Trong một số chương trước, José đã giải thích về kiểm soát tâm trí và đưa ra các hướng dẫn chi tiết về cách bạn có thể vận dụng nó vào hoạt động hằng ngày. Bạn có thể thấy rằng các mức độ ý thức rất sâu có liên quan đến kiểm soát tâm trí. Và như những người khác, bạn có thể tự hỏi, liệu bạn có phải đối mặt với bất kì nguy hiểm nào khi bạn khám phá chiều sâu mạnh mẽ của tâm trí, có lẽ là lần đầu tiên.
José và những người đồng hành với ông trong việc quản lí tổ chức Mind Control đã nói, kinh nghiệm cho đến nay chỉ ra rằng các lợi ích của việc huấn luyện tâm trí không hề phải trả giá bằng cái mà y khoa gọi là “tác dụng phụ không mong muốn”, ngay cả nhỏ nhất. Nói cách khác, không ai tham gia khóa học này rơi vào tình trạng xấu hơn vì nó, theo như José và các đồng nghiệp của ông biết.
Một người tốt nghiệp kiểm soát tâm trí là một thành viên của ngành y, đã đặt sự an toàn của kiểm soát tâm trí vào một cuộc “thử nghiệm axit”18. Ông là Tiến sĩ Clancy D. McKenzie, một bác sĩ tâm thần và chuyên gia phân tâm học nổi tiếng của Philadelphia, giám đốc của Dịch vụ Tư vấn Tâm thần Philadelphia, thành viên của Trung tâm Tâm thần Philadelphia, và đang hành nghề với tư cách cá nhân. Ông cũng là một học viên lâu năm của bộ môn yoga và các nhóm thiền khác, phản hồi sinh học, và tâm lí học.
18 Acid test: Cuộc kiểm tra quyết định tính đúng sai, năng lực, bản chất… Tương đương thành ngữ “lửa thử vàng”.
Để bổ sung hiểu biết cho quá trình nghiên cứu về các lĩnh vực này, ông đăng kí khóa học kiểm soát tâm trí năm 1970. “Tôi muốn xem liệu họ có thực sự dạy khả năng thấu thị hay không, như một số bệnh nhân đã được hưởng lợi từ khóa học đã nói cho tôi. Tôi bị thuyết phục rằng có một hoạt động tinh thần nào đó đang diễn ra. Tôi dành rất nhiều thời gian và suy nghĩ cho việc nghiên cứu nghiên cứu thêm về nó.”
Có hai điều khơi dậy sự quan tâm của McKenzie đối với kiểm soát tâm trí, đấy là: Một nhận xét của Sigmund Freud lúc cuối sự nghiệp của ông, và một điều gì đó đã xảy ra trong một lớp học kiểm soát tâm trí.
Freud đã nói rằng hướng đi hứa hẹn nhất cho trị liệu tâm lí trong tương lai là hướng tới việc huy động nguồn năng lượng trong mỗi người. Tiến sĩ McKenzie đã thấy rõ những học viên kiểm soát tâm trí sử dụng những năng lượng mà họ chưa bao giờ biết là chúng tồn tại.
Nhưng McKenzie lại thấy điều gì đó khác trong lớp học này: “Ba người trong số ba mươi người bị rối loạn cảm xúc và một người nữa chưa ổn định lắm về cảm xúc, vẫn đang nghi ngờ. Lí do là gì? Phải chăng khóa học đã gây ra căn bệnh dễ cảm động này hay họ đã mang theo nó khi tới với lớp học? Phải chăng những bệnh nhân bị rối loạn cảm xúc của tôi đã được hưởng lợi từ khóa học chỉ đơn thuần nhờ may mắn?”
Ông lí luận rằng cách thực tế nhất để tìm ra câu trả lời là khảo sát mọi người trước và sau khóa học. Bài kiểm tra là quan sát kĩ những người dễ bị tổn thương tâm lí nhất. Ông và một đồng nghiệp, Tiến sĩ Lance S. Wright, giáo sư tâm thần học tại Đại học Pennsylvania, đã khởi động một nghiên cứu. Trong suốt bốn năm rưỡi sau đó, 189 bệnh nhân tâm thần đã tình nguyện tham gia khóa đào tạo kiểm soát tâm trí. Để chắc chắn hơn, McKenzie và Wright tập trung nghiên cứu chi tiết hơn vào những người trong nhóm này bị rối loạn tâm thần, rối loạn tâm thần ranh giới hoặc những người đã hồi phục sau rối loạn tâm thần. Có 75 người thuộc ba nhóm này.
Từ những quan sát của họ về tác dụng có lợi của khóa học đối với những người khỏe mạnh, kết quả của những thử nghiệm này không gây ngạc nhiên cho Tiến sĩ McKenzie và Tiến sĩ Wright.
Sau đây là một số chi tiết dành cho những người quan tâm đến cách lí giải và kiểm soát chặt chẽ các nghiên cứu khoa học. Trong số 75 bệnh nhân nói trên có 66 bệnh nhân đến từ phòng khám của Tiến sĩ McKenzie. Cả 66 bệnh nhân rối loạn tâm thần và rối loạn tâm thần ranh giới đều ngỏ ý tham gia khóa học kiểm soát tâm trí.
Khi bắt đầu nghiên cứu, hai vị bác sĩ này lần lượt gửi tới lớp từng người một, để họ có thể theo dõi chặt chẽ bất kì tác động xấu nào của bệnh nhân đối với bản thân người đó và cả lớp học. Ngoài ra, họ được gửi đi vào thời điểm mà Tiến sĩ McKenzie mô tả là “trong thời kì ổn định hơn của họ.” Sau đó, ông nhận thấy có thể gửi bệnh nhân trong thời gian họ kém ổn định hơn: Có 4 người đã đi học trong lúc họ đang bị ám ảnh bởi các ảo tưởng. Tuy nhiên, sau đó Tiến sĩ McKenzie cảm thấy thoải mái hơn khi cùng lúc gởi một vài bệnh nhân đang bị bệnh tật quấy rầy, đôi khi tới 6 người hoặc nhiều hơn.
Là một phần nghiên cứu của mình, ông kiểm tra 58 bệnh nhân trước và sau khóa học để xem những thay đổi gì đã xảy ra. Bài trắc nghiệm kiểm kê thế giới trải nghiệm, bao gồm 400 câu hỏi được thiết kế để đo lường nhận thức của một người về thực tế, gần giống như bài trắc nghiệm vết mực Rorschach19 nổi tiếng, nhưng ở dạng viết. Sự khác biệt giữa điểm số trước và sau thực hiện huấn luyện kiểm soát tâm trí là rất ấn tượng: 36 người cho thấy sự cải thiện đáng kể trong nhận thức thực tế; 21 người không thay đổi và 1 người bị suy giảm khả năng nhận thức.
19 Test Rorschach là một trắc nghiệm tâm lí trong đó đối tượng nhận thức của vết mực được ghi lại và sau đó, sử dụng phân tích tâm lí giải thích, sử dụng thuật toán phức tạp, hoặc cả hai. Một số nhà tâm lí học sử dụng này thử nghiệm để kiểm tra nhân cách của một người đặc tính và tình cảm hoạt động. Trắc nghiệm này đã được sử dụng để phát hiện rối loạn suy nghĩ, đặc biệt là trong trường hợp bệnh nhân không muốn mô tả quá trình suy nghĩ của họ một cách công khai. Trắc nghiệm do nhà tâm lí học người Thụy Sĩ Hermann Rorschach sáng tạo ra. Trong những năm 1960, Rorschach là test phóng chiếu được sử dụng rộng rãi nhất.
Người bị giảm điểm là một bệnh nhân tâm thần phân liệt 29 tuổi, lần đầu tiên trong đời ngừng uống thuốc và bắt đầu hẹn hò. Tiến sĩ McKenzie nhận xét: “Về mặt lâm sàng, anh ấy có nhiều năng lượng cảm xúc hơn và triển vọng tươi sáng hơn sau khóa đào tạo. Tuy nhiên, cuộc hẹn hò đã đẩy anh vào một cuộc xung đột và anh bị rối loạn cảm xúc hai tuần sau khóa học. Tuy nhiên, anh ấy không cần phải nhập viện.”
Tất nhiên, tất cả những bệnh nhân này đều đã được trị liệu tâm lí, nhiều người từng trị liệu khoảng một năm hoặc lâu hơn. Điều này đã cho bác sĩ McKenzie một cơ hội tuyệt vời để xem những thay đổi lâm sàng thực sự đã diễn ra sau khóa học. Dưới đây là một số phát hiện của ông:
Một bệnh nhân tâm thần phân liệt 30 tuổi, trước đó anh ta đã tin rằng mình đang sống theo những theo mệnh lệnh thần giao cách cảm để giết một ai đó. May mắn là anh ta chưa tìm được người tâm giao nào phù hợp. Trong các buổi trị liệu sau khóa học, lần đầu tiên anh đã có thể thảo luận về “hệ thống ảo tưởng” của mình. Năng lượng cảm xúc của anh ấy đã lớn hơn nhiều, và anh ấy có một cái nhìn tươi sáng hơn về cuộc sống. Ngay sau đó anh trở lại trường học để lấy bằng tiến sĩ. “Khả năng của anh ấy có liên quan trực tiếp đến việc anh ấy tham gia khóa học”, Tiến sĩ McKenzie giải thích.
Trong số 28 bệnh nhân bị nhiều loại trầm cảm khác nhau (thoái triển, rối loạn tâm thần, tâm thần phân liệt và trầm cảm hưng cảm,...), có 26 bệnh nhân cảm thấy dễ chịu hơn sau liệu trình điều trị. Tuy cảm thấy chán nản hơn nhưng hai người còn lại không những chỉ đạt điểm cao hơn trong bảng câu hỏi, mà còn giống như những người khác, có thể giải quyết các vấn đề mà họ không thể giải quyết trước đây.
Một phụ nữ 21 tuổi từng có ý định tự sát và đang ở giai đoạn đầu của chứng rối loạn tâm thần cấp tính. Cô đảm bảo với Tiến sĩ McKenzie rằng ông ấy không có cách nào để giúp cô được, cô sẽ tự tử bằng mọi cách. Ông đề nghị cô tham gia khóa học. Đến cuối tuần, ông “hoàn toàn ngạc nhiên, cô ấy phản ứng tốt hơn bất kì bệnh nhân nào khác. Đấy là một trong những ca thuyên giảm đáng kể nhất mà tôi từng thấy.”
Cô tìm thấy một sự bình tĩnh mới, lí trí hơn và suy nghĩ của cô không còn chạy theo hướng thay đổi nhanh chóng nữa. Điều quan trọng không kém là cô đã trút bỏ được phần lớn gánh nặng, sự bi quan của mình. Trong một báo cáo lâm sàng, Tiến sĩ McKenzie và Wright viết: “Việc nằm viện và dùng thuốc liều cao không thể giúp cô ấy bình tĩnh hơn. Cô ấy lặp lại liệu trình kiểm soát tâm trí hai tuần sau đó và một lần nữa có sự cải thiện. Những thay đổi là rất đáng kể, cô ấy có thể làm việc tốt hơn trong sáu tháng trị liệu tiếp theo.” Một năm sau, bác sĩ McKenzie nhận thấy cô đã bình phục hoàn toàn sau căn bệnh cấp tính.
Tất nhiên, rối loạn tâm thần là những rối loạn nghiêm trọng. Rối loạn thần kinh ít nghiêm trọng hơn nhiều. Trong số 189 bệnh nhân sử dụng kiểm soát tâm trí, có 114 bệnh nhân chỉ bị rối loạn thần kinh nhưng tất cả họ đều có những tiến triển nhất định.
Tóm tắt những phát hiện lâm sàng của họ trong bài báo nói trên, các bác sĩ đã viết:
Những người tiếp tục thực hành kiểm soát tâm trí sau khóa học có thể thay đổi cuộc sống của họ rất nhiều nhờ nó, và ngay cả những người không thực hành cũng có thể sử dụng nó trong thời điểm khủng hoảng, khi họ phải đương đầu với căng thẳng hoặc cần đưa ra những quyết định quan trọng. Đối với mọi người, kiểm soát tâm trí dường như là một trải nghiệm mở rộng tâm trí, một sự tiết lộ rằng họ có thể sử dụng tâm trí của mình theo những cách khác. Sự nhiệt tình của nhóm được gắn kết vào cuối khóa học và hầu hết mọi người đều trải qua một năng lượng cảm xúc cao hơn.
Nhóm bị rối loạn nặng cũng cho thấy một sự thay đổi ấn tượng về mặt lâm sàng. Chỉ có bênh nhân được đề cập [29 tuổi mới bắt đầu hẹn hò] trở nên khó chịu hơn, còn những người khác ít nhất cũng thu được một số lợi ích từ khóa huấn luyện. Nhiều người có cảm xúc phẳng lặng [ít hoặc không có phản ứng cảm xúc] lần đầu tiên tỏ ra hào hứng với điều gì đó. Dường như có một sự thay đổi và cải thiện về năng lượng cảm xúc sau khóa học. Họ có cái nhìn tích cực hơn về tương lai của mình, và đối với một số người, họ đã hiểu rõ hơn về quá trình rối loạn tâm thần của mình. Những bệnh nhân bị ảo tưởng rõ ràng đã bớt ảo tưởng hơn sau khóa huấn luyện.
Có một sự thư thái hơn và giảm bớt lo lắng. Bệnh nhân học cách dựa vào các nguồn lực của chính họ để hiểu, đối phó và giải quyết vấn đề. Điều này đã mang lại cho họ sự tự tin.
Trừ một trường hợp người trong số 189 bệnh nhân có nhiều cải thiển sau khóa học, Tiến sĩ McKenzie kết luận rằng kiểm soát tâm trí “không chỉ an toàn và có lợi, nó có thể vô cùng hữu ích như một phần không thể thiếu của trị liệu tâm lí.” Hiện tại hầu như tất cả bệnh nhân của ông đều tham gia khóa học. Một số người trong số họ rút ngắn thời gian trị liệu tới hai năm nhờ các kĩ thuật kiểm soát tâm trí.
Tiến sĩ McKenzie nói: “Một trong số những kĩ thuật này là kiểm soát giấc mơ, rất có thể là một bước đột phá lớn trong ngành tâm thần học. Đấy là một cách nhanh chóng và đáng tin cậy để hiểu và giải quyết vấn đề.”
Tiến sĩ McKenzie từng học tập, nghiên cứu và phân tích trường phái Freud, ông nhận thấy không có mâu thuẫn giữa cách những người theo trường phái Freud giải thích những giấc mơ tự phát và cách những học viên kiểm soát tâm trí giải thích những giấc mơ được lập trình của họ. Ông giải thích: “Điều ước trong giấc mơ của người theo Freud trở thành ước muốn có câu trả lời.” Tuy nhiên, ông cảnh báo: “Cần chắc chắn rằng một giấc mơ vô thức không thể thay thế cho một điều ước có ý thức đòi hỏi có câu trả lời”.
Một bệnh nhân mà bác sĩ McKenzie đã điều trị một thời gian gọi điện nói rằng cô ấy sắp nhập viện vì đau ngực và đau bụng. Ông nói với cô rằng ông muốn cô vào một bệnh viện tâm thần. Cuộc gọi không gây ngạc nhiên vì ông ấy đã từng thấy việc này xảy ra trong một thời gian dài. Tình trạng tinh thần của cô gái ngày càng trở nên tồi tệ. Trong bệnh viện tâm thần, bác sĩ McKenzie bảo cô ấy lập trình một giấc mơ để trả lời bốn câu hỏi: Vấn đề của thân thể là gì? Nó ở đâu? Cái gì gây ra nó? Làm sao để tôi thoát khỏi nó?
Đây là những gì cô ấy mơ thấy: Cô ấy, chồng cô ấy và ba đứa con của họ đang lái xe trên một con đường quanh co. Trời bắt đầu có tuyết và chiếc xe của họ trượt khỏi đường. Chẳng mấy chốc chiếc xe đã phủ đầy tuyết. Chồng cô bảo cô tắt động cơ, sau đó tám hoặc mười người từ thành phố đến để đào tuyết đưa họ ra. Khi họ bước ra khỏi xe, ba đứa con của họ đã biến mất.
Ngay phía trước là con đường cụt. Một con đường khác mở ra theo một góc vuông chạy nối vào một con đường khác cũng bằng một góc vuông, đến lượt nó lại dẫn đến một con đường khác một đường cao tốc, cũng ở một góc vuông.
Khi nghe cô kể lại giấc mơ này, Tiến sĩ McKenzie nghi ngờ cô đang mô tả đường ruột và yêu cầu cô vẽ một bản đồ về “con đường quanh co”. Cô ấy đã làm theo chỉ dẫn và không nghi ngờ gì nữa con đường trong giấc mơ đã chạy theo đường ruột của con người một cách chính xác, tất cả đều theo đúng tỉ lệ. Hơn nữa, một cuộc kiểm tra y tế sau đó đã phát hiện ra vật cản tại một điểm tương ứng với nơi xe của cô trượt khỏi mặt đường, đấy là nơi ruột non gặp ruột già. Nói cách khác, giấc mơ của người phụ nữ này (cô ấy hầu như không biết gì về giải phẫu học, cô ấy từng là một học sinh trung học bỏ học giữa chừng) đã xác định chính xác rằng một đoạn dài hơn hai phân trong đường ruột dài tới 6 mét của cô ấy bị tắc nghẽn.
Thêm nữa, theo biểu tượng trong giấc mơ, tuyết là một sản phẩm từ sữa khiến đường ruột của cô ấy khó chịu và theo một cách nào đó đã kích hoạt sự tích tụ dẫn tới tắc nghẽn. Lời khuyên cắt động cơ của chồng cô, lại là một biểu tượng nữa, là lời khuyên tốt nhất mà cô có thể nhận được, nghĩa là “ngắt nguồn cung cấp nguyên liệu cho cơ thể: ngừng ăn”.
Theo ngôn ngữ của giấc mơ thì tám hoặc mười người đào tuyết cứu hộ là những ngón tay của hai bàn tay. Điều này có thể đại diện cho việc chữa bệnh “tinh thần” hoặc phẫu thuật. Sự vắng mặt đột ngột của các con biểu thị rằng một ước nguyện đã được thỏa mãn. Cô muốn chúng biến mất để được chồng quan tâm nhiều hơn.
Bác sĩ McKenzie đã chuyển cô đến bệnh viện y tế vì thông thường, trường hợp tắc ruột như thế này cần phải phẫu thuật ngay lập tức. Tuy nhiên, nhờ trang bị sự hiểu biết về giấc mơ và kiến thức tiếp thu được trong lớp kiểm soát tâm trí về sức mạnh của tâm trí đối với cơ thể, cộng với sự phán đoán về cuộc phẫu thuật, cô ấy bắt đầu tự giải phóng các trở ngại. Một giờ sau khi chẩn đoán dựa trên giấc mơ của bác sĩ McKenzie được xác nhận về mặt y tế tại bệnh viện, cô cũng tự giải thoát bản thân khỏi sự tắc nghẽn và không cần phẫu thuật. Bác sĩ phẫu thuật của cô đã rất kinh ngạc.
Tiến sĩ McKenzie sau đó biết rằng người phụ nữ này đã từng trải qua phẫu thuật tắc ruột 4 lần trong 20 năm qua. Các bác sĩ phẫu thuật của cô ấy nói với ông rằng lần nào nó đều ở cùng một vị trí. Có vẻ như cô ấy đã học được cách sinh ra căn bệnh này bất cứ khi nào tâm lí có nhu cầu về nó.
Sau đó, đứa con gái 18 tuổi của người phụ nữ này đến gặp ông với một vấn đề: Cô bé đang mang thai và chưa kết hôn. “Tôi nên làm gì bây giờ?” cô ấy hỏi. Một lần nữa ông ấy khuyên sử dụng kiểm soát giấc mơ để đi tìm câu trả lời. Trong giấc mơ của cô, một người đàn ông xuất hiện. Anh ta nói, “Hãy sinh đứa bé này, đợi ba năm, kết hôn với người đàn ông đó, rồi chuyển ra khỏi bang.”
Tiến sĩ McKenzie nói: “Tôi không thể đưa cho cô ấy lời khuyên tốt hơn. Tỉ lệ li hôn của trẻ vị thành niên là 80%, vì vậy đợi ba năm là hợp lí. Người đàn ông là người hợp với cô ấy, nhưng để có một cuộc hôn nhân thành công họ cần đi xa khỏi nhà, xa khỏi bố mẹ.”
Trong một trường hợp khác, kiểm soát giấc mơ đã dẫn đến một kĩ thuật trị liệu hoàn toàn mới, giúp tiết kiệm thời gian trị liệu. Vấn đề của bệnh nhân này là hễ chồng cô ấy vào bữa ăn tối muộn hơn 10 phút thì cô ấy tự rạch cổ tay mình. Trong nhiều tháng, Tiến sĩ McKenzie đã cố gắng tìm cách giải thích chuyện này, trong khi cô nghĩ rằng mình đang phản ứng với sự chậm trễ của chồng. Cô từng đã trải qua cảm giác tương tự sớm hơn, từ thời thơ ấu, khi người cha nghiện rượu của cô không về nhà. Nếu cô ấy hiểu ra điều này, cô ấy sẽ dừng việc tự rạch cổ tay mình, nhưng bác sĩ McKenzie vẫn chưa thuyết phục được cô ấy. Mọi thứ vẫn tiếp tục diễn ra, người phụ nữ phải đối mặt với 2 năm nữa của liệu pháp trị liệu hai lần một tuần. Tiến sĩ McKenzie gợi ý rằng cô ấy nên lập trình một giấc mơ.
Giấc mơ của cô ấy hóa ra là một sáng tạo đáng kinh ngạc, giải quyết được vấn đề của cô ấy chỉ sau một đêm.
Cô mơ thấy Tiến sĩ McKenzie thu âm lại một số câu nói khiến cô buồn nhất. Cô bật nó ở nhà, nghe và ghi âm lại phản ứng của mình với nó trên cuộn băng thứ hai. Sau đó, cô phát đoạn băng thứ hai để Tiến sĩ McKenzie giải thích. Nghe những lời giải thích của ông, cô ấy thốt lên, “Ôi, tôi thật ngu ngốc!” Những lời giải thích của ông chỉ ra rằng cô ấy đang nhầm lẫn giữa hai thực tại khác nhau, quá khứ và hiện tại. Giấc mơ của cô đã khiến cô lần đầu tiên hiểu được điều này. Cô ấy không bao giờ tự rạch cổ tay mình nữa.
“Giấc mơ được lập trình này đã chữa khỏi hoàn toàn cho bệnh nhân. Một cuộc theo dõi ba năm đã xác nhận rằng cô ấy vẫn khỏe mạnh.” Tiến sĩ McKenzie nói.
Một bệnh nhân khác bị chứng sợ ngột ngạt, anh ta đã vật lộn hơn một năm để tìm ra nguyên nhân của nó. Hóa ra đó là một điều thú vị. Trong một giấc mơ được lập trình, anh và ba người khác đang ở trong một hình chữ nhật được đóng khung bằng một sợi dây trên mặt đất. Ở một góc bên ngoài hình chữ nhật là một hình nhỏ hơn, cũng được khuôn lại bằng một sợi dây. Mọi người đều cố gắng thoát ra khỏi hình chữ nhật lớn qua hình nhỏ hơn.
Ý nghĩa của giấc mơ này trở nên rõ ràng khi bạn hình dung ra khu vực lớn hơn là tử cung, khu vực nhỏ hơn là cổ tử cung. Bên ngoài là đồng cỏ xanh mướt với những con bò (vú).
Một trong những người bạn đồng hành của bệnh nhân chạy về phía hình chữ nhật nhỏ hơn nhưng bị chặn lại bởi một rào cản vô hình (thành tử cung). Một sợi dây được gắn vào người anh ta gần khóa thắt lưng (dây rốn).
Bệnh nhân biết rằng bằng cách nào đó mình sẽ phải ra khỏi đó, nhưng anh ấy quyết định để những người khác đi trước. Hành động này mang lại cho anh cảm giác lo lắng, như khi đang diễn thuyết. Anh biết đây là mình phải làm, dù nó gây ra căng thẳng và lo lắng (chấn thương khi sinh), nhưng cảm thấy nhẹ nhõm hơn sau khi nó kết thúc.
Ba người còn lại trong hình chữ nhật là anh chị em của anh ấy. Giấc mơ duy nhất này đã cho anh ấy cái nhìn sâu sắc mà anh cần về chứng sợ ngột ngạt của mình.
Điều làm cho giấc mơ trở nên đặc biệt thú vị không phải là vì nó đưa một người trở lại thời điểm trước khi họ chào đời, điều này khá phổ biến, mà là vì nó ám chỉ đến “rào cản vô hình”. Tiến sĩ McKenzie băn khoăn: Phải chăng điều này gợi ý về khả năng thấu thị trước khi con người được sinh ra?
Tiến sĩ McKenzie không chỉ khuyên bệnh nhân của mình sử dụng kiểm soát tâm trí, ông còn sử dụng nó để giúp đỡ bệnh nhân của mình. “Một trí tuệ tuyệt vời đã đến với tôi khi tôi sử dụng kiểm soát giấc mơ.”
Một đêm, Tiến sĩ McKenzie lập trình một giấc mơ về một bệnh nhân trong khoa phân tích tâm lí, một người đàn ông 27 tuổi đã không hẹn hò trong hai năm. Anh cho rằng phụ nữ ghét anh ta, “và ngoài ra, họ không đủ tốt”. Trong giấc mơ của mình, Tiến sĩ McKenzie nghe thấy chính mình nói, “Tôi không sao cả nếu bạn không bao giờ có một mối quan hệ khác giới.” Lần tới khi bệnh nhân phàn nàn về phụ nữ, đó chính xác là những gì bác sĩ McKenzie đã nói với anh ta.
Chuyện naỳ có tác dụng. Bệnh nhân đã choáng váng. Tránh mặt phụ nữ là cách anh ta chống lại việc trị liệu, giờ nó sẽ không còn hiệu quả nữa. Ngoài ra, anh còn hoảng sợ khi nghĩ đến việc không bao giờ có một mối quan hệ lành mạnh với một người phụ nữ. Đêm đó anh ấy đã hẹn hò.
Tiến sĩ McKenzie, người đã trở thành cố vấn cho phương pháp kiểm soát tâm trí Silva, tiếp tục tìm kiếm những cách mới nhằm sử dụng kiểm soát tâm trí để cải thiện và tăng tốc độ trị liệu tinh thần. Đồng thời, ông đang tìm cách sử dụng kiểm soát tâm trí trong các lĩnh vực thực hành y tế rộng lớn hơn, như trong chẩn đoán bệnh tật.
Bước đầu tiên trong quá trình tìm kiếm này là tìm cách đo lường độ tin cậy của kĩ thuật kiểm soát tâm trí trong việc xử lí các bài tập tình huống. Sau ba năm nghiên cứu, Tiến sĩ McKenzie tin rằng ông đang tiến gần đến cái mà ông gọi là “thiết kế nghiên cứu tuyệt đối”, một thiết kế loại bỏ tất cả các biến và chỉ tiêu đo lường. Mục đích của ông là tìm cách đưa các bài tập tình huống vào sử dụng trong hoạt động y tế.
Chẩn đoán y khoa đôi khi bao gồm phẫu thuật thăm dò hoặc sử dụng các loại thuốc có thể gây khó chịu hoặc nguy hiểm cho bệnh nhân, và thực tế là không có kĩ thuật chẩn đoán nào là chính xác hoàn toàn, luôn luôn có sai số. Chẩn đoán tinh thần sẽ không gây nguy hiểm cho bệnh nhân, miễn là độ tin cậy của nó có thể được chứng minh. Tiến sĩ McKenzie đang làm việc đó.
Đầu tiên ông đem thiết kế nghiên cứu mới của mình dùng thử cho một lớp tốt nghiệp kiểm soát tâm trí gồm 30 người. Độ chính xác của kết quả lớn hơn cơ hội tạo ra tỉ lệ cược 200 ăn 1. Cảm thấy được khích lệ, nhưng ông muốn cải tiến các phương pháp của mình hơn nữa và sắp xếp để máy tính thực hiện thử nghiệm. Ông đã nhờ Khoa Thống kê của Đại học Pennsylvania kiểm tra các thiết kế của mình, và họ đồng ý rằng quả thực ông đã loại bỏ các biến số gây khó khăn cho nghiên cứu tinh thần và rằng các phép đo của ông là chính xác.
Bản tin về kiểm soát tâm trí đã công bố các hình vẽ của hai cơ thể người với các vòng tròn để độc giả kiểm tra. Giống như khi các học viên xử lí tình huống, họ được cung cấp các THÔNG TIN QUAN TRỌNG: Mục đích của thí nghiệm này là để phát hiện chính xác vị trí của những bất thường hay bệnh tật. Trong quá trình thử nghiệm, hãy giới hạn các hoạt động của bạn chỉ trong việc phát hiện, không tác động đến tình trạng bệnh.
1. Debbie Veccio 23 tuổi và sống ở Miami, Florida. Cô ấy có vấn đề về sức khỏe và bạn có thể giúp. Hãy đi vào cấp độ kiểm soát tâm trí của bạn và hình dung hay tưởng tượng ra Debbie, với mong muốn phát hiện ra bệnh tật của cô ấy. Khi bạn nghĩ bạn đã phát hiện ra bệnh của cô ấy, hãy đánh dấu chọn vào chỉ MỘT vòng tròn trong sơ đồ A, tại điểm gần nhất với nơi bạn cảm nhận hay đoán là bệnh ở đó. Bởi vì bản chất của thí nghiệm này chỉ liên quan đến việc phát hiện bệnh, nên bạn không gửi tín hiệu chữa bệnh. Quan trọng là nếu bạn điền nhiều hơn một vòng tròn ở mỗi sơ đồ, câu trả lời của bạn sẽ bị loại.
Cho phép ít nhất 10 phút trôi qua trước khi tiếp tục với sơ đồ B.
2. Cynthia Cohen, 21 tuổi và sống ở Miami, Florida. Cô ấy có vấn đề về sức khỏe và bạn có thể giúp. Hãy đi vào cấp độ kiểm soát tâm trí của bạn và hình dung hay tưởng tượng ra Cynthia, với mong muốn phát hiện ra bệnh tật của cô ấy. Khi bạn nghĩ bạn đã phát hiện ra bệnh của cô ấy, hãy đánh vào chỉ MỘT vòng tròn trong sơ đồ B, điểm gần nhất nơi bạn cảm nhận hay đoán nó là ở đó. Bởi vì bản chất của thí nghiệm này chỉ liên quan đến việc phát hiện, học viên không gửi tín hiệu kết nối tinh thần để chữa bệnh.
Điều mà các học viên không được cung cấp, cái mà chính Tiến sĩ McKenzie cũng không biết, là bản chất của những căn bệnh. Vị bác sĩ ở Florida, người đã đưa cho ông các các ca bệnh chỉ tiết lộ điều này sau khi có kết quả.
Thực hiện hai trường hợp thay vì một trường hợp là trọng tâm của thiết kế nghiên cứu mới. Điều này cho phép tiến sĩ McKenzie loại bỏ tất cả các phỏng đoán. Ví dụ, nếu bệnh nhân A chứ không phải bệnh nhân B bị chấn thương ở mắt cá chân trái, bất kì vòng tròn nào được kiểm tra trên mắt cá chân trái của bệnh nhân B sẽ là phỏng đoán. Nếu 5 độc giả đoán là mắt cá chân trái của B, thì cũng hợp lí khi cho rằng cùng một con số như vậy sẽ đoán là mắt cá chân trái của A. Bây giờ giả sử người đọc đã kiểm tra mắt cá chân trái của A. Tiến sĩ McKenzie sẽ trừ 5 từ con số này như phỏng đoán và kết luận rằng 45 người đang hoạt động tinh thần. Sau đó, máy tính sẽ đo lường ý nghĩa thống kê của các kết quả.
Để phép thử có hiệu quả, hai trường hợp phải khác nhau. Nếu cả hai đều bị thương ở mắt cá chân trái, phương pháp loại bỏ các câu trả lời không phải là tinh thần này không sử dụng được.
Vị bác sĩ ở Florida đã gây lãng phí thời gian, ông ấy cung cấp hai trường hợp bệnh có vết thương ở cùng một vùng trên cơ thể. Tiến sĩ McKenzie đã phải thay đổi thiết kế của mình và nghiên cứu kết quả theo cách khác. Thay vì so sánh trường hợp A với trường hợp B, ông so sánh số câu trả lời đúng với số câu trả lời lớn nhất tiếp theo. Mặc dù máy tính cho Tiến sĩ McKenzie biết kết quả là ngẫu nhiên, chỉ có thể xảy ra một lần trong gần một tỉ lần, vẫn không thể coi thí nghiệm của ông có sức thuyết phục vì không thể tuân theo thiết kế nghiên cứu của ông.
Có nhiều khía cạnh trong thiết kế của ông hơn những gì được nêu ở đây và ông ấy đã tiến hành nhiều thí nghiệm khác tạo ra cái mà ông gọi là “kết quả có ý nghĩa thống kê”. Toàn bộ dự án của ông rất quan trọng nên chúng ta chắc chắn sẽ nghe nhiều hơn về nó khi ông ấy đã hoàn thiện kĩ thuật của mình. Thay vì chỉ cho họ kiểm tra một vòng tròn để chỉ ra vị trí của một căn bệnh, ông sẽ cung cấp cho học viên viên tốt nghiệp kiểm soát tâm trí danh sách các bệnh lí để kiểm tra, từ đó đưa ra chẩn đoán cụ thể.
Ông nói: “Những nghiên cứu sơ bộ này hướng tới mức độ có ý nghĩa thống kê cao. Tuy nhiên, tôi chưa sẵn sàng để đưa ra kết luận từ chúng. Cần phải thực hiện nhiều công trình nghiên cứu cẩn thận hơn. Nếu các nghiên cứu sau này cho kết quả đáng khích lệ, chúng ta có thể tìm cách đưa các nhà tâm thần học làm việc chung với các bác sĩ để giúp họ chẩn đoán theo những cách đáng tin cậy hơn các kĩ thuật đang được sử dụng hiện nay. Đây có thể là một bước đột phá trong y học. Còn quá sớm để nói chắc chắn, nhưng đó là điều tôi đang hướng tới.”
Giám đốc nghiên cứu của Control Mind, J. Wilfred Hahn, một nhà hóa sinh và cựu chủ tịch của Quỹ Khoa học Tâm trí, chia sẻ hi vọng của Tiến sĩ McKenzie: “Kể từ thế kỉ XIX, khi phương pháp khoa học được ứng dụng vào nghiên cứu tinh thần, các biến số không kiểm soát được (đôi khi không xác định được) đã để lại những dấu chấm hỏi lơ lửng trên các phát hiện. Liệu bác sĩ McKenzie có đạt được một bước đột phá y học hay không, như ông ấy nói, vẫn chưa xác định được. Nhưng tôi tin rằng ông ấy đã đạt được một bước đột phá trong phương pháp nghiên cứu của mình. Từ tất cả dữ liệu mà ông ấy thu thập được, ông ấy có thể sàng lọc các phản hồi tinh thần, ông ấy có thể loại bỏ tất cả những gì bị coi là thừa, chỉ để lại những gì ông ấy muốn nghiên cứu, giống như một nhà hóa học đang nghiên cứu một nguyên tố vi lượng trong nước có thể loại bỏ nước và tất cả các nguyên tố khác ngoại trừ nguyên tố mà anh ta muốn nghiên cứu.”