N
hiều năm trước, với cương vị là một giáo viên danh dự, tôi có được một đặc quyền là chỉ dạy những lớp có không quá sáu học sinh. Lớp học đó thường là những đứa trẻ có vấn đề về cảm xúc hoặc giao tiếp xã hội, nên việc giúp chúng hòa nhập với những lớp học bình thường là không thể. Tất cả chúng đều cầu xin sự giúp đỡ bằng nhiều cách khác nhau, nhưng năm đó, thử thách lớn nhất của tôi là một cậu bé cầu cứu trong im lặng.
Từ ngày vào học cho đến tận tháng thứ ba của năm học, cậu không hề hé răng nửa lời. Vấn đề càng nghiêm trọng hơn khi nhà trường hoàn toàn không có thông tin gì khác ngoài chuyện cậu bé sống với mẹ và đã nhiều lần được đưa khỏi nhà vì nghi ngờ bị bạo hành. Như tôi đã nói, chuyện này đã xảy ra từ nhiều năm trước, lúc ấy việc đưa một đứa trẻ ra khỏi một gia đình có hoàn cảnh không tốt là rất khó khăn – thực tế là gần như không thể được, trừ khi có dấu hiệu cho thấy mạng sống của đứa trẻ đang bị đe dọa.
Hôm James được đưa vào lớp mẫu giáo do tôi đảm nhiệm, người phụ trách hoạt động xã hội của trường đề nghị tôi cố gắng tìm hiểu xem liệu cậu bé có thể nói được hay không. Cho đến lúc ấy, chưa có ai từng nghe cậu bé nói một lời hay thậm chí là tạo nên một âm thanh nào. Trái tim tôi lập tức chào đón tâm hồn bé bỏng dường như đã lạc lối ấy và tôi hứa sẽ làm mọi cách có thể để giúp cậu bé hòa nhập. Điều duy nhất tôi biết là cuộc sống gia đình đã gây tổn hại cho James, do đó chiến thuật của tôi là tạo ra một nơi an toàn, thoải mái, yên bình và đầy yêu thương dành cho cậu – một nơi không đòi hỏi gì ở cậu bé. Rồi tôi quyết định để cậu bé tự từng bước khám phá ra rằng đó là một nơi nương náu an toàn.
Tất cả những học trò khác của tôi trút đi khó khăn và những cơn tức giận hằng ngày bằng cách thể hiện ra. Tôi dành rất nhiều thời gian cố gắng giúp chúng tìm ra phương pháp tốt hơn để giao tiếp với người khác. Còn James thì hoàn toàn trái ngược, vì sợ hãi nên cậu bé thường trốn dưới chiếc bàn nhỏ có ba mặt được bao bọc bằng giấy nâu. Thỉnh thoảng, cậu đánh bạo chui ra để nhìn mọi thứ đang diễn ra trong phòng nhưng luôn cố tránh mặt tôi. Suốt vài tháng sau đó, hàng ngày tôi vẫn kiên trì chào cậu bé một cách thân thiện, tôi còn để cậu tự do lựa chọn làm hay không làm gì theo ý mình. Đến cuối tháng thứ ba, tôi bắt đầu nghi ngờ chiến thuật của mình. Liệu sự yêu thương và thừa nhận của tôi với cậu bé, đồng thời tạo ra một nơi an toàn cho cậu mà không đòi hỏi gì cuối cùng có mang lại kết quả không? Nhưng mặc cho những băn khoăn đó, tôi vẫn giữ trong tâm trí mình hình ảnh cậu bé đến bên tôi để được ôm ấp và dĩ nhiên, cậu sẽ cất lên tiếng nói đầu tiên.
Rồi một ngày, trong khi tôi lặng lẽ làm những công việc của mình, James đánh bạo chui ra khỏi nơi trú ẩn an toàn của mình và nằm trên một tấm thảm nhỏ. Cậu bé co người lại và bắt đầu mút ngón tay. Tôi chậm rãi tiến đến nơi cậu bé đang nằm. Bắt chước dáng điệu của cậu, tôi nằm xuống tấm thảm bên cạnh và chậm rãi đút ngón tay vào trong miệng. Khi cậu bé nhìn qua và trông thấy việc tôi đang làm, cậu đột ngột ngồi bật dậy, dùng nắm tay nhỏ xíu đấm thẳng vào mặt tôi thật mạnh và thét lên:
- Bỏ ngón tay chết tiệt đó ra khỏi miệng ngay!
Khi tôi hoàn hồn lại sau cú đấm bất ngờ ấy, đột nhiên tôi bàng hoàng nhận ra chiếc lồng cảm xúc mà cậu bé đang phải sống trong đó. Hẳn là cậu bé đã phải ngày ngày sống trong sợ hãi với mối đe dọa bạo lực lúc nào cũng lởn vởn trên đầu. Rồi khi cậu bé bị bắt gặp đang mút ngón tay, cậu bị chửi mắng và đánh đập – giống như cậu đã chửi và đánh tôi. Tôi ngồi dậy và cậu bé chạy trốn trở lại dưới gầm bàn. Nhưng tôi biết cuối cùng mình đã tạo được bước đột phá. Nước mắt tôi chảy dài.
Nhiều tuần lễ trôi qua, James bắt đầu nói lắp bắp dưới gầm bàn, nhiều lần lò dò ra ngoài rồi lại chạy vụt trở lại nơi an toàn nếu có ai đó tiến về phía cậu. Tuy vậy, tôi vẫn không bao giờ từ bỏ hình ảnh James đến bên tôi để được ôm ấp. Nhiều tuần lễ nữa lại trôi qua, cho đến một ngày, tôi nhìn thấy James bò ra khỏi nơi ẩn náu và chậm rãi tiến lại phía tôi. Tôi tiếp tục công việc của mình nhưng vẫn liếc mắt quan sát cậu bé, tránh không nhìn thẳng vào cậu khiến cậu sợ hãi bỏ đi.
James tiến lại càng lúc càng gần hơn cho đến khi cậu đến sát bên tôi. Tôi quay lại thật chậm nhìn cậu và lần đầu tiên, nỗi sợ hãi không hiện lên trong đôi mắt cậu nữa. Vừa nhìn thẳng vào tôi, cậu bé vừa chỉ về nơi trú ẩn dưới gầm bàn và nói:
- Con không cần phải trốn dưới đó nữa.
Sau lần đó, James ra ngoài thường xuyên hơn – ban đầu là vào những lúc chỉ có chúng tôi trong lớp, nhưng dần dần cậu mò ra ngay cả khi có khách ghé qua. Vào cuối năm học, khi James đã thực sự tin rằng lớp học đúng là một nơi an toàn, cậu tiếp tục có những tiến bộ chậm rãi nhưng vững chắc.
Vào ngày cuối cùng đến trường, James hoàn toàn không giống như hình ảnh tưởng tượng của tôi về một cậu bé đến cho tôi ôm vào lòng. Cuối ngày hôm đó, khi tôi đang ngồi trầm tư quan sát bọn trẻ, tôi nhận thấy James bắt đầu từ từ tiến lại phía tôi. Tim tôi đập nhanh dần khi cậu bé đến gần và dang đôi tay ra để tôi bế cậu lên và đặt vào lòng. Cậu bé rúc vào vai tôi, ngước lên nhìn tôi với đôi mắt lấp lánh ngây thơ và cất tiếng thật rõ ràng:
- Cô biết không, cô thật là đặc biệt. Con cũng rất đặc biệt.
Tôi khóc, và con tim tôi rộn lên niềm hạnh phúc thuần khiết khi cuối cùng nó cũng kết nối được với James. Vào chính ngày cuối cùng, James đã đến bên tôi và mang đến phép màu mà tôi hằng mong đợi.
Không có niềm hy vọng nào thiêng liêng hơn những gì thế giới đặt vào trẻ em.
Không có nhiệm vụ nào quan trọng hơn việc đảm bảo mọi quyền lợi của các em được tôn trọng, mọi phúc lợi dành cho các em được bảo vệ, cho cuộc sống của các em không còn nỗi sợ hãi và thèm khát, và cho các em lớn lên trong hòa bình.
- Kofi Annan