“Thì ra Caribê là đây.”
Bàn tay đặt trên cần điều khiển của chiếc xe lăn màu kẹo-táo-đỏ, Lincoln Rhyme lái nó ra ngoài cửa sân bay Lynden Pindling tại Nassau, hòa mình vào một bầu khí quyển nóng và ẩm ướt hơn những gì anh nhớ bản thân từng trải nghiệm nhiều năm trước.
“Đẹp đến lặng người”, anh kêu lên. “Nhưng tôi thích.” “Từ từ thôi, Lincoln”, Thom nói.
Nhưng Rhyme không nghe lời. Anh là một đứa bé vào sáng Giáng sinh. Anh đang ở nơi đây, một quốc gia khác lần đầu tiên trong nhiều năm. Anh hào hứng khi nghĩ đến chuyến đi. Nghĩ cả đến những thứ sẽ thu hoạch được: các vật chứng xác thực trong vụ án Moreno. Sở dĩ anh quyết định đến đây là vì một thứ mà anh thiếu điều xấu hổ khi phải thừa nhận: trực giác, cái thứ ám muội vớ vẩn ấy mà Amelia Sachs luôn miệng nói đến. Anh có cảm giác cách duy nhất để lấy được viên đạn triệu đô ấy và các chứng cứ khác là lăn bánh đến tận chỗ hạ sĩ Mychal Poitier để hỏi xin. Đích thân hỏi.
Rhyme biết cậu cảnh sát này thật sự phiền lòng về cái chết của Robert Moreno và cũng không yên lòng khi mình là một con tốt thí bị cấp trên sử dụng để gạt vụ án ra ngoài lề.
Không hề có một vụ thanh tra hay cấp phép nào tôi đảm nhiệm mà không được hoàn thành đúng hạn, tỉ mỉ và trong sạch cả…
Anh nghĩ sẽ không mất nhiều công sức thuyết phục cậu hạ sĩ giúp đỡ.
Và thế là Thom đã đứng mũi chịu sào chờ điện thoại để đặt khách sạn và vé máy bay, phải nghe thứ nhạc dở tệ - cậu hộ lý nhiều lần tuyên bố như vậy - nhằm sắp xếp chuyến bay và khách sạn, một nhiệm vụ càng phức tạp hơn do bệnh trạng của Rhyme.
Nhưng không phức tạp như họ tưởng.
Tất nhiên có một số vấn đề phải đối phó khi đi xa trong tình trạng liệt tứ chi - nào xe lăn đặc chủng rước vào tận chỗ ngồi, nào gối đặc biệt, nào phải lo việc cất trữ chiếc xe lăn Storm Arrow, nào những vấn đề thực dụng bao gồm việc đi nặng đi nhẹ có thể phải đối phó trên chuyến bay.
Dẫu vậy, chuyến đi rốt cuộc cũng không tệ. Tất cả chúng ta đều tật nguyền dưới mắt Cục An ninh Vận chuyển, đều bất động, đều là món đồ, đều là mớ hành lý bị lục lọi tùy hứng. Lincoln thật ra cảm thấy mình còn đỡ hơn phần lớn các du khách đồng hương, những người đã quen di chuyển và tự lập.
Bên ngoài khu vực lấy hành lý, tại tầng trệt sân bay, Rhyme di chuyển đến chỗ lề đường đầy ấp du khách và dân địa phương đang lăng xăng đón nào xe, nào taxi, nào xe gia đình bảy chỗ. Anh nhìn một vườn cây nhỏ nhắn, một vài giống cây trong đó anh chưa thấy bao giờ. Anh không có hứng thú với trồng trọt vì mục đích thẩm mỹ mà chỉ thấy cây cỏ rất hữu ích đối với công tác khám hiện trường.
Anh cũng nghe nói rượu rum ở Bahamas đặc biệt ngon.
Trở lại nơi Thom đang đứng và nghe điện thoại, Rhyme gọi cho Sachs để lại lời nhắn. “Đến nơi an toàn. Anh…” Anh quay ngoắt lại vì một tiếng rít như mèo gào sau lưng. “Trời đất, làm anh sợ hết hồn. Có một con vẹt ở đây. Nó nói chuyện kìa!”
Cái lồng được một ủy ban du khách địa phương đặt ở đó. Bên trong là một con vẹt Bahamas vùng Abaco, theo nội dung tấm biển. Con chim ồn ào này, lông xám với cái đuôi xanh lá nổi bật, đang lảnh lót, “Hê-lô! Xin chào! ¡Hola!” Rhyme ghi âm lại một đoạn chào cho Sachs nghe.
Lại một hơi thở đầy không khí mặn, ẩm, đượm chút mùi chua, cái mà anh nhận ra là khói. Cái gì đang cháy vậy? Chẳng ai có vẻ gì là hốt hoảng cả.
“Lấy được hành lý rồi”, một giọng nói cất lên phía sau lưng họ.
Sĩ quan tuần tra Ron Pulaski thuộc Sở cảnh sát New York - trẻ trung, tóc vàng, mảnh khảnh - đang lăn chỗ va li trên một xe đẩy. Cả ba người không định nán lại đây lâu nhưng bệnh trạng của Rhyme buộc anh phải cần đến phụ kiện. Rất nhiều phụ kiện. Thuốc men, ống thông, ống truyền, chất khử trùng, gối hơi để phòng các vết sưng tấy có thể dẫn đến nhiễm trùng.
“Cái gì kia?” Rhyme hỏi khi Thom lôi một ba lô nhỏ ra khỏi một cái túi rồi treo nó đằng sau xe lăn.
“Máy thở lưu động”, Pulaski trả lời.
Thom đế thêm, “Chạy bằng pin. Bình ôxi kép. Dùng được vài tiếng.”
“Cậu mang theo cái của nợ đấy làm gì thế?”
“Để bay trong áp suất khoang ở độ cao hơn hai nghìn mét”, cậu hộ lý đáp như thể câu trả lời rất hiển nhiên. “Căng thẳng. Khối lý do để mang theo, chẳng mất gì.”
“Nhìn tôi có giống căng thẳng không?” Rhyme dằn dỗi hỏi. Anh đã bỏ máy thở nhiều năm trước, để tự thở, một trong những thành tích hào hùng nhất mà một người liệt tứ chi có thể đạt được.
Nhưng Thom dường như đã quên - hoặc không màng đến - thành tích đó. “Tôi không cần.”
“Hi vọng là anh không cần. Nhưng mang theo thì mất gì nào?” Rhyme không biết trả lời thế nào. Anh liếc nhìn Pulaski.
“Mà nó cũng chẳng phải là máy thở. ‘Thở’ là sự trao đổi ôxy và cácboníc. ‘Thông khí’ là sự lưu chuyển khí vào phổi. Do đó, đây là máy thông khí.”
Pulaski thở dài. “Hiểu rồi, Lincoln.”
Chí ít cậu tân binh này cũng đã bỏ cái thói quen phát bực là gọi Rhyme bằng “sếp” hoặc “đại úy.”
Cậu cảnh sát trẻ bèn hỏi, “Có quan trọng không?”
“Quan trọng chứ sao không”, anh đốp lại. “Sự chính xác là chìa khóa dẫn đến mọi việc. Xe đâu?”
Một nhiệm vụ khác của Thom là kiếm một phương tiện dành cho người khuyết tật tại Bahamas này.
Vẫn đang dở cuộc gọi, cậu ta liếc nhìn Rhyme, mặt nhăn nhó. “Tôi lại bị chờ máy nữa.”
Cậu hộ lý cuối cùng cũng liên lạc được với ai đó và vài phút sau, chiếc xe tấp vào lề đường gần khu vực đón xe buýt mini đến khu nghỉ dưỡng. Chiếc Ford màu trắng cũ nát và sặc mùi khói thuốc lá cũ. Cửa kính xe nhớt nhợt. Pulaski chất hành lý vào sau xe trong khi Thom ký biểu mẫu rồi đưa lại cho người đàn ông mảnh khảnh, nước da sẫm đã giao xe tới. Thẻ tín dụng và một lượng tiền mặt nhất định được trao qua đổi lại rồi tay tài xế cuốc bộ đi mất. Rhyme tự hỏi liệu xe này có phải xe ăn cắp hay không. Rồi anh kết luận suy nghĩ vậy là phiến diện.
Mày đang ở một thế giới khác chứ không còn là Manhattan nữa. Phải cởi mở đầu óc.
Thom ngồi sau vô lăng chở họ di dọc đường cao tốc chính về hướng Nassau, một con đường hai làn xe còn tốt. Dòng xe cộ đông đúc ùa ra ồ ạt từ sân bay, phần lớn là xe Mỹ cũ hơn và xe nhập từ Nhật, xe tải cà tàng, xe bảy chỗ. Hầu như không có chiếc xe thể thao đa dụng nào, điều chẳng có gì đáng lạ ở một vùng đất có giá xăng đắt đỏ và không có băng tuyết hay núi non. Điều đáng lạ là mặc dù hướng lái xe ở đây theo bên lề trái - vì Bahamas từng là thuộc địa cũ của Anh - nhưng phần lớn xe cộ đều có tay lái bên trái, kiểu Mỹ.
Khi chiếc xe nhích ậm ạch về hướng đông, Rhyme để ý thấy dọc bên đường có nhiều cửa hiệu chẳng thấy trưng bảng hiệu nào về sản phẩm hay dịch vụ mà nó cung cấp, nhiều lô đất nhếch nhác, những người bán rong trái cây và rau củ từ phía sau xe, họ dường như chẳng thèm chào mời khách. Chiếc xe đi qua một vài căn nhà to lớn nằm sau những cánh cổng, được xây dựng lộn xộn theo nhiều hướng, phần lớn là kiến trúc xưa. Nhiều căn nhà và căn lán nhỏ hơn dường như bị bỏ hoang, nạn nhân của các trận bão, anh đoán vậy. Gần hết dân địa phương đều có nước da rất sẫm. Phần lớn đàn ông mặc áo thun hoặc sơ mi ngắn tay, bỏ ngoài quần, và quần bò, quần dài hoặc quần đùi. Phụ nữ cũng mặc những bộ cánh tương tự nhưng nhiều người mặc đầm trơn in hoa hoặc rặt một màu rực rỡ.
“Úi chà”, Thom nín thở thốt lên, chân phanh gấp và tránh được con dê mà không làm lật đồ đạc của họ.
“Coi kìa”, Pulaski nói. Đoạn chụp lại con vật trên máy ảnh điện thoại của mình.
Thom tuân theo vị thần GPS và trước khi đến trung tâm Nassau, họ rẽ khỏi đường cái, tránh xa dòng xe cộ dày đặc. Họ lái qua những bức tường đá vôi của một pháo đài cũ kĩ. Sau năm phút, cậu hộ lý tấp xe - người lắc lư trên nhíp xe dở tệ - vào bãi xe của một khách sạn khiêm tốn nhưng được chăm nom tốt. Anh và Pulaski chuyển hành lý cho một nhân viên khuân vác, xong cậu hộ lý đi đến bàn tiếp tân để đăng ký phòng và khảo sát các dịch vụ dành cho người khuyết tật của nhà trọ. Cậu trở lại để báo rằng họ đã được chấp nhận.
“Một phần Pháo đài Charlotte”, Pulaski đọc lớn một biển hiệu bên cạnh một con đường dẫn từ khách sạn đến pháo đài.
“Hả?” Rhyme hỏi.
“Pháo đài Charlotte. Sau khi nó được xây, chẳng hề có ai tấn công Bahamas. Thật ra là chưa hề tấn công đảo New Providence. Chính là nơi chúng ta đang ở.”
“Ờ”, Rhyme đáp, vẻ chẳng hứng thú gì.
“Nhìn này”, Pulaski nói, tay chỉ một con thằn lằn đứng bất động trên bờ tường cạnh cửa ra vào khách sạn.
Rhyme nói, “Một con tắc kè hoa xanh lục, tắc kè hoa Mỹ. Nó đang mọng trứng.”
“Nó sao cơ?”
“Có thai. Nhìn là biết mà.”
“‘Mọng trứng’ nghĩa là vậy sao?” Cậu cảnh sát trẻ hỏi.
“Định nghĩa chuyên môn đúng là ‘mọng đầy trứng.’ Ergo1, có thai.”
1 Do đó (Tiếng Latin).
Pulaski cười. “Anh đúng là biết đùa mà.”
Rhyme gầm gừ, “Đùa? Một con thằn lằn đang mang bầu thì có gì đáng cười?”
“Không phải, ý tôi là sao anh biết nó mang bầu?”
“Bởi vì trước khi đi, tôi biết mình sắp đến một nơi không thông thuộc, trong khi chương đầu cuốn sách pháp y của tôi nói sao hả, tân binh?”
“Quy tắc: Ta phải hiểu đặc điểm địa lý một hiện trường khi khám hiện trường đó.”
“Trước khi đi, tôi thấy cần phải biết thông tin cơ bản về địa chất và động thực vật nơi đây có thể giúp ích cho tôi. Còn chuyện không có ai xâm lược sau khi Pháo đài Charlotte được xây đối với tôi là vô ích, nên tôi chẳng thèm học cái đấy. Thằn lằn này, vẹt này, cả bia Kalik lẫn cây đước này có thể xài được. Nên tôi đọc về mấy thứ đó trên chuyến bay. Còn cậu đọc cái gì trên máy bay?”
“Ờ… tạp chí People.” Rhyme giễu cợt.
Con thằn lằn chớp mắt rồi quay đầu lại, mình vẫn bất động. Rhyme lôi điện thoại ra khỏi túi sơ mi. Cuộc phẫu thuật trước đó, trên cánh tay và bàn tay phải, khá thành công. Các cử động còn hơi gượng so với cử động của một chi lành lặn, nhưng cũng đủ trơn tru để người ngoài nhìn vào không để ý chúng chưa thật tự nhiên. Điện thoại của anh là một chiếc iPhone và anh đã bỏ ra nhiều giờ thực tập các kỹ năng bí truyền là trượt màn hình và khởi chạy ứng dụng. Anh dùng tính năng nhận dạng giọng nói đã quá đủ, do bệnh trạng của mình, nên anh đã tắt Siri đi. Lúc này, anh đang dùng tính năng xem lại các cuộc gọi gần đây để quay một số chỉ với một cú chạm. Giọng một phụ nữ rặt âm điệu ngoại quốc vang lên, “Cảnh sát đây, quý vị có gì khẩn cấp không?”
“Không, không khẩn cấp. Tôi có thể nói chuyện với hạ sĩ Poitier được không?”
“Xin anh chờ một chút.”
Một khoảng thời gian chờ máy ngắn ngủi hạnh phúc. “Poitier xin nghe.”
“Đồng chí hạ sĩ hả?”
“Đúng rồi. Ai đấy ạ?”
“Lincoln Rhyme.”
Im bặt một khoảnh khắc đằng đẵng. “Vâng.” Cái từ duy nhất này chứa vô vàn sự bất định và khó chịu. Sòng bạc là nơi trò chuyện an toàn hơn hẳn so với văn phòng của cậu ta.
Rhyme tiếp tục. “Nhẽ ra tôi đã cho cậu thẻ tín dụng của tôi rồi. Hoặc là gọi lại cậu trên đường dây của tôi.”
“Lúc ấy tôi không nói lâu hơn được. Còn bây giờ tôi hơi bận.” “Vụ cô sinh viên mất tích hả?”
“Đúng vậy”, giọng nam trung giàu ngữ điệu ấy đáp trả. “Các cậu có manh mối gì không?”
Có một khoảng lặng. “Vẫn không. Đã hơn hai mươi bốn tiếng rồi. Tại trường và nơi làm việc bán thời gian của cô ta đều bặt tin. Gần đây nhất cô ta có gặp một người đàn ông từ Bỉ. Ông ta có vẻ quẫn trí lắm nhưng…” Cậu ta để những lời chần chừ này nhạt dần thành khói. Rồi cậu nói, “Tôi sợ là không giúp được gì liên quan đến vụ án của anh.”
“Đồng chí hạ sĩ, tôi muốn gặp cậu.”
Sự im lặng dài nhất từ trước đến giờ. “Gặp?” “Phải.”
“Chà, sao mà gặp được?”
“Tôi đang ở Nassau. Tôi sẽ đề xuất một nơi nào đấy không phải tổng bộ cảnh sát. Cậu thích gặp ở đâu thì mình gặp ở đấy.”
“Nhưng… tôi… Anh đang ở đây ư?”
“Tránh xa văn phòng chắc tốt hơn”, Rhyme lặp lại. “Không. Không thể nào. Tôi không gặp anh được.”
“Tôi thật sự phải nói chuyện với cậu”, Rhyme nói.
“Không, tôi phải đi đây, đại úy.” Có một sự tuyệt vọng trong giọng nói cậu ta.
Rhyme nhanh nhảu đề nghị, “Chúng tôi đến văn phòng của cậu vậy.”
Poitier lặp lại, “Anh ở đây thật sao?”
“Đúng vậy. Vụ án rất quan trọng. Chúng tôi rất xem trọng vụ án này.”
Rhyme biết rằng Cảnh sát Hoàng gia Bahamas không xem trọng vụ án này. Nhưng anh vẫn tin Poitier sẽ giúp nếu anh thúc giục cậu ta đủ nhiều.
“Tôi nói rồi, tôi bận lắm.”
“Cậu có gặp chúng tôi hay không?” “Không, không được đâu.”
Cậu hạ sĩ dập máy một tiếng cạch.
Rhyme liếc nhìn con thằn lằn, rồi xoay sang Thom cười. “Chúng ta ở vùng Caribê, bao quanh bởi biển nước đẹp tuyệt vời - đi tạo ít sóng nào.”