muốn ngủ nghỉ.
(3) Pháp tánh (法性 - dharmatā), còn được gọi là Pháp tự nhiên (法自然), một thuật ngữ nhà Phật chỉ đặc tính cố hữu nội tại bản chất của Pháp (dhárma), cũng như bản tính (prakrti) của Pháp, một trong hai tự tính (自性) của chư Pháp (諸法).