• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
  1. Trang chủ
  2. Buồng khử
  3. Trang 44

Danh mục
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 43
  • 44
  • 45
  • More pages
  • 113
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 43
  • 44
  • 45
  • More pages
  • 113
  • Sau

Chương 37

Rhyme vừa uống cạn lon bia Kalik tại nhà hàng Bão Tố thì nghe một giọng nói ở đằng sau lưng.

“Xin chào.” Mychal Poitier.

Chiếc áo sơ mi xanh lam của cậu hạ sĩ lốm đốm mồ hôi và chiếc quần dài sẫm, với đường sọc đỏ hoàng gia, đầy cát và lấm chấm bùn. Cậu mang theo ba lô. Cậu vẫy tay với cô phục vụ và cô mỉm cười, lấy làm lạ khi cậu tới ngồi chung với người đàn ông khuyết tật đến từ Mỹ. Cô ghi món mà không hỏi cậu muốn gì rồi mang đến cho cậu một ly nước ngọt vị dừa.

“Tôi đến muộn bởi vì, tiếc thay, chúng tôi đã tìm thấy cô sinh viên. Cô ta chết vì tai nạn bơi lội. Xin phép anh. Tôi tải bản báo cáo lên một chút.” Cậu lôi ra khỏi ba lô một máy iPad nằm trong bao da nhàu nát rồi khởi động máy. Cậu gõ một vài chữ rồi nhấn nút gửi.

“Vậy là tôi có thêm chút thời gian nói chuyện với anh. Tôi sẽ bảo họ là đang theo dõi nhiều vụ việc khác liên quan đến cái chết này.” Cậu gật gù với cái iPad. “Một sự việc đáng tiếc”, cậu nói mà mặt nghiêm trang. Rhyme chợt nghĩ Tổ Giao thông, nơi đầu tiên cậu ta được phân công, rồi sau đó là Tổ Thanh tra và Cấp phép Doanh nghiệp, có lẽ đã không cho cậu nhiều cơ hội trải nghiệm trực tiếp những tấn bi kịch, mà về cơ bản, làm thay đổi các nhân viên chấp pháp - những bi kịch hoặc tôi luyện họ hoặc làm họ suy yếu. “Cô ta chết đuối trong một vùng nước thường thì không nguy hiểm, nhưng có vẻ như trước đó cô ta đã uống rượu. Chúng tôi tìm thấy rượu rum và Coke trong xe nạn nhân. Ôi, sinh viên. Bọn họ cứ tưởng mình bất tử.”

“Tôi xem được không?” Rhyme hỏi.

Poitier xoay thiết bị để Rhyme nghiên cứu các bức ảnh được trình chiếu chậm. Xác nạn nhân trắng bệch vì mất máu, da nhăn nheo vì nước. Cá hoặc sinh vật khác đã ăn mất gần hết mặt và cổ cô gái. Khó đoán được tuổi cô. Rhyme không nhớ được từ tấm áp phích hôm ấy nên anh hỏi.

“Hai mươi ba tuổi.”

“Nạn nhân học ngành gì?”

“Văn học Mỹ Latin cho học kỳ tại Đại học Nassau. Còn làm việc bán thời gian - và, dĩ nhiên, tiệc tùng nữa.” Cậu thở dài. “Chắc là tiệc tùng vô độ. Tôi gọi điện cho gia đình nạn nhân ở Mỹ rồi. Họ sắp đến đây nhận xác.” Giọng cậu lịm dần. “Trước đây tôi chưa bao giờ gọi điện thoại kiểu này. Không dễ dàng chút nào.”

Nạn nhân có hình thể mảnh dẻ, rắn rỏi, một hình xăm khiêm tốn trên vai - hình hoa thị nhiều cánh - và nạn nhân thích nữ trang vàng, mặc dù có một dây chuyền bạc xâu từ nhiều chiếc lá nhỏ đeo quanh cái cổ đã bị tuột hết da.

“Cá mập tấn công chăng?”

“Không, chắc là cá nhồng. Ở đây hiếm khi có cá mập tấn công. Còn lũ cá nhồng chỉ đánh chén sau khi nạn nhân chết. Thi thoảng chúng có cắn người bơi nhưng vết thương nhẹ thôi. Chắc nạn nhân bị kẹt trong thủy triều dữ nên chết đuối. Rồi lũ cá làm việc.”

Rhyme để ý thấy chỗ bị hủy hoại nhiều nhất là quanh cổ. Những ống động mạch cảnh to bè hiện rõ qua các mẩu thịt tả tơi.

Phần lớn hộp sọ đều lộ ra. Rhyme dùng nĩa xiên thêm một viên thịt ốc xà cừ lên ăn.

Rồi anh trượt chiếc iPad trở lại cho cậu cảnh sát. “Đồng chí hạ sĩ, chắc cậu đến đây không phải để bắt chúng tôi.”

Cậu ta cười. “Tôi cũng có nghĩ đến. Lúc đấy tôi giận lắm. Nhưng không đâu, tôi đến đây để giúp anh lần nữa.”

“Cảm ơn hạ sĩ. Và để công bằng tôi cũng chia sẻ với cậu mọi thứ mà tôi biết.” Rồi anh giải thích về NIOS, về Metzger, về tên bắn tỉa.

“Buồng Khử. Đúng là cách gọi máu lạnh.”

Vì giờ đây anh biết Poitier ít nhiều đã đứng về phía anh, nên Rhyme kể cho cậu nghe là Pulaski đang chờ nói chuyện với cô hầu bàn tại khách sạn South Cove để biết thêm về nhiệm vụ do thám của kẻ bắn tỉa một ngày trước hôm hắn bắn Moreno.

Poitier nhăn mặt. “Một cảnh sát từ New York buộc phải làm hộ công việc của tôi. Đúng là lộn xộn cả lên, cũng nhờ mấy chuyện chính trị mà ra.”

Cô phục vụ mang thức ăn đến - một món hầm nóng hổi gồm rau và thịt xé sẫm màu, thịt gà hoặc thịt dê, Rhyme đoán vậy. Vài lát bánh mì rán nữa. Poitier xé một mẩu bánh mì rồi cho con chó bánh nồi ăn. Sau đó cậu kéo cái đĩa về phía mình, cài khăn ăn vào trong sơ mi, ngay chỗ sợi dây chuyền dẫn đến túi áo móc vào một chiếc cúc cổ. Cậu gõ bàn phím trên iPad rồi nhìn lên. “Bây giờ tôi ăn và tranh thủ kể cho Thom nghe về Bahamas, lịch sử cùng văn hóa ở đây. Nếu cậu ấy muốn nghe.”

“Muốn chứ.”

Poitier đẩy iPad lại gần Rhyme. “Còn đại úy, chắc anh muốn xem vài tấm trong bộ sưu tập ảnh thắng cảnh của chúng tôi ở đây.”

Khi cậu hạ sĩ quay sang Thom trò chuyện, Rhyme bắt đầu giở qua bộ sưu tập ảnh.

Ảnh chụp gia đình Poitier, có lẽ thế, ngoài bãi biển. Người vợ yêu kiều và hai đứa con tươi cười. Rồi ảnh chụp họ dự tiệc nướng ngoài trời với một tá người khác.

Ảnh chụp cảnh hoàng hôn.

Ảnh chụp một buổi trình diễn âm nhạc ở trường tiểu học. Ảnh chụp trang đầu báo cáo vụ án mạng Robert Moreno. Poitier đã chụp tấm này bằng máy ảnh trong iPad như điệp viên vậy.

Rhyme ngước lên nhìn cậu hạ sĩ nhưng cậu này tảng lờ anh, tiếp tục chia sẻ với Thom về lịch sử của thuộc địa này và chia sẻ bữa trưa của mình với con chó bánh nồi.

Đầu tiên, có một lộ trình hẳn hoi cho những ngày cuối cùng của Moreno trên cõi đời, theo những gì mà cậu hạ sĩ có thể xâu chuỗi lại.

Moreno và vệ sĩ của anh ta, Simon Flores, đã đến Nassau vào khuya Chủ nhật ngày 7 tháng 5. Cả ngày thứ Hai, họ đi ra ngoài khách sạn, có thể là đến các buổi họp mặt vì Moreno không giống như hạng người thích bơi lội với cá heo hay đi mô tô nước. Ngày hôm sau, bắt đầu lúc 9 giờ, anh ta tiếp vài vị khách khác. Khách đi chẳng bao lâu, vào khoảng 10 giờ rưỡi, thì nhà báo Eduardo de la Rua đến. Vụ nổ súng xảy ra vào khoảng 11 giờ 15 phút.

Poitier đã xác định và phỏng vấn các vị khách đến gặp Moreno. Họ là doanh nhân địa phương có tham gia vào các công ty nông nghiệp và công ty vận tải. Moreno dự định thành lập một công ty liên doanh với họ khi anh ta mở chi nhánh Phong trào Trao quyền Địa phương của mình tại Bahamas. Họ làm ăn hợp pháp và là thành viên được trọng vọng của cộng đồng doanh nhân Nassau nhiều năm nay.

Không nhân chứng nào trình báo rằng Moreno bị theo dõi hay có ai đó thể hiện sự hứng thú bất thường đối với anh ta - ngoại trừ cú điện thoại trước lúc anh ta đến và gã người Mỹ tóc nâu.

Rồi Rhyme lật sang các trang nói về chính hiện trường vụ án. Anh thất vọng. Tổ hiện trường của Cảnh lực Hoàng gia Bahamas đã tìm thấy bốn mươi bảy dấu vân tay - ngoài vân tay của các nạn nhân - nhưng chỉ phân tích một nửa số vân đó. Trong số các vân tay đã xác định được, tất cả đều là của nhân viên khách sạn. Một ghi chú báo cáo là số vân tay còn lại đã mất tích.

Cảnh sát hầu như chẳng nỗ lực gì trong việc thu thập dấu vết từ chính các nạn nhân. Thông thường, trong một vụ mưu sát do bắn tỉa, những thông tin như địa điểm nạn nhân bị bắn tất nhiên không có ích lắm, vì tay súng ở cách rất xa. Tuy nhiên, trong trường hợp này, kẻ bắn tỉa đã ở trong khách sạn, tuy là vào một ngày trước, và có thể đã lẻn vào Buồng Khử để thăm dò khung cảnh và các góc bắn. Hắn dễ thường đã để lại một ít dấu vết, cho dù không để lại dấu vân nào. Nhưng hầu như không có dấu vết nào được thu thập từ căn phòng đó, chỉ có một số mảnh gói kẹo và một vài mẩu thuốc bên cạnh gạt tàn gần xác người vệ sĩ.

Tuy nhiên, các trang tiếp theo trên iPad, ảnh chụp chính Buồng Khử, lại rất sáng tỏ. Moreno bị bắn trong phòng khách của dãy phòng. Mọi thứ và mọi người trong phòng đều phủ đầy mảnh kính. Moreno nằm sóng soài trên một đi văng, đầu ngả ra sau, miệng há, một vệt máu trên sơ mi, giữa vệt này là một chấm đen lớn, chính là vết thương do đạn xâm nhập. Phần nệm bọc ghế sau lưng anh ta vấy đầy máu sẫm và khô, có lẽ từ vết thương khổng lồ do viên đạn của kẻ bắn tỉa thoát ra.

Các nạn nhân còn lại nằm ngửa gần chỗ đi văng, một người vạm vỡ gốc Mỹ Latin, được xác định trong ảnh là Simon Flores, vệ sĩ của Moreno, còn người kia là một người đàn ông râu quai nón bảnh bao năm mươi mấy tuổi, de la Rua, người phóng viên. Người họ phủ đầy kính vỡ và máu, da thịt họ bị rách và bị cứa đứt ở hàng chục chỗ.

Còn viên đạn được chụp nằm trên sàn, cạnh một thẻ ghi nhận vị trí chứng cứ làm bằng bìa cứng, hai mặt đều mang số 14. Viên đạn nằm kẹt trong tấm thảm cách đằng sau đi văng vài mét.

Rhyme lật hình, tưởng sẽ thấy nhiều hơn.

Nhưng tiếp theo lại là ảnh vợ chồng cậu hạ sĩ đang ngồi ghế bãi biển.

Không nhìn về hướng anh, Poitier nói, “Có bấy nhiêu thôi.” “Không có khám nghiệm tử thi sao?”

“Đã làm rồi. Chúng tôi không có kết quả.” Rhyme hỏi, “Còn quần áo các nạn nhân?”

Bây giờ thì cậu ta nhìn nhà khoa học hình sự. “Ở nhà xác.” “Tôi đã yêu cầu cậu đồng nghiệp hiện đang ở khách sạn South Cove truy ra máy ảnh của de la Rua, máy ghi âm và bất kỳ thứ gì khác ông ta mang theo. Cậu ta nói chúng đã vào nhà xác. Tôi muốn thấy những món đấy.”

Poitier bật cười một cách hoài nghi. “Nếu còn thì tôi cũng muốn.” “Nếu còn?”

“Phải, thưa đại úy. Tôi chưa kịp hỏi về mấy món đó thì chúng đã mất tiêu, cùng với những tư trang có giá trị hơn của các nạn nhân.”

Rhyme vừa nãy có để ý là trong ảnh chụp xác các nạn nhân, người vệ sĩ đeo đồng hồ Rolex và một kính râm Oakley nhô ra từ túi anh ta. Nằm gần ông nhà báo là một cây bút vàng óng.

Poitier nói thêm, “Ở đây, hiển nhiên anh phải nhanh tay bảo vệ chứng cứ khi khám xét hiện trường vụ án. Dần dà tôi cũng học được như vậy. Anh nhớ ông luật sư mà tôi đã đề cập không?”

“Vị luật sư nổi tiếng.”

“Phải”, Poitier nói. “Sau khi ông ta bị giết và trước khi đội điều tra của chúng tôi đến, một nửa văn phòng đã bị hôi sạch của.”

Rhyme nói, “Nhưng anh có được viên đạn.”

“Phải. Trong tủ đựng chứng cứ của chúng tôi. Nhưng trong cuộc họp với phó cảnh sát trưởng McPherson sau khi anh rời khỏi tổng bộ, tôi được lệnh phải giao cho ông ta toàn bộ chứng cứ trong vụ án Moreno. Ông ta đã giành quyền coi chừng và niêm phong cái tủ đấy rồi. Không ai khác tiếp cận được. À, ông ta còn ra lệnh cho tôi bằng mọi giá không được liên lạc với anh.”

Rhyme thở dài. “Bọn họ thật sự không muốn tiếp tục điều tra vụ này, đúng không?”

Bằng một sự cay đắng Rhyme chưa nghe bao giờ, cậu ta nói. “Ôi, vụ án được tiếp tục chứ. Thật ra thì người ta có kết luận về vụ án luôn rồi. Các nhóm các-ten đã mưu sát nạn nhân để trả thù chuyện này chuyện nọ. Chơi với bọn các-ten bí hiểm ấy thì ai mà biết được?” Cậu cảnh sát nhăn mặt. Rồi cậu hạ giọng. “Đại úy Rhyme, tôi không lấy được các vật chứng cho anh như tôi hy vọng. Nhưng tôi có thể đóng vai hướng dẫn viên du lịch.”

“Hướng dẫn viên du lịch?”

“Đúng vậy. Chúng tôi có một điểm thu hút du khách tuyệt đẹp trên bờ biển tây nam đảo New Providence. Một mũi đất dài gần một cây số, bị bão táp tàn phá, chủ yếu gồm đá và các bãi biển đầy thứ cát ô uế. Điểm sáng ở đó gồm một bãi đổ rác, một nhà máy luyện kim thường xuyên bị tòa triệu tập vì tội gây ô nhiễm và một công ty nghiền vụn lốp xe để tái chế.”

“Nghe hấp dẫn quá”, Thom nói.

“Chỗ đấy khá nổi tiếng. Ít ra là đối với một ông khách người Mỹ. Ông này đã ghé xem vào ngày 9 tháng 5. Vào khoảng 11 giờ 15 phút sáng. Một trong những cảnh đẹp hấp dẫn hơn mà ông này rất thích là quang cảnh của khách sạn South Cove. Một quang cảnh không bị che khuất, cách đây đúng 1.929 mét. Thiết nghĩ anh đây, là một du khách đến thăm đất nước chúng tôi, chắc cũng thích ngắm các cảnh ấy. Tôi nói đúng không?”

“Đúng thế thật, đồng chí hạ sĩ.”

“Vậy ta đi thôi. Tôi không theo đuổi sự nghiệp hướng dẫn viên du lịch được lâu đâu.”