VỤ MƯU SÁT ROBERT MORENO
Hiện Trường 1.
- Dãy phòng 1200, Khách sạn South Cove, Đảo New Providence, Bahamas (“Buồng Khử”).
- 9 tháng 5.
- Nạn Nhân 1: Robert Moreno.
+ NNTV1: Vết thương do đạn, chi tiết bổ sung sau.
1 NNTV: Nguyên nhân tử vong.
+ Thông tin bổ sung: Moreno, 38 tuổi, công dân Mỹ, kiều dân, sống tại Venezuela. Chống Mỹ kịch liệt. Biệt danh: “Sứ giả Chân lý.”
+ Ở tại thành phố New York trong ba ngày, 30 tháng 4-2 tháng 5. Mục đích?
- Nạn Nhân 2: Eduardo de la Rua.
+ NNTV: Vết thương do đạn, chi tiết bổ sung sau.
+ Thông tin bổ sung: Nhà báo, phỏng vấn Moreno. Sinh tại Puerto Rico, sống tại Argentina.
- Nạn Nhân 3: Simon Flores.
+ NNTV: Vết thương do đạn, chi tiết bổ sung sau.
+ Thông tin bổ sung: Vệ sĩ của Moreno. Công dân Brazil, sống tại Venezuela.
- Nghi Can 1: Shreve Metzger.
+ Cục trưởng, Cục Tình báo và Chỉ huy Quốc gia (NIOS).
+ Tâm thần không ổn định? Thường nóng nảy.
+ Chỉnh sửa chứng cứ để phê chuẩn phi pháp Mệnh lệnh Đặc nhiệm.
+ Đã ly hôn. Bằng Luật, Đại học Yale.
- Nghi Can 2: Kẻ bắn tỉa.
+ Mật danh: Don Bruns.
+ Cục Thông tin đang khai thác thông tin về Bruns.
+ Đã có dữ liệu giọng nói.
- Báo cáo hiện trường vụ án, báo cáo khám nghiệm tử thi, các chi tiết khác sẽ bổ sung sau.
- Tin đồn về các các-ten ma túy đứng sau các vụ trừ khử này. Xem ra khó có khả năng.
Hiện Trường 2.
- Nơi Don Bruns ẩn nấp, cách 1.829 mét tính từ Buồng Khử, đảo New Providence, Bahamas.
- 9 tháng 5
- Báo cáo hiện trường sẽ bổ sung sau.
- Điều Tra Bổ Sung.
- Xác định nhân thân của Kẻ tố giác.
- Đối tượng vô danh đã rò rỉ Mệnh lệnh Đặc nhiệm.
- Gửi qua email nặc danh.
- Đã liên hệ Đơn vị Tội phạm Máy tính của Sở cảnh sát New York để truy tìm, đang chờ kết quả.
Hai tay chống nạnh, Amelia Sachs nghiên cứu chiếc bảng trắng. Cô để ý thấy Rhyme liếc nhìn những dòng chữ thanh thoát của cô, tỏ vẻ không hứng thú. Anh không chú ý nhiều đến nội dung cô viết ra, chờ đến lúc những dữ kiện xác thực - chủ yếu là chứng cứ, trong trường hợp của anh - bắt đầu lộ diện.
Lúc này chỉ có ba người họ, Sachs, Laurel và Rhyme. Lon Sellitto đã vào trung tâm thành phố để tuyển mộ một đội khảo sát kiêm trinh sát được tinh tuyển từ Đơn vị Công tác Đặc biệt của đại úy Bill Myers. Vì ưu tiên bảo mật, Laurel không muốn sử dụng các sĩ quan chính quy của Phòng Tuần tra.
Sachs trở lại bàn làm việc. Cô vốn không quen ngồi yên nhưng lại phải ngồi yên hầu hết hai tiếng vừa qua. Bị giam hãm ở đây khiến những thói quen xấu quay lại: Cô thọc móng tay vào nhau, gãi da đầu đến chảy máu. Tính vốn bồn chồn, cô nóng lòng muốn bước đi, muốn ra ngoài, muốn lái xe. Bố cô đã sáng tạo ra một cách diễn đạt cũng chính là bản thánh ca của cô:
Khi ta di chuyển, bọn chúng chẳng thể tóm ta…
Câu nói này đối với Herman Sachs có nhiều nghĩa. Dĩ nhiên nó có thể nói đến công việc của ông, của hai cha con - ông cũng từng làm cảnh sát, một cảnh sát tuần tra, đi tuần tại khu Deuce, Quảng trường Thời đại, vào một thời điểm mà tỉ lệ giết người trong thành phố ở mức cao kỉ lục. Nhanh chân, nhanh trí, nhanh mắt có thể giữ mạng sống của ta.
Cuộc đời nói chung nữa. Di chuyển… Ta càng giảm thiểu thời gian nằm trong tầm ngắm của một mối nguy bất kỳ thì càng tốt, bất luận mối nguy đó đến từ nhân tình, sếp hay đối thủ. Ông nhẩm đi nhẩm lại những lời này rất nhiều, tận đến lúc ông mất (có nhiều thứ ta không thể vượt mặt, chẳng hạn như cơ thể suy tàn của ta).
Nhưng tất cả các vụ án đều đòi hỏi điều tra lý lịch và công việc giấy tờ, và điều này đặc biệt đúng trong vụ án này, khi các dữ kiện rất khó kiếm tìm và hiện trường vụ án không tiếp cận được. Nên lúc này Sachs đang bị công việc bàn giấy giam lỏng, phải lội qua nhiều hồ sơ và khảo sát khu vực hiện trường - một cách kín đáo - qua điện thoại. Cô ngoảnh khỏi tấm bảng rồi lại ngồi, tiếp tục lơ đãng ngoáy móng tay cái vào phần thịt mềm dưới móng một ngón khác. Cái đau lan ra. Cô mặc kệ. Một vòng xoắn đỏ mờ nhạt xuất hiện trên một mẩu tin tình báo cô đang đọc và cô mặc kệ luôn nó.
Nguyên nhân của sự căng thẳng này một phần là do Cô giám sát, cách Sachs hình dung Nance Laurel. Cô không quen bị người khác trông chừng, dù là cấp trên của cô - là một thám tử hạng ba, Amelia Sachs có rất nhiều cấp trên. Laurel giờ đã dọn hẳn đến đây - cùng hai chiếc laptop bề thế vẫn chạy tốt - và còn nhờ người mang tới thêm nhiều tập hồ sơ dày cộm nữa.
Cô ta có định mang tiếp vào một cái giường gấp nữa không đây?
Mặt khác, Laurel thì vẫn tập trung, miệng không một nụ cười, chẳng hề bực dọc chút nào. Cô ta khom người về phía hồ sơ, gõ lọc cọc xuống bàn phím một cách ồn ào đến phát bực và hí hoáy ghi chép bằng nét chữ cực nhỏ, cầu kì. Hết trang này đến trang khác được dò xét, ghi chú và sắp xếp. Các đoạn văn trên màn hình máy tính được đọc kỹ càng, sau đó bị bác bỏ hoặc được trao một hình hài mới thông qua chiếc máy in laser để nhập bọn cùng các đồng chí của chúng trong bộ hồ sơ Khởi tố Metzger và đồng phạm.
Sachs đứng dậy, bước tới chỗ bảng trắng lần nữa rồi trở lại chiếc ghế đáng sợ, cố gắng suy luận về chuyến đi của Moreno tới New York từ ngày 30 tháng 4 đến hết 2 tháng 5. Vừa nãy, cô mới khảo sát các khách sạn và dịch vụ xe. Cô kết nối được với khoảng hai phần ba số người bằng xương bằng thịt, phần còn lại thì cô để lại lời nhắn.
Cô đưa mắt qua phía kia căn phòng liếc nhìn Rhyme. Anh đang nghe điện thoại, cố gắng thuyết phục cảnh sát Bahamas hợp tác. Nét mặt của anh như muốn nói anh cũng chẳng may mắn gì hơn cô.
Rồi điện thoại của Sachs reo. Cuộc gọi từ Rodney Szarnek, cùng Đơn vị Tội phạm Máy tính (CCU) thuộc Sở cảnh sát New York, một đội quân ưu tú gồm khoảng ba mươi thám tử và nhân viên hỗ trợ. Tuy Rhyme là một nhà khoa học pháp y truyền thống, nhưng anh và Sachs làm việc ngày càng mật thiết hơn với CCU trong những năm gần đây. Máy tính và điện thoại di động - lẫn những chứng cứ tuyệt đỉnh mà chúng giữ lại tưởng chừng như mãi mãi - rất trọng yếu đối với sự thành công của công tác điều tra thời nay. Sachs ước chừng Szarnek cỡ bốn mươi mấy tuổi, nhưng tuổi thật của anh rất khó xác định chính xác. Szarnek toát ra sự trẻ trung - từ mái tóc bờm xờm tới chuỗi trang phục gồm quần jean cùng áo thun nhăn nhúm, tới tình yêu mãnh liệt anh ta dành cho “những chiếc hộp”, cách anh ta gọi những chiếc máy vi tính.
Chưa kể việc anh ta nghiện thứ nhạc rock ồn ào và thường là dở tệ.
Chính là thứ nhạc đang xập xình ngoài nền lúc này.
“Chào Rodney”, Sachs nói, “phiền anh vặn nhỏ tiếng xuống chút được không?”
“Xin lỗi.”
Szarnek là chìa khóa tìm ra kẻ tố giác đã rò rỉ chỉ lệnh STO. Anh ta đang lần theo bức email nặc danh có đính kèm chỉ lệnh khử STO, truy ngược từ nơi nhận email, Văn phòng Công tố viên quận Manhattan, rồi cố gắng tìm ra nơi kẻ rò rỉ thông tin gửi email này. “Mất ít thời gian”, Szarnek báo cáo, trên nhịp rock 4/4 yếu ớt của âm bass và tiếng trống. “Email này được dẫn qua các máy chủ trung gian cách nửa vòng trái đất. Không, thật ra thì quanh trái đất cả một vòng. Tính đến giờ tôi đã truy ngược được từ văn phòng công tố viên quận đến một máy chủ chuyển tiếp tại Đài Loan rồi từ đấy đến Romani. Và nói cô biết, người Romani chẳng chịu hợp tác. Nhưng tôi cũng có được vài thông tin về chiếc hộp mà gã sử dụng. Gã tập tành khôn lanh nhưng lại phạm sai lầm.”
“Ý anh là đã tìm ra nhãn hiệu máy tính của gã hả?”
“Rất có thể. Chuỗi ký tự nhận diện phần mềm của gã… Mà cô có biết đó là gì không?”
Sachs thú nhận mình không biết.
“Đó là thông tin mà máy tính của cô gửi đến các bộ định tuyến, máy chủ và các máy tính khác khi cô lên mạng. Ai cũng thấy được và tìm ra chính xác hệ điều hành và trình duyệt của cô là gì. Cái hộp mà kẻ tố giác của cô sử dụng chạy hệ điều hành 9.22 của Apple và Internet Explorer 5 phiên bản Mac. Loại máy đấy cũ lắm. Thu hẹp được đáng kể phạm vi tìm kiếm. Tôi đoán gã có laptop iBook. Đó là máy Mac xách tay đầu tiên có tích hợp ăngten nên có thể gã đã đăng nhập vào Wi-Fi để tải tệp lên mà không cần bộ điều giải hay máy chủ riêng.”
iBook ư? Sachs chưa bao giờ nghe đến. “Cũ cỡ nào hả Rodney?” “Hơn mười năm. Có lẽ gã mua lại máy cũ bằng tiền mặt, để từ máy này không thể truy ngược về gã. Gã tập tành khôn lanh chính là chỗ này. Nhưng gã cũng chẳng ngờ là chúng ta tìm ra được hiệu máy.” “Hình dáng nó ra sao?”
“May ra thì đây là kiểu vỏ sò - có hai tông màu, trắng và một màu sáng nào đó, kiểu như xanh lá hay màu vỏ quýt. Tên sao thì hình dáng vậy.”
“Hình con sò.”
“Thật ra là kiểu tròn cạnh. Còn có kiểu chuẩn hình chữ nhật nữa, làm bằng than chì rắn, hình vuông. Nhưng máy này khá lớn đấy. Dày gấp đôi laptop thời nay. Nhìn là nhận ra ngay.”
“Tốt quá, Rodney. Cảm ơn anh.”
“Tôi sẽ tiếp tục điều tra bộ định tuyến. Bọn Romani cũng phải nhượng bộ thôi. Tôi chỉ cần thương lượng là được.”
Tiếng nhạc trỗi to lên, rồi đường dây mất tín hiệu.
Sachs liếc xung quanh, thấy Nance Laurel đang nhìn cô với vẻ mặt vừa vô cảm vừa tò mò. Sao cô ta làm được vẻ mặt như thế nhỉ? Sachs kể cho cô ta và Rhyme nghe hồi đáp từ bên cảnh sát tội phạm điện tử. Rhyme gật gù, vẻ không ấn tượng, rồi trở lại cuộc gọi. Anh không nói gì. Sachs cho rằng anh đang chờ máy.
Laurel gật gù tỏ vẻ tán thưởng. “Phiền cô ghi chép lại thông tin đấy rồi gửi cho tôi.”
“Hả?”
Một khoảng nghỉ. “Thông tin cô vừa cho tôi biết về quá trình truy tìm và kiểu máy tính ấy.”
Sachs nói, “Tôi cũng định ghi lên bảng đây.” Cô hất đầu về phía chiếc bảng trắng.
“Thật ra tôi thích thứ gì cũng phải ghi chép lại càng sớm càng tốt.” Cô công tố viên hất đầu về phía các chồng hồ sơ của mình. “Phiền cô.”
Cô công tố viên này cứ lăm lăm mấy chữ “Phiền cô…” như thể cầm dùi cui.
Sachs thực sự thấy phiền nhưng cô không muốn đấu đá về chuyện này. Cô nện trên bàn phím một bản ghi nhớ ngắn gọn.
Laurel nói thêm, “Cảm ơn cô. Chỉ cần gửi cái đấy cho tôi qua email rồi tôi tự in ra. Tất nhiên là qua máy chủ bảo mật.”
“Tất nhiên.” Sachs phóng ngay tài liệu đi, đồng thời để ý thấy kiểu cách quản lý chi li của cô công tố viên này dường như không mở rộng sang Lincoln Rhyme.
Điện thoại của Sachs reo rồi cô chau mày ngạc nhiên khi thấy tên người gọi.
Rốt cuộc cũng gọi. Một manh mối vững chắc. Người gọi là một thư ký tại công ty Elite Limousines, một trong số hàng chục công ty cho thuê xe mà Sachs đã khảo sát trước đó để hỏi liệu Robert Moreno có sử dụng dịch vụ của họ vào ngày 1 tháng 5 không. Thực tế thì anh ta có sử dụng. Người phụ nữ nói người đàn ông này đã bao trọn xe và tài xế, tức là Moreno đã cho người tài xế các địa điểm mình muốn đi sau khi được đón. Công ty không lưu hồ sơ những điểm dừng này nhưng người phụ nữ cho Sachs tên và số của người tài xế.
Rồi cô gọi cho người tài xế, tự giới thiệu rồi hỏi có thể đến phỏng vấn anh ta về việc liên quan đến vụ án không.
Bằng một chất giọng ngoại quốc đặc sệt, khó hiểu, anh ta trả lời chắc là được rồi đọc cho cô địa chỉ. Cô ngắt máy rồi đứng dậy, tay xỏ áo khoác vào.
“Đã liên lạc được tài xế mà Moreno thuê cho chuyến đi của anh ta tới đây vào ngày 1 tháng 5”, cô nói với Rhyme. “Để tôi phỏng vấn anh ta.”
Laurel nói nhanh, “Trước khi đi, cô có thể ghi chép lại tin tức từ điệp viên Dellray được không?”
“Tôi về là viết ngay.”
Cô để ý thấy nét mặt Laurel đanh lại nhưng có vẻ đây là cuộc chiến cô công tố viên chẳng muốn tham gia.