NHẬT KÝ CỦA ÉDOUARD (Tiếp)
"28 tháng Chín - Ta đã gặp Rachel ở bậc cửa phòng học lớn dưới tầng trệt của ký túc xá. Hai người đầy tớ đang lau sàn. Bản thân cô cũng mặc tạp dề đầy tớ, tay cầm giẻ lau.
- Cháu biết là có thể trông cậy vào ông, - cô vừa nói vừa giơ bàn tay ra với vẻ mặt buồn buồn, nhẫn nhục, song tuy thế vẫn tươi tỉnh, còn gây xúc động hơn cả nhan sắc. - Nếu không vội lắm, ông nên lên gác ghé thăm ông cháu, rồi thăm mẹ cháu trước đã thì hơn. Ông cháu và mẹ cháu sẽ buồn lắm nếu biết ông đến mà không lên thăm. Nhưng ông phải dành ra một chút thì giờ đấy; thế nào cháu cũng phải nói chuyện với ông. Ông sẽ gặp lại cháu ở đây; ông thấy đấy cháu đang trông nom công việc.
Hình như do ngượng ngùng thì phải, nên không bao giờ cô nói: em làm việc. Rachel lẩn mình đi suốt cả cuộc đời, và chẳng có gì kín đáo hơn, khiêm tốn hơn là đức hạnh của cô. Đức quên mình trở thành tự nhiên đối với cô đến nỗi chẳng ai trong gia đình biết ơn cô về sự hy sinh suốt cả đời mình. Đó là tâm hồn phụ nữ đẹp đẽ nhất mà ta được biết ở trần gian.
Lên đến lầu hai, vào phòng cụ Azaïs. Ông già chẳng mấy khi rời khỏi chiếc ghế bành của mình. Cụ bảo ta ngồi xuống bên cạnh và hầu như lập tức nói với ta về cụ La Pérouse.
- Tôi lo ngại khi biết cụ sống có một thân một mình và muốn thuyết phục cụ đến ở ký túc xá. Bác biết, chúng tôi là chỗ bạn cũ của nhau. Mới đây tôi đã đến thăm cụ. Tôi e rằng bà lão thân yêu của cụ đến sống ở nhà an dưỡng Sainte-Périne làm cho cụ buồn lắm. Chị đầy tớ của cụ cho tôi biết là hầu như cụ chẳng ăn uống gì. Ta cho rằng thông thường chúng ta ăn uống quá nhiều, nhưng dẫu sao cũng nên giữ điều độ, do đó có thể đi đến thái quá theo cả hai chiều. Cụ bảo là nấu nướng cho cụ làm gì vô ích khi chỉ có một mình cụ; nhưng nếu dùng bữa cùng với gia đình tôi, nhìn thấy mọi người ăn uống, chắc cụ cũng sẽ thấy ngon miệng. Tại đây cụ sẽ gần đứa cháu nội dễ thương của cụ, mà nếu không, chắc cụ chẳng mấy khi có dịp đến thăm; vì từ phố Vavin đến phố Ngoại ô Saint - Honoré là cả một chặng đường. Vả chăng tôi chẳng muốn để thằng bé ra phố một mình ở Paris này lắm đâu. Tôi biết cụ Anatole de La Pérouse từ lâu. Cụ bao giờ cũng độc đáo. Đấy không phải là một lời trách móc; nhưng tính cụ hơi cao ngạo, và tôi có mời cụ đến ở chắc cụ cũng chẳng nhận lời nếu không lăn lưng ra làm việc cho tôi để bù đắp lại ít nhiều. Vì vậy tôi tính là có thể đề nghị cụ làm giám thị cho các lớp học, công việc này chẳng mệt nhọc là bao mà lại có tác dụng tốt làm cho cụ được khuây khỏa, được lãng quên đi chút ít. Cụ là người giỏi về toán học, và khi cần có thể kèm phụ đạo về hình học hoặc đại số. Bây giờ cụ chẳng còn học trò, các đồ đạc và cây đàn dương cầm chẳng dùng làm gì nữa, cụ có thể tống khứ đi; và vì đến ở đây khỏi phải mất tiền thuê nhà cũ, tôi nghĩ là chúng tôi rất có thể thỏa thuận với nhau về một khoản tiền trọ nho nhỏ để cụ được thoải mái hơn và khỏi áy náy là chịu ơn tôi nhiều quá. Bác nên cố gắng thuyết phục cụ, và đừng để chậm quá, vì với chế độ ăn uống tồi tệ của cụ, tôi sợ rằng cụ nhanh chóng bị suy yếu. Vả chăng, hai hôm nữa là khai giảng rồi; cũng nên dứt khoát xem có thể trông cậy ở cụ được không... và về phía cụ xem có thể trông cậy ở chúng tôi được không.
Ta hứa sẽ đến thưa chuyện với cụ La Pérouse ngày hôm sau. Ngay lập tức, như cất được gánh nặng:
- Này! Cậu thanh niên Bernard, người được bác che chở, thật tử tế quá. Cậu ta đã đề nghị được tới đây để giúp đỡ những công việc lặt vặt; cậu nói là có thể trông nom việc học hành ôn tập, nhưng tôi e rằng bản thân cậu ta còn hơi quá ít tuổi và chưa làm được cho học sinh kính nể. Tôi đã trò chuyện một hồi lâu với cậu và thấy cậu rất dễ thương. Chính với những kẻ có tính cách như thế mà người ta rèn luyện được thành những tín đồ Cơ Đốc giáo ưu tú. Quả đáng tiếc là nền giáo dục ban đầu đã làm cho tâm hồn ấy bị lệch hướng. Cậu ta đã thú thật với tôi là không có đức tin, nhưng cậu nói ra điều đó bằng một giọng khiến lòng tôi tràn đầy hy vọng. Tôi đã trả lời hy vọng tìm thấy ở cậu tất cả những phẩm chất cần thiết để đào tạo thành một người lính nhỏ trung hậu của Chúa Christ, và cậu phải để tâm hồn sao cho có thể phát huy được những tài năng mà Thượng đế đã gửi gắm vào cậu. Chúng tôi đã cùng nhau đọc lại lời thánh dạy và tôi tin rằng hạt giống tốt không rơi xuống mảnh đất xấu. Cậu tỏ ra xúc động khi nghe tôi nói, và hứa với tôi là sẽ suy nghĩ.
Bernard kể với ta về cuộc trò chuyện ấy rồi; ta đã biết rõ ý của anh, nên thật nặng nề đối với ta khi lại phải ngồi nghe cụ nói. Ta đã đứng lên để cáo từ, nhưng hai bàn tay cụ cứ níu giữ bàn tay ta giơ ra:
- Này! Bác ạ; tôi đã gặp lại cháu Laura! Tôi biết là đứa cháu thân thương ấy đã ở cả tháng với bác trong miền núi đẹp; ở nơi ấy, nó có vẻ khá lên nhiều. Tôi rất mừng được biết nó lại trở về với chồng; vợ vắng nhà lâu thế, chắc chồng nó bắt đầu khổ sở rồi đấy. Tiếc một nỗi là do bận công việc nên chồng nó không sang được bên ấy để gặp vợ và gặp bác.
Ta ngày càng khó chịu vì chẳng biết Laura đã nói gì với cụ, nên rút tay để ra về, nhưng cụ dứt khoát kéo giật lại và cúi người sát vào tai ta:
- Laura đã thổ lộ với tôi là nó có thai, nhưng suỵt!... Nó chưa muốn mọi người biết tin này. Tôi nói điều đó với bác vì tôi biết là bác biết cả rồi, và vì cả tôi và bác đều là người kín đáo. Con bé tội nghiệp hết sức ngượng ngùng và đỏ dừ cả mặt khi kể với tôi; nó dè dặt lắm cơ. Thấy nó quỳ xuống trước mặt tôi, hai ông cháu tôi liền cùng cảm tạ Thượng đế đã gia ơn ban phước lành cho cuộc hôn nhân ấy.
Theo ta, Laura đừng thổ lộ điều đó vội thì hơn, nàng cũng chưa đến bước buộc lòng phải thổ lộ. Giá nàng hỏi ý kiến ta thì ta đã khuyên là đợi gặp lại Douviers rồi sau nói gì hãy hay. Cụ Azaïs chẳng hiểu gì hết; nhưng mọi người trong gia đình cụ sẽ không khờ khạo như cụ đâu.
Cụ già còn biểu diễn vài biến tấu nữa về những đề tài khác nhau rồi bảo ta là con gái cụ sẽ rất vui mừng được gặp lại ta, và thế là ta quay xuống lầu của ông bà Vedel.
Ta đọc lại những điều trên đây. Nói về cụ Azaïs như vậy, ta làm cho chính ta trở thành bỉ ổi. Ta hiểu rõ như thế, và ta thêm mấy dòng này để Bernard đọc trong trường hợp tính tò mò dễ thương của anh lại thôi thúc anh chúi mũi vào quyển vở này. Anh mà tiếp tục lui tới gặp cụ là sẽ hiểu ngay ta muốn nói gì. Ta yêu quý cụ vô cùng, và “thêm vào đó” như anh nói, ta kính trọng cụ: nhưng hễ cứ gần cụ là ta không thể tự nhận thức được mình nữa; vì thế mà trò chuyện với cụ, ta cảm thấy khá nhọc nhằn.
Ta rất yêu mến con gái cụ là bà mục sư. Bà Vedel giống nàng Elvire của Lamartine31; một nàng Elvire đã già nua. Bà chuyện trò chẳng phải là không có duyên. Bà thường nói không hết câu, điều đó đem lại cho tư duy của bà vẻ mờ mờ rất nên thơ. Tính chất không rõ ràng và dở dang gợi nên cái vô biên. Bà chờ đợi ở kiếp sau tất cả những gì không có được ở thế gian này; do vậy, bà có thể mở rộng những mong ước của mình đến vô cùng vô tận. Bà lấy đà vươn lên trên mảnh đất bị thu hẹp của mình. Vì rất ít khi thấy mặt ông Vedel nên bà có thể tưởng tượng là mình yêu ông. Người đàn ông đáng kính đó lúc nào cũng vội đi vì hàng ngàn công việc đòi hỏi, nào thuyết giáo, nào hội nghị, nào thăm hỏi người nghèo, người ốm. Ông ta chỉ bắt tay mọi người khi nhân tiện đi ngang qua mà thôi, nhưng vì thế mà lại càng thắm thiết hơn.
31 Lamartine (1790 - 1869): Nhà thơ Pháp.
- Hôm nay bận quá không nói chuyện được.
- Ô hay! Ta sẽ gặp nhau trên trời, - ta bảo ông, nhưng ông chẳng có thì giờ kịp nghe ta nói.
- Nhà tôi chẳng còn có lúc nào dành cho bản thân mình nữa, - bà Vedel thở dài. - Ông mà biết hết tất cả các công kia việc nọ nhà tôi hứng lên trên vai từ khi... Người ta biết là nhà tôi chẳng từ chối bao giờ, nên ai cũng... Buổi tối về đến nhà, đôi khi ông ấy mệt phờ đến nỗi tôi hầu như chẳng dám hỏi han, vì sợ làm cho... Ông ấy dốc lòng dốc sức với người khác đến mức chẳng còn lại gì cho vợ con nữa.
Và trong khi bà nói, ta nhớ lại vài lần ông Vedel về nhà hồi ta còn ở ký túc xá. Ta thấy ông hai tay ôm đầu và kêu ré lên sau một chút nghỉ ngơi. Ngay từ hồi đó ta đã nghĩ rằng ông ta mong được nghỉ ngơi thì ít mà có lẽ sợ phải nghỉ ngơi thì nhiều, và hình như chẳng gì khổ sở đối với ông hơn là có được một chút thời gian để suy nghĩ.
- Ông dùng một tách trà nhé? - Bà Vedel hỏi ta trong khi cô bé đầy tớ bưng một khay trà đến.
- Thưa bà, đường không còn đủ nữa ạ.
- Ta đã bảo mày là đường thì phải hỏi cô Rachel cơ mà. Đi mau lên... Mày đã báo cho các cậu ấy biết chưa?
- Cậu Bernard và cậu Boris đi vắng ạ.
- Thôi được! Thế còn cậu Armand?... Nhanh chân lên. Rồi không đợi cho cô bé đầy tớ đi ra:
- Con bé tội nghiệp này từ Strasbourg đến đấy. Nó chẳng có... Người ta buộc lòng phải nói hết với nó... Kìa! Mày còn đợi gì nữa?
Cô đầy tớ quay lại như con rắn bị người ta giẫm phải đuôi:
- Ở dưới nhà có ông giáo phụ đạo muốn lên gác ạ. Ông ta bảo là nếu chưa được trả tiền công, ông ta sẽ không đi ạ.
Nét mặt bà Vedel biểu lộ một nỗi buồn phiền thê thảm.
- Tao còn phải nhắc đi nhắc lại bao nhiêu lần nữa là không phải tao phụ trách các việc thanh toán? Mày bảo ông ta đến gặp cô. Đi đi!... Chẳng có lấy được một tiếng đồng hồ yên tĩnh! Tôi thật tình chẳng còn biết Rachel nghĩ đến cái gì nữa.
- Chúng ta không đợi cô để cùng uống trà ư?
- Nó có uống trà bao giờ đâu... Chà! Cái ngày khai trường này làm chúng tôi bận tâm quá. Các thầy giáo phụ đạo đến xin việc đòi những giá tiền quá đáng, hoặc khi giá cả chấp nhận được thì lại không chấp nhận được chính bản thân họ. Cha tôi đã phải than phiền về ông thầy phụ đạo mới đây nhất; cha tôi tỏ ra quá nhu nhược với ông ta; thế là bây giờ chính ông ta làm già. Ông đã nghe con bé nói rồi đấy. Bọn họ toàn chỉ nghĩ đến tiền... cứ như thể chẳng còn có gì quan trọng hơn ở trên thế gian này... Trong khi chờ đợi, chúng tôi không biết lấy ai thay thế ông ta. Prosper thì lúc nào cũng cứ tin rằng chỉ việc cầu nguyện Thượng đế là mọi việc sẽ đâu vào đấy hết.
Con ở mang đường vào.
- Mày đã báo cậu Armand chưa?
- Thưa bà, đã ạ; cậu ấy sắp đến ngay bây giờ.
- Còn Sarah? - Ta hỏi.
- Hai hôm nữa nó mới về. Cháu sang chơi nhà bạn bè ở bên Anh; nhà cha mẹ cô gái mà ông đã gặp tại đây. Ông bà ta rất đáng mến, và tôi vui mừng là Sarah có thể ít nhiều... Cũng như Laura vậy. Tôi chỉ thấy cháu tươi tỉnh hơn. Thời gian nghỉ ngơi ở Thụy Sĩ sau những ngày ở miền Nam rất có ích cho cháu, và ông thật là tử tế đã thuyết phục được cháu sang bên đó. Chỉ có thằng Armand tội nghiệp là suốt cả mùa hè chẳng rời khỏi Paris.
- Còn Rachel?
- Vâng; đúng thế; cả cháu ấy nữa. Khắp nơi mời mọc cháu, nhưng cháu thích ở lại Paris hơn. Hơn nữa, ông cháu cần đến cháu. Vả chăng, trên đời này, đâu phải người ta cứ muốn thế nào là bao giờ cũng làm thế nấy. Thỉnh thoảng tôi buộc lòng phải nhắc lại điều đó cho lũ trẻ. Cũng phải nghĩ đến mọi người nữa chứ. Thế ông tưởng rằng tôi đây không thích được đi dạo chơi ở Saas-Fée hay sao? Và bản thân Prosper khi đi đây đó, ông tưởng là vì vui thú ư? Armand, con biết rằng mẹ chẳng thích con tới đây mà lại không đeo cổ áo giả, - bà nói thêm khi thấy con trai bước vào.
- Mẹ thân yêu, mẹ đã căn dặn con hết sức chu đáo là đừng quan tâm quá nhiều tới cách ăn mặc, - anh vừa nói vừa chìa bàn tay cho ta; - và rất đúng lúc, vì chị thợ giặt đến thứ Ba này mới quay lại mà các cổ áo khác của con đều rách cả.
Ta nhớ lại điều Olivier đã nói với ta về bạn anh, và quả thật ta cảm thấy đằng sau sự mỉa mai cay độc của anh thấp thoáng biểu hiện một nỗi lo âu sâu sắc. Armand có khuôn mặt thanh tú, chiếc mũi dọc dừa khum xuống đôi môi mỏng và nhợt màu. Anh nói tiếp:
- Mẹ chắc đã báo với ông khách cao quý của mẹ biết là để mở đầu kỳ nghỉ đông, bọn con đã thu nạp thêm vào nhóm thông thường và tự nguyện vài nhân vật hết sức trứ danh: con trai một vị thượng nghị sĩ có tư tưởng chín chắn và chú bé Tử tước De Passavant, em ruột của một tác gia nổi tiếng? Không kể hai hội viên mới mẹ đã biết rồi, mà chúng nhờ thế chỉ càng danh giá hơn: Hoàng tử Boris và Hầu tước De Profitendieu; thêm vài nhân vật nữa chưa rõ tước hiệu và phẩm cách.
- Ông thấy chưa, nó có thay đổi gì đâu, - bà mẹ tội nghiệp nói và mỉm cười với những lời đùa cợt đó.
Ta rất sợ anh lại sắp nói tới Laura nên vội cáo từ và rảo cẳng bước xuống dưới nhà gặp lại Rachel.
Cô đã xắn hai cánh tay áo lên để giúp kê dọn phòng học; nhưng hấp tấp hạ tay áo xuống khi thấy ta bước vào.
- Cháu vô cùng khổ tâm phải cầu đến ông, - cô bắt đầu nói và kéo ta vào một phòng nhỏ ở bên cạnh dùng cho những bài học đặc biệt. - Cháu muốn nói với anh Douviers, anh ấy cứ nằn nì cháu; nhưng từ khi gặp lại Laura, cháu hiểu là cháu không thể nào nói được nữa...
Cô tái nhợt, và khi thốt ra những lời sau cùng đó, cằm và đôi môi cô cứ rung lên bần bật, đến nỗi có lúc cô không thốt được nên lời. Sợ làm cô ngượng, ta liền nhìn đi chỗ khác. Cô tựa lưng vào cánh cửa cô vừa khép lại. Ta muốn nắm bàn tay cô, nhưng cô giật tay ra. Cuối cùng cô nói tiếp, giọng líu lưỡi như phải cố hết sức mới bật được ra:
- Ông có thể cho cháu vay mười ngàn phrăng được không ạ? Năm học mới xem chừng có triển vọng khá tốt và cháu hy vọng có thể hoàn lại ông ngay.
- Bao giờ cô cần? Cô không trả lời.
- Hiện tôi có mang theo hơn một ngàn phrăng, - ta lại nói. - Sáng mai tôi sẽ đưa nốt... Ngay chiều nay, nếu cần.
- Không, ngày mai cũng được. Nhưng nếu chưa tiêu đến, ông có thể đưa cháu một ngàn phrăng ngay bây giờ...
Ta rút tiền trong ví ra đưa cô.
- Một ngàn bốn trăm phrăng được chứ?
Cô cúi đầu và “vâng” một tiếng lí nhí đến nỗi hầu như ta không nghe thấy, rồi lảo đảo bước tới gieo mình xuống chiếc ghế học sinh, chống khuỷu tay lên cái bàn học phía trước và ngồi lặng đi một chốc, hai tay ôm mặt. Ta cứ tưởng cô khóc, nhưng khi đặt tay lên vai cô, cô ngẩng đầu lên và ta thấy mắt cô vẫn ráo hoảnh.
- Rachel, - ta bảo cô - hỏi vay tiền tôi thì có gì mà phải ngượng. Tôi rất vui khi có thể giúp cô.
Cô nhìn ta một cách nghiêm nghị:
- Cháu khổ tâm ở chỗ phải xin ông đừng cho cả ông cháu lẫn mẹ cháu biết. Từ ngày cháu được giao phó công việc thu chi của ký túc xá, cháu để cho mẹ cháu và ông cháu tin là... và cả mẹ lẫn ông đều không hay biết. Ông đừng nói gì nhé, cháu van ông. Ông cháu già rồi, còn mẹ thì vất vả cực nhọc.
- Rachel, không phải mẹ cô vất vả cực nhọc thế này đâu... Mà là cô.
- Mẹ cháu đã vất vả cực nhọc nhiều. Giờ đây mẹ mệt rồi. Đến lượt cháu. Cháu chẳng có công việc gì khác để làm.
Cô nói những lời hết sức đơn giản đó một cách hết sức đơn giản. Ta chẳng cảm thấy trong thái độ đành lòng cam chịu của cô một chút cay đắng nào, mà ngược lại có một cái gì thanh thản.
- Nhưng ông đừng nghĩ là tình cảnh tồi tệ quá, - cô lại nói.
- Chẳng qua đây là một thời điểm khó khăn, do một vài chủ nợ tỏ ra sốt ruột.
- Lúc nãy tôi vừa nghe con ở nói đến một ông thầy phụ đạo đòi tiền công.
- Đúng đấy, thấy ông ta đến cháu khổ tâm lắm, nhưng khốn nỗi cháu không thể nào ngăn cản được. Đó là một con người tàn nhẫn và tầm thường. Cháu phải ra thanh toán cho ông ta đây.
- Cô có muốn tôi ra thay cho cô không?
Cô do dự một lúc, cố nở một nụ cười mà chẳng được.
- Cảm ơn ông. Nhưng thôi, để cháu ra thì hơn... Hay ông cùng ra với cháu. Cháu hơi sợ ông ta. Nhìn thấy ông, chắc ông ta sẽ chẳng dám nói năng gì.
Sân ký túc xá vượt cao hơn mấy bậc so với mảnh vườn tiếp giáp và ngăn cách bằng một hàng lan can; ông thầy phụ đạo đứng dựa vào đấy, hai khuỷu tay quặt ra phía sau. Y đội một chiếc mũ phớt mềm to tướng và ngậm tẩu thuốc. Trong lúc Rachel thương lượng với y, Armand đến bên ta.
- Rachel đã bòn tiền ông đấy, - anh nói trơ trẽn. - Ông lao tới đúng lúc để kéo chị ấy ra khỏi một nỗi kinh hoàng ghê gớm. Lại vẫn là ông anh Alexandre chó má của cháu đã mang công mắc nợ ở các thuộc địa. Chị Rachel muốn giấu không cho cha mẹ biết. Chị ấy đã bỏ nửa phần của hồi môn để tăng phần hồi môn của Laura lên một chút; nhưng lần này còn bao nhiêu dốc vào đấy hết. Cháu đánh cuộc là bà ấy chẳng cho ông biết tí gì. Cháu phát bực lên về cái đức khiêm tốn của bà chị. Đây là một trong những trò đùa tai quái nhất ở dưới trần gian này; mỗi lần có ai hy sinh cho những kẻ khác, ta có thể yên trí là người đó còn đáng giá hơn bọn kia... Tất cả những gì bà chị này đã giúp cho Laura! Ả đĩ điếm kia đã đền bù thật xứng đáng!...
- Armand, - ta tức giận kêu lên, - anh không có quyền phán xét chị anh.
Nhưng anh ta nói tiếp, giọng giật cục và nghe như rít:
- Trái lại, chính vì cháu chẳng tốt đẹp gì hơn bà ấy nên cháu mới phán xét. Cháu biết lắm chứ. Rachel không phán xét chúng ta. Bà ấy có bao giờ phán xét ai đâu... Đúng thế, đĩ điếm, đĩ điếm... Cháu nghĩ về ả như thế nào, cháu chẳng phải nhờ ai bắn tin, cháu xin thề với ông... Còn ông, ông đã bao che, ông đã che chở tất cả những trò đó! Ông là người đã biết chuyện... Còn ông cháu có hiểu gì đâu. Mẹ cháu cố bưng tai, bưng mắt. Cha cháu thì phó thác cho Chúa Trời; thế là tiện nhất. Cứ gặp khó khăn, cha lại quỳ xuống cầu nguyện và mặc cho chị Rachel xoay xở. Cha chỉ đòi hỏi một điều là đừng có gì rõ ràng hết. Cha đi suốt; cha tất tả chạy ngược chạy xuôi, hầu như chẳng mấy khi có mặt ở nhà. Cháu hiểu là ở đây cha ngột ngạt không chịu nổi; còn cháu thì mệt chết đi được. Cha tìm cách tự huyễn hoặc mình, thế đấy! Trong khi đó thì mẹ làm thơ. Ồ! Cháu không giễu cợt mẹ cháu đâu; cháu cũng có làm thơ. Nhưng ít ra, cháu biết cháu chỉ là một thằng tồi, và cháu chẳng bao giờ tìm cách lên mặt ta đây. Ông bảo thế có ngấy không: ông cháu “làm ra vẻ tử tế” với lão La Pérouse, chẳng qua là vì cần một thầy dạy phụ đạo... - Và bất thình lình: - Cái gã chó má đằng kia dám nói gì với bà chị cháu thế? Nếu hắn không chào chị cháu lúc ra về, cháu sẽ tống một quả đấm vào giữa mõm...
Anh ta lao về phía gã bạt tử, và ta cứ tưởng anh sắp ra tay. Nhưng thấy anh tới gần, y vung mũ lên một cách điệu bộ và mỉa mai rồi đi sâu vào dưới vòm nhà. Đúng lúc ấy, cổng xe mở ra để mục sư về. Ông mặc áo rơđanhgôt may thẳng đuỗn và đi găng tay đen, như bất cứ ai đi dự lễ rửa tội hoặc dự đám tang về. Ông thầy dạy phụ đạo cũ và mục sư cung kính chào nhau.
Rachel và Armand bước lại gần nhau. Khi ông Vedel đến bên chúng lúc ấy đang ở gần ta:
- Mọi việc thu xếp xong rồi ạ, - Rachel thưa với cha.
Mục sư hôn lên trán con gái:
- Con ơi, cha đã bảo mà; Chúa chẳng bao giờ bỏ rơi những ai tin ở Người.
Rồi giơ bàn tay ra cho ta:
- Ông ra về rồi ư?... Nay mai gặp lại nhau, phải không?”