• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Buồng khử
  3. Trang 38

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 37
  • 38
  • 39
  • More pages
  • 113
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 37
  • 38
  • 39
  • More pages
  • 113
  • Sau

Chương 31

Chiếc xe du lịch chạy dọc đường Bay, sau đó xuyên qua trung tâm Nassau, băng qua những cửa tiệm lợp gỗ và những tư dinh sơn màu hồng dịu, vàng lục, sắc màu của những chiếc kẹo dẹp hương bạc hà mà Lincoln Rhyme còn nhớ từ các mùa Giáng sinh thời niên thiếu của anh.

Thành phố này đa phần có địa hình bằng phẳng. Thống trị toàn cảnh thành phố nhìn từ trên cao là những chiếc tàu biển chở khách, đã đỗ bến hoặc đang chầm chậm rẽ sóng nước về bên trái. Rhyme chưa bao giờ nhìn cận cảnh một chiếc tàu như thế. Những con tàu khổng lồ, vươn hàng trăm mét vào không trung. Trung tâm thành phố sạch sẽ và đâu ra đó, hơn hẳn các khu vực xung quanh sân bay. Không như thành phố New York, nơi đây cây cối mọc khắp mọi nơi, nặng trĩu hoa lá, rễ cây cài chặt xuống vỉa hè và đường phố. Khu vực này là một sự pha trộn giữa công việc kinh doanh nghiêm túc - nào luật sư, nào kế toán viên và những người môi giới bảo hiểm - và những cửa hiệu bán bất kỳ món đồ gì có thể chia cắt du khách thưởng ngoạn trên thuyền với tiền bạc của họ.

Trang phục cướp biển là một món thông dụng để đạt được mục đích đó. Cứ hai đứa trẻ trên vỉa hè là có một đứa mang kiếm nhựa và đội mũ đen có hình đầu lâu xương chéo.

Họ lái qua một vài trụ sở chính phủ. Quảng trường Quốc hội, Rhyme để ý cái tên. Mặt tiền đặt một bức tượng Nữ hoàng Victoria ngồi cầm quyền trượng, mắt nhìn đăm đăm xa xăm như thể tâm trí của bà đang tập trung vào các thuộc địa quan trọng hơn, hoặc có lẽ là rầy rà hơn.

Chiếc xe du lịch với chức năng hỗ trợ người khuyết tật hòa hợp ngay cùng dòng xe cộ tại đây, tương đồng với phần lớn phương tiện di chuyển là những chiếc xe con và xe buýt mini, có khác chăng là ở sự có mặt của dốc đưa xe lăn. Cũng như vừa nãy, nhịp độ xe cộ ở đây thư thả đến phát bực. Rhyme nhận thấy hiện tượng này không phải do người ta lái xe rề rà. Chẳng qua có quá nhiều bánh xe lăn trên quá ít đường sá.

Cả xe tay ga hai bánh nữa. Đâu đâu cũng thấy. “Đây là lộ trình tốt nhất rồi hả?” Anh làu bàu.

“Phải”, hộ lý của anh vừa đáp vừa rẽ phải vào đường East. “Lâu hơn tôi tưởng.”

Thom chẳng đáp lại. Họ càng đi về hướng nam thì khu vực ngày càng nhếch nhác. Càng nhiều cảnh thiệt hại do bão hơn, nhiều lán trại hơn, nhiều dê và gà hơn.

Họ đi ngang qua một tấm biển:

Bảo Vệ Cái Ấy Của Bạn!

LUÔN LUÔN Dùng Bao Cao Su

Trước đó, Rhyme phải gọi nhiều cuộc mới tìm được vị trí chính xác của Mychal Poitier - hiển nhiên là không gọi thẳng cho cậu hạ sĩ. Nassau có một Tổ Điều tra Trung ương (CDU) riêng biệt, không trực thuộc tổng bộ. Poitier trước đó có ám chỉ là cậu ta đang làm việc cùng CDU nhưng theo lời cô tiếp tân tại đó, có vẻ như cậu được điều vào CDU nhưng không thuộc tổ này. Cô không chắc văn phòng của cậu ta ở đâu.

Cuối cùng anh gọi vào số chính và biết được Poitier đang ở tổng bộ Cảnh lực Hoàng gia Bahamas trên đường East.

Khi họ đến nơi, Rhyme nhìn quanh tòa nhà này qua lớp kính xe lấm bùn. Tổng bộ này là một khu phức hợp các công trình không tương xứng - tòa nhà chính hiện đại và sơn nhạt màu, có hình dáng một cây thánh giá đặt nằm. Các tòa nhà phụ trợ thì rải rác quanh khuôn viên. Một khu dường như là nhà tạm giam (một con đường nhánh gần đó mang tên Prison Lane2). Đất khuôn viên trồng hỗn hợp các loại cỏ - một số mảng cỏ gọn gàng, một số mảng tả tơi - và bãi đỗ xe rải đầy sỏi và cát.

2 “Đường Nhà Lao” (dịch sát).

Một cơ quan chấp pháp thực dụng.

Họ ra khỏi xe. Một lần nữa, cái mùi khói cay xè váng vất trong không khí. A, đây rồi. Liếc nhìn sân sau của một tư dinh gần đó, Rhyme hiểu ra nguồn gốc cái mùi: lửa đốt rác. Hẳn đâu đâu người ta cũng đốt rác.

“Kìa, Lincoln, chúng ta cần một cái như vậy”, Pulaski nói. Cậu đang chỉ về mặt tiền tòa nhà chính.

“Cần cái gì cơ?” Rhyme càu nhàu. “Tòa nhà, ăng-ten vô tuyến, nắm đấm cửa, nhà tù?”

“Biểu trưng.”

Cảnh lực Hoàng gia Bahamas quả có một biểu trưng khá ấn tượng, hứa hẹn với công dân quần đảo này lòng cam đảm, tính chính trực và sự trung thành. Còn đâu trên quả đất này có thể tìm được trọn gói cả ba tố chất gọn ghẽ như thế?

“Tôi sẽ mua cho cậu một cái áo thun làm quà lưu niệm, tân binh.” Rhyme điều khiển xe lăn lên vỉa hè rồi sấn sổ vào đại sảnh, một nơi chẳng có gì ấn tượng, trầy trụa và tróc lở. Kiến bò lúc nhúc trong khi ruồi oanh tạc túi bụi. Dường như chẳng có viên cảnh sát mặc thường phục nào, ai cũng vận sắc phục. Thông dụng nhất là áo khoác trắng, quần dài đen có sọc đỏ mờ trên phần hông, số nữ cảnh sát ít ỏi thì mặc áo khoác tương tự và váy có sọc. Phần nhiều nhân sự ở đây - mặc rặt một màu đen - đều đội mũ cảnh sát truyền thống hoặc mũ cát trắng.

Thuộc địa…

Cả chục dân bản địa và du khách ngồi trên ghế băng hoặc đứng xếp hàng, chờ nói chuyện với cảnh sát, có lẽ để trình báo vụ án. Trông họ phần nhiều là bực bội hơn là hoảng loạn. Rhyme cho rằng đa phần các vụ án ở đây là móc túi, mất hộ chiếu, sàm sỡ, trộm máy ảnh và xe hơi.

Anh nhận thức được sự chú ý mà anh và nhóm tùy tùng nho nhỏ của mình đang thu hút. Một cặp vợ chồng đứng tuổi, người Mỹ hoặc người Canada, đang đứng trước anh trong hàng. “Ôi, không, mời anh lên trước.” Người vợ nói chuyện như thể với một đứa trẻ lên năm. “Thật đấy.”

Rhyme phật ý trước sự chiếu cố của họ và khi Thom cảm nhận được điều này, cậu đanh người lại, ngỡ một cơn thịnh nộ sắp xảy ra, nhưng nhà khoa học hình sự mỉm cười cảm ơn họ. Con sóng mà anh định tạo sẽ để dành cho chính Cảnh lực Hoàng gia Bahamas.

Một người đàn ông cao nghều đứng đầu hàng phía trước Rhyme có nước da đen bóng, mặc quần bò và sơ mi không đóng thùng. Ông ta đang khiếu nại với một sĩ quan tiếp dân trông quyến rũ đang lắng nghe chăm chú về con dê bị mất trộm.

“Chắc nó bỏ đi chăng?” Người phụ nữ gợi ý.

“Không, không, dây thừng bị cắt cơ mà. Tôi có chụp lại ảnh. Cô muốn xem không? Dây bị cắt bằng dao. Tôi có ảnh! Hàng xóm của tôi đấy. Tôi biết hàng xóm của tôi làm mà.”

Chứng cứ vết tích công cụ có thể cho thấy mối liên hệ giữa kiểu cắt trên dây thừng với lưỡi dao của người hàng xóm. Sợi gai dầu đặc biệt rất dính, ít nhiều sẽ có hiện tượng chuyển giao chứng cứ. Gần đây trời lại mưa. Dấu chân nhất định vẫn tồn tại.

Vụ án dễ ợt, Rhyme vừa ngẫm vừa mỉm cười với chính mình. Anh ước chi Sachs có mặt ở đây để anh có thể chia sẻ câu chuyện này với cô.

Dê…

Người đàn ông được thuyết phục đi kiếm dê thêm ít lâu nữa. Rồi Rhyme di chuyển tới trước. Cô sĩ quan tiếp dân khẽ nhỏm dậy và ngó xuống nhìn anh. Anh xin gặp Mychal Poitier.

“Vâng, để tôi gọi cho anh ấy. Còn anh là?” “Lincoln Rhyme.”

Cô thực hiện cuộc gọi. “Thưa hạ sĩ, cảnh sát viên Bethel đây, gọi từ bàn tiếp dân. Một người tên Lincoln Rhyme và một số người khác ở đây muốn gặp anh.” Cô nhìn chằm chằm xuống chiếc điện thoại cổ lỗ sĩ màu be của mình, càng nghe càng căng thẳng. “À, vâng, thưa hạ sĩ. Tôi nói rồi, ông ấy đang ở đây… Thì ông ấy đang ở ngay trước mặt tôi này.”

Phải chăng Poitier bảo cô giả vờ là cậu ta đi vắng?

Rhyme nói, “Nếu cậu ấy bận thì nói với cậu ấy tôi sẵn sàng chờ. Bao lâu cũng được.”

Mắt cô liếc nhìn mắt Rhyme với vẻ không chắc chắn. Cô nói vào điện thoại, “Ông ấy nói…” Nhưng có vẻ như Poitier đã nghe được. “Vâng, thưa hạ sĩ.” Cô đặt ống nghe xuống. “Một lát nữa anh ấy đến.”

“Cảm ơn cô.”

Họ xoay người đi rồi di chuyển tới một khu vực vắng người trong phòng chờ.

“Chúa phù hộ cho ông”, người phụ nữ nhường chỗ trong hàng cho con người đáng thương hại nói.

Rhyme cảm nhận bàn tay của Thom trên vai nhưng một lần nữa, anh chỉ mỉm cười.

Thom và Pulaski ngồi xuống ghế băng sát Rhyme, bên dưới hàng chục tranh ảnh chân dung các vị cảnh sát trưởng và sĩ quan chỉ huy thâm niên của Cảnh lực Hoàng gia Bahamas, từ nhiều năm về trước. Anh xem lướt qua phòng tranh. Đây cũng chẳng khác bức tường vinh danh lực lượng quân đội ở nơi khác: những gương mặt cứng đờ và, như gương mặt của Nữ hoàng Victoria, nhìn xa xăm đâu đâu chứ không nhìn thẳng vào thợ vẽ hay máy ảnh. Không cảm xúc, nhưng nào ai biết những cặp mắt đó đã thấy những gì trong hàng trăm năm làm nhiệm vụ chấp pháp.

Rhyme đang phân vân không biết Poitier sẽ nấn ná trong bao lâu thì một viên cảnh sát trẻ xuất hiện từ lối hành lang và tiến đến chỗ bàn giấy. Cậu mặc chiếc quần dài đen sọc đỏ đâu đâu cũng thấy ấy và một áo sơ mi xanh dương tay ngắn, cổ không cài cúc. Một sợi dây chuyền vắt từ cúc áo trên cùng và biến mất vào trong túi áo bên trái. Một chiếc còi chăng? Rhyme tự hỏi. Cậu thanh niên da sẫm này, người trang bị súng lục bán tự động, để đầu trần và có mái tóc dày nhưng được tỉa ngắn. Khuôn mặt đầy đặn của cậu không vui.

Cảnh sát viên Bethel chỉ Rhyme cho cậu cảnh sát. Cậu thanh niên xoay người rồi chớp mắt trong sự ngạc nhiên cao độ. Mặc dù đã cố gắng kìm lại, nhưng cậu ngay lập tức nhìn chằm chằm vào chiếc xe lăn và cặp chân của Rhyme. Cậu ta lại chớp mắt rồi tự dưng ra chiều khó ở.

Rhyme biết không chỉ sự có mặt của anh mới làm cậu cảnh sát này bực bội.

Gạt án mạng với địa chính trị sang một bên đi. Mình phải đối phó với một kẻ què sao?

Poitier chần chừ thêm chốc lát, có lẽ đang tự hỏi liệu mình đã bị phát hiện chưa. Mình còn thoát được chăng? Rồi, bình tâm lại, cậu rời bàn tiếp tân một cách miễn cưỡng rồi tiến về phía họ.

“Chào đại úy Rhyme.” Cậu nói câu này bằng một giọng thân mật, gần như hân hoan. Hệt như giọng của nữ du khách vừa nãy. Bàn tay Poitier mở ra một nửa như thể cậu không muốn bắt tay nhưng nghĩ sẽ là bất lịch sự nếu không chủ động. Rhyme nâng tay lên và cậu cảnh sát nhanh chóng, rất nhanh, nắm chặt rồi thả ra.

Liệt tứ chi đâu có truyền nhiễm chứ, Rhyme chua chát nghĩ. “Đồng chí hạ sĩ, đây là sĩ quan Pulaski của Sở cảnh sát New York. Và người điều dưỡng của tôi, Thom Reston.”

Mọi người bắt tay nhau, lần này ít có sự do dự hơn. Nhưng Poitier lại ngước lên ngước xuống nhìn Thom. Có lẽ khái niệm “điều dưỡng” đối với cậu ta còn mới mẻ.

Cậu hạ sĩ nhìn quanh mình, thấy vài sĩ quan đồng nghiệp đứng ngây ra nhìn họ bằng nhiều thái độ khác nhau, hệt như trẻ con chơi trò giả làm tượng.

Sự chú ý của Mychal Poitier ngay lập tức trở lại với chiếc xe lăn và cặp chân không cảm giác của Rhyme. Tuy nhiên, cử động chầm chậm của cánh tay phải dường như đập vào mắt cậu nhiều nhất. Cuối cùng, Poitier, bằng tất cả sức mạnh ý chí của mình, buộc bản thân nhìn thẳng vào mắt Rhyme.

Nhà khoa học hình sự thoạt tiên thấy bực bội trước phản ứng này, nhưng sau đó anh cảm nhận được một cảm giác đã lâu chưa trải nghiệm: Anh xấu hổ. Thực sự xấu hổ về bệnh trạng của mình.

Anh đã hi vọng cảm giác đó sẽ chuyển thành cơn giận bùng cháy nhưng không. Anh cảm thấy nhỏ bé, cảm thấy yếu ớt.

Ánh mắt sững sờ của Poitier đã đốt cháy anh.

Xấu hổ…

Anh cố gạt cái cảm giác đau nhói ấy sang một bên rồi điềm đạm nói, “Tôi cần phải bàn về vụ án đấy với cậu, đồng chí hạ sĩ.”

Poitier lại nhìn quanh. “Tôi e là đã cho anh biết hết những gì có thể rồi.”

“Tôi muốn xem báo cáo chứng cứ. Tôi muốn xem chính hiện trường vụ án.”

“Việc đấy không được. Hiện trường bị phong tỏa rồi.”

“Các anh phong tỏa hiện trường nhằm ngăn cản công chúng xâm phạm, chứ không phải với nhân viên pháp y.”

“Nhưng anh…” Một sự do dự. Khó khăn lắm Poitier mới không nhìn vào cặp chân anh. “Anh không phải cảnh sát ở đây, thưa đại úy Rhyme. Ở đây anh là dân thường. Tôi rất tiếc.”

Pulaski nói, “Hãy để chúng tôi giúp anh phá vụ án này.” “Thời gian của tôi rất eo hẹp.” Cậu ta vui vẻ liếc nhìn Pulaski, người đang đứng trên hai chân của mình. Một người bình thường.

“Eo hẹp lắm”, Poitier vừa lặp lại vừa quay sang một bảng thông báo trên đó có ghim một tờ rơi: Đầu đề là MẤT TÍCH. Bên dưới cái từ nổi bật đó là ảnh một cô gái tóc vàng tươi cười, có vẻ như được tải từ Facebook.

Rhyme nói, “Cô sinh viên mà cậu đề cập.” “Vâng. Người mà anh…”

Cậu hạ sĩ định nói: Người mà anh chẳng thèm quan tâm. Rhyme chắc là vậy.

Nhưng cậu ta đã kìm lại.

Bởi vì, dĩ nhiên, Rhyme không đáng bị trách móc. Anh yếu ớt. Một từ ác ý có thể làm anh tan nát cõi lòng không thể nào vãn hồi.

Mặt anh đỏ bừng.

Pulaski nói, “Hạ sĩ, chúng tôi chỉ xem bản sao báo cáo chứng cứ, báo cáo khám nghiệm thôi được không? Chúng tôi xem ngay ở đây cũng được. Chúng tôi không đem ra khỏi đây đâu.”

Cách tiếp cận hay đấy, Rhyme nghĩ.

“Tôi sợ là không được, sĩ quan Pulaski ạ.” Cậu ta kiên trì liếc qua Rhyme lần nữa.

“Vậy thì cho chúng tôi xem nhanh hiện trường đi.”

Poitier ho rồi đằng hắng giọng. “Tôi phải để nguyên hiện trường, tùy vào thông tin từ các cơ quan chức năng của Venezuela.”

Rhyme hùa theo. “Và tôi bảo đảm sẽ để nguyên hiện trường không bị nhiễm bẩn cho họ.”

“Dù sao thì tôi cũng rất tiếc.”

“Vụ án mạng của Moreno bên chúng tôi khác vụ của cậu - điều này thì cậu đã chỉ ra vào hôm kia rồi. Nhưng chúng tôi vẫn cần một số kết quả pháp y nhất định từ đây.”

Bằng không, việc cậu liều lĩnh gọi cho tôi từ sòng bạc hôm ấy sẽ chỉ công cốc. Đây chính là ẩn ý.

Rhyme thận trọng không đề cập đến bất kỳ tổ chức bảo an nào của Mỹ hay lính bắn tỉa. Nếu phía Bahamas muốn bắt bọn buôn ma túy Venezuela, anh sẽ không can thiệp vào. Nhưng anh cần chỗ chứng cứ khốn kiếp ấy.

Anh liếc nhìn tấm áp phích có ảnh cô sinh viên mất tích. Cô ta khá xinh xắn, nụ cười ngây thơ và rộng mở.

Phần thưởng cho người cung cấp thông tin chỉ có năm trăm đô la3.

3 Đô la Bahamas có trị giá tương đương đô la Mỹ.

Anh thì thầm với Poitier, “Các cậu có tổ truy súng cơ mà. Tôi thấy có nói tới tổ này trên trang mạng của các cậu. Cùng lắm cho tôi xem báo cáo của họ về viên đạn được không?”

“Tổ đấy vẫn chưa bắt đầu điều tra vụ này.”

“Họ đang chờ đợi các cơ quan chức năng của Venezuela.” “Đúng vậy.”

Rhyme hít sâu vào, cố gắng giữ bình tĩnh. “Làm ơn…“ “Hạ sĩ Poitier.” Một giọng nói cắt ngang qua sảnh chờ.

Một người đàn ông mặc đồng phục kaki đứng trước ngưỡng cửa mở, hành lang lờ mờ ở đằng xa. Gương mặt tăm tối của ông ta - cả về màu da lẫn biểu cảm - đang nhìn trân trân về phía bốn người đàn ông bên cạnh bức tường vinh danh lực lượng quân đội.

“Hạ sĩ Poitier ”, ông ta lặp lại bằng một giọng nghiêm khắc. Cậu cảnh sát xoay người. Cậu chớp mắt. “Vâng, thưa sếp.” Một khoảng nghỉ. “Cậu xong chuyện ở đó thì vào văn phòng gặp tôi.”

Rhyme suy ra: Người đàn ông nghiêm nghị này chắc là đại úy Bill Myers, phiên bản Cảnh lực Hoàng gia Bahamas. “Vâng, thưa sếp.”

Cậu cảnh sát quay người lại, mặt xìu xuống. “Đó là phó cảnh sát trưởng McPherson. Ông ấy phụ trách toàn bộ khu vực New Providence. Thôi, các anh về đi. Tôi tiễn các anh ra xe.”

Khi cậu hộ tống họ ra ngoài, Poitier lóng ngóng khựng lại để mở cửa cho Rhyme và, một lần nữa, tránh nhìn cái cảnh tượng một người đàn ông toàn thân bất toại, trông ghê sợ.

Rhyme điều khiển xe lăn ra bên ngoài. Thom và Pulaski theo sau. Họ đi về hướng chiếc xe.

Poitier thì thầm, “Thưa đại úy, tôi cung cấp thông tin cho anh về cuộc điện thoại và tên đàn ông tại khách sạn South Cove đã là liều lĩnh lắm rồi. Tôi cứ tưởng anh sẽ tiếp tục điều tra tại Mỹ. Chứ không phải ở đây.”

“Tôi rất biết ơn về những điều cậu tiết lộ cho tôi. Nhưng như vậy chưa đủ. Chúng tôi cần chứng cứ.”

“Chuyện đấy không được. Tôi đã bảo anh đừng tới rồi. Tôi rất tiếc. Tôi không giúp được.” Cậu cảnh sát mảnh dẻ quay mặt hướng về cánh cửa tiền sảnh, như thể sếp của cậu vẫn đang quan sát. Poitier giận lắm, Rhyme thấy được điều đó. Cậu ta muốn nổi xung. Nhưng phản ứng duy nhất của cậu cảnh sát này là một cái vỗ đầu xoa dịu theo nghĩa bóng.

Chúa phù hộ cho cậu…

“Ở đây không có gì cho anh đâu. Vui chơi một, hai ngày, đi dăm, ba nhà hàng. Chắc anh không ra ngoài…” Cậu đột ngột hãm lại câu nói. Rồi chuyển hướng. “Chắc anh lu bu công việc lắm nên không có cơ hội vui chơi. Có một vài nhà hàng ngon gần các bến tàu. Dành cho du khách.”

Nơi sẵn các phương tiện hỗ trợ người khuyết tật do có nhiều hành khách cao tuổi từ các tàu du lịch đến.

Rhyme kiên trì, “Tôi đã ngỏ ý muốn gặp cậu ở nơi khác. Mà cậu từ chối.”

“Tôi đâu ngờ anh lại đến đây thật.”

Rhyme dừng lại. Anh nói với Thom và Pulaski. “Tôi có vài lời muốn trao đổi riêng với đồng chí hạ sĩ.”

Hai người họ liền lững thững quay lại chiếc xe.

Mắt Poitier quét qua đôi chân và thân mình của nhà khoa học hình sự một lần nữa. Cậu bắt đầu, “Phải chi…“

“Hạ sĩ”, Rhyme quát, “Đừng chơi mấy trò khốn nạn này với tôi nữa.” Sự xấu hổ cuối cùng đã cô đặc lại thành một tảng băng thịnh nộ.

Cậu cảnh sát chớp mắt sửng sốt.

“Cậu vứt cho tôi dăm ba manh mối đếch có nghĩa lý gì nếu không có chứng cứ pháp y củng cố. Mấy thứ manh mối vô dụng. Thà cậu tiết kiệm tiền thẻ điện thoại còn hơn.”

“Tôi chỉ muốn giúp anh thôi”, cậu bình thản nói. “Cậu muốn gột bỏ cảm giác tội lỗi của mình thì có.” “Tội lỗi…?”

“Cậu có gọi cho tôi nhờ hỗ trợ phá án đâu. Cậu gọi cho tôi để bớt áy náy khi phải làm một thằng cảnh sát bệ rạc. Chỉ cần vứt lại vài mẩu tin vô dụng rồi là cậu yên lòng quay đi chờ cơ quan chức năng Venezuela, theo lời người khác sai bảo, nguyên văn cậu nói đấy.”

“Anh không hiểu rồi”, Poitier đáp trả, cơn giận của cậu cũng tuôn trào. Mồ hôi mướt khắp gương mặt cậu còn cặp mắt thì tập trung và sôi sục. “Anh ăn lương ở Mỹ - gấp mười lần lương chúng tôi ở đây - và làm không được việc này thì anh làm việc khác có cùng mức lương hoặc cao hơn. Chúng tôi không có những lựa chọn đó, đại úy à. Tôi làm liều nhiều chuyện quá rồi. Tôi kể riêng cho anh biết một số chuyện để rồi…” Cậu ta lắp bắp. “Để rồi anh đến đây. Giờ thì cảnh sát trưởng sếp tôi biết rồi đấy! Tôi có vợ và hai đứa con phải nuôi. Tôi yêu họ lắm. Anh lấy quyền gì đánh cược công việc của tôi?”

Rhyme nạt lại, “Công việc của cậu hả? Công việc của cậu là điều tra chuyện gì đã xảy ra vào ngày 9 tháng 5 tại khách sạn South Cove, ai đã bắn viên đạn đấy, ai giết một mạng người theo luật pháp phía cậu. Đó mới là công việc của cậu, chứ không phải đi nấp đằng sau mấy chuyện cổ tích của cấp trên.”

“Anh không hiểu rồi! Tôi…”

“Tôi chỉ hiểu là nếu cậu tự xưng mình muốn làm cảnh sát, thì làm cảnh sát cho đúng nghĩa. Bằng không, trở lại tổ Thanh tra và Cấp phép đi, đồng chí hạ sĩ à.”

Rhyme xoay người về phía chiếc xe, nơi Pulaski và Thom đang nhìn trân trân theo hướng của anh bằng bộ mặt âu lo, rối trí. Anh cũng để ý thấy một người đàn ông đang đứng tại một trong những cửa sổ gần đó, nhìn về hướng họ. Rhyme đoan chắc đó là ông phó cảnh sát trưởng.