Trong phòng khách của căn biệt thự phố, phòng giám định, Amelia Sachs lăn vào chiếc xe đẩy chở một sọt nhựa vuông đựng chứng cứ từ hiện trường vụ án Lydia Foster.
“Lincoln có gọi không?” Cô hỏi Mel Cooper. Anh đang chăm chú nhìn cái sọt.
“Không, chẳng gọi gì hết.”
Cooper, chuyên gia giám định, đã chính thức vào cuộc, nhờ Lon Sellitto và đại úy Myers gọi điện để sắp xếp cho anh được phân công trở lại địa bàn quản lý của Rhyme. Cooper, một thám tử thuộc Sở cảnh sát New York, đầu đang hói dần, tướng người nhỏ con, đeo cặp kính Harry Potter dày cộm tưởng như chẳng bao giờ đặt đúng chỗ. Người ta dễ tưởng cuộc sống ngoài giờ làm việc của anh đầy ắp những trò đố vui toán học và tạp chí Scientific American, nhưng anh lại dành phần nhiều thời gian rảnh rỗi vào các cuộc thi khiêu vũ, cùng cô bạn gái yêu kiều gốc Scandinavia của mình, một giáo sư toán tại Đại học Columbia.
Nance Laurel đang ngồi ở bàn làm việc. Người phụ nữ này ngây người ra nhìn chỗ vật chứng, rồi liếc trở lại cô cảnh sát, làm Sachs không hiểu đây là cử chỉ chào hay một triệu chứng “nghỉ giữa chừng khi trước khi nói” của cô ta.
Sachs mở lời một cách bi quan, “Tôi đã nhầm. Có hai hung thủ lận.” Cô giải thích về giả định sai của mình. “Kẻ tôi theo dõi là tên bắn tỉa. Giết Lydia Foster là tên khác.”
“Cô nghĩ là ai?” Cooper hỏi. “Kẻ yểm trợ cho Bruns.”
“Hoặc là một chuyên viên do Metzger thuê để phi tang”, Laurel nói. Sachs cảm thấy giọng Laurel nghe có vẻ rạng rỡ khi nói câu này. Tốt cho vụ án, tốt cho ban hội thẩm - khi nghi can chính của họ ra lệnh cho một trong số sĩ quan của hắn làm một việc nhẫn tâm đến thế. Chẳng một lời đồng cảm dành cho nạn nhân, không một cái chau mày quan tâm.
Ngay lúc này Sachs thật sự rất ghét người như cô ta.
Cô tiếp tục, cố ý chỉ nói với Mel Cooper, “Lon đã đồng ý xem đây là vụ án hiện chưa biết động cơ - cũng như thiết bị nổ tự chế ở Java Hut chính thức vẫn là một vụ nổ ống dẫn ga, vì tôi nghĩ tốt nhất đừng để Metzger biết diễn biến việc điều tra.”
Laurel gật gù. “Tốt.”
Sachs nhìn chằm chằm vào chỗ bảng trắng rồi bắt đầu cập nhật thông tin mới mà họ vừa biết. “Ta tạm gọi hung thủ giết Lydia Foster là X165. Đặt theo ngày hôm nay.”
Laurel hỏi, “Còn biết gì thêm về nhân thân tay súng không, kẻ mà cô theo dõi đến NIOS ấy?”
“Không. Lon đã phái một nhóm trinh sát để mắt đến hắn. Họ sẽ gọi ngay khi xác định được nhân thân hắn.”
Lại một khoảng nghỉ. Laurel nói, “Tôi chỉ tò mò là: Khi ấy cô có định lấy dấu vân tay hắn không?”
“Dấu vân tay…”
“Lúc cô theo đuôi tên bắn tỉa xuống trung tâm thành phố ấy? Tôi hỏi là vì tôi từng phụ trách một vụ mà thám tử chìm làm rơi một tờ tạp chí bóng loáng. Đối tượng nhặt nó lên hộ cô ta. Chúng tôi có được dấu vân của hắn.”
“Cái đấy thì...”, Sachs điềm đạm nói, “Tôi không nghĩ tới.” Bởi vì nếu có thì chúng ta đã xác định được cái nhân thân chết tiệt của hắn rồi. Mà thực tế ta có xác định được đâu.
Laurel gật gù bí hiểm khó có thể nhìn thấu.
Tôi chỉ tò mò…
Câu này nghe phát bực chẳng thua “phiền cô.”
Sachs hơi nhăn mặt, quay đi khỏi Laurel rồi trao chứng cứ từ hiện trường vụ án Lydia Foster cho Mel Cooper. Anh săm soi chỗ chiến lợi phẩm ít ỏi bằng nỗi thất vọng hệt như cảm giác của Sachs.
“Có bấy nhiêu thôi?”
“E là vậy. X165 biết mình đang làm gì.” Sachs xem chỗ ảnh chụp thi thể máu me của Lydia Foster mà cô tải về từ chỗ tổ hiện trường tại Queens rồi in ra.
Môi mím chặt, cô bước đến một chiếc bảng trắng rồi dán các ảnh này lên.
“Hắn tra tấn nạn nhân”, Laurel nói khẽ nhưng không kèm bất kỳ phản ứng nào khác.
“Rồi lấy tất tần tật các thứ có liên quan đến những lần phiên dịch cho Moreno của Lydia.”
“Nạn nhân có thể biết gì được chứ?” Phó công tố viên quận thắc mắc. “Nếu anh ta có một phiên dịch viên thương mại đi công tác cùng, hiển nhiên anh ta không thể nào mang cô ta đến gặp tội phạm được. Cô ta là nhân chứng rất tốt để làm chứng rằng Moreno không phải là khủng bố.” Cô ta đế thêm, “Ý tôi là nhẽ ra cô ta là nhân chứng rất tốt.”
Sachs cảm thấy bừng lên một nỗi tức giận, người phụ nữ này chú trọng đến chuyện mất đi một nhân vật then chốt cho cuộc chiến truy tố Shreve Metzger hơn là để tâm đến cái chết của Lydia Foster. Rồi Sachs nhớ lại nỗi chán nản của chính mình khi cô nhìn thi thể, một phần cảm giác ấy là do cô đến lấy thông tin từ cô phiên dịch viên quá muộn.
Cô cảnh sát nói, “Tôi có nói chuyện sơ qua với nạn nhân trước đó. Tôi biết cô ta đã gặp gỡ lãnh sự quán Brazil và các tổ chức từ thiện của Nga và Tiểu vương quốc các nước Ả-rập Thống nhất. Vậy thôi.”
Tôi không còn cơ hội tìm hiểu thêm, cô suy ngẫm. Vẫn còn giận dữ với bản thân. Giá như Rhyme có mặt ở đây, anh đã suy đoán ra được có thể có hai hung thủ. Khỉ thật.
Kệ đi, cô nghiêm khắc suy nghĩ. Tiếp tục phá án đi.
Cô nhìn Cooper. “Để xem chúng ta có kết nối được các tình tiết nào với nhau không. Tôi muốn biết Bruns và kẻ ẩn mặt, ai đã gài thiết bị nổ tự chế. Anh tìm được gì từ hiện trường Java Hut không Mel?”
Cooper trả lời là tuy có rất ít manh mối nhưng anh cũng phát hiện ra một số thứ. Tổ Xử lý bom đã gửi tin cho biết thiết bị nổ tự chế này là thiết bị sát thương sản xuất đại trà, nạp đầy Semtex, chất nổ dẻo của Cộng hòa Séc. “Mấy thứ này bán đầy ngoài thị trường vũ khí, khá dễ mua nếu cô quen đúng mối”, Cooper giải thích. “Hầu hết khách hàng sử dụng cho mục đích quân sự, cả chính phủ lẫn lính đánh thuê.”
Cooper đã phân tích các dấu vân mờ Sachs lấy được tại quán cà phê và đã gửi số vân này đến IAFIS1. Kết quả trả lại là âm tính.
1 IAFIS: Hệ thống Tự nhận dạng Dấu vân tay Tổng hợp (Mỹ).
Anh kỹ thuật viên nói, “Cô cho tôi nhiều mẫu đối chứng rất tốt từ quán Java Hut nhưng không có nhiều dấu vết có thể là dấu vân của hung thủ. Tuy nhiên có hai dấu vết khác hẳn, tức là các chất này có khả năng thuộc về kẻ đánh bom của ta. Chất thứ nhất là đá vôi xói mòn, san hô và nhiều mẩu vỏ sò li ti - nói cách khác là cát, và là cát từ một địa điểm nhiệt đới. Tôi cũng tìm thấy chất thải hữu cơ của loài giáp xác.”
“Là chất gì?” Laurel hỏi. “Phân cua”, Sachs trả lời.
“Chính xác”, Cooper xác nhận. “Nhưng nói chính xác thì chất này có thể từ tôm hùm, tôm hùm đất, tôm, tép riu đỏ và hà biển nữa. Có trên 65.000 loài giáp xác. Nhưng tôi chắc chắn với cô chất này thường thấy ở các bãi biển vùng Caribê. Và chất này chứa dấu tích khớp với nước biển sau khi bốc hơi.”
Sachs chau mày. “Vậy có khả năng hắn là kẻ ở khách sạn South Cove trước khi Moreno bị bắn. Thường cát còn dính lại sau một tuần không?”
“Đây là cát hạt mịn. Phải, có thể dính lại chứ. Cát nhiều khi dính dữ lắm.”
“Anh còn phát hiện được gì nữa hả Mel?”
“Một thứ tôi chưa hề thấy tại bất cứ hiện trường vụ án nào - axít 1,5-dicaffeoylquinic.”
“Tức là?”
“Cynarine”, Cooper vừa nói vừa đọc từ một cơ sở dữ liệu máy tính về các chất hóa học. “Ở dạng thường gặp nhất chính là thành phần hoạt tính sinh học của atisô. Chất này làm atisô có vị ngọt đặc trưng.”
“Và hung thủ của chúng ta để lại những chất này?”
“Không nói chắc được nhưng tôi tìm thấy một ít chất này trên bậc thềm của Java Hut, trên nắm đấm cửa và trên một mảnh bom tự chế.”
Sachs gật gù. Atisô. Lạ lùng nhưng khám nghiệm hiện trường là vậy. Thêm nhiều mảnh ghép cho bức tranh.
“Không còn gì khác.”
“Java Hut chỉ có vậy thôi?” “Ừ.”
“Vậy là ta vẫn không biết ai cài bom.”
Rồi cô và Cooper chuyển sang hiện trường Lydia Foster. “Trước tiên”, anh kỹ thuật viên nói, đầu hất về phía mớ ảnh chụp xác nạn nhân, “vết thương do dao. Chúng trông khá bất thường, rất hẹp. Nhưng chẳng có cơ sở dữ liệu nào nên ta không biết được.” Hoa Kỳ, nơi ra đời Hiệp hội Súng trường Quốc gia, là kinh đô súng ống của thế giới. Các trường hợp chết do dao thường xảy ra tại Vương quốc Anh và các nước có luật kiểm soát súng nghiêm ngặt. Nhưng tại Mỹ, với thực trạng súng ống tràn lan, dao là hung khí giết người tương đối hiếm, nên chưa có cơ quan chấp pháp nào tổng hợp cơ sở dữ liệu ảnh số về vết thương do dao, chí ít là Sachs và Rhyme không biết cái nào.
Mặc dù cô chắc chắn hắn đã đeo găng, Sachs vẫn lấy các dấu vân từ xung quanh - và trên - xác Lydia Foster. Ta không bao giờ biết được liệu hung thủ có cởi găng ra ở một thời điểm nào đó không. Nhưng trong trường hợp Java Hut, cơ sở dữ liệu tự động trả lại kết quả âm tính.
“Đúng như tôi dự liệu”, cô làu bàu. “Nhưng tôi tìm thấy một sợi tóc không khớp các mẫu giám định. Đấy, trong phong bì.” Sachs trao phong bì cho anh kỹ thuật viên. “Tóc nâu, ngắn. Có thể của hung thủ. Hãy nhớ rằng hạ sĩ Poitier có nói kẻ tìm hiểu dãy phòng của Moreno vào hôm trước án mạng có mái tóc nâu ngắn. À, có đính kèm nang tóc đấy.”
“Tốt. Để tôi đưa vào CODIS.”
Cơ sở dữ liệu ADN toàn quốc này đang lớn dần theo cấp số nhân. Có thể chủ sợi tóc này có tên trong hệ thống. Nếu vậy thì chẳng bao lâu, họ sẽ có được nhân thân hắn và, nhiều khả năng, cả địa điểm hiện tại của hắn nữa.
Sachs bắt đầu xem qua các chứng cứ còn lại. Dù hung thủ đã lấy đi toàn bộ các hồ sơ, thiết bị máy tính và thiết bị lưu trữ có khả năng đề cập đến Robert Moreno, cô đã tìm ra một thứ có thể liên quan trực tiếp tới vụ án. Một hóa đơn Starbucks. Thời gian in trên đầu hóa đơn là chiều ngày 1 tháng 5. Đây có lẽ là thời điểm Moreno có cuộc gặp riêng mà Lydia không được tham dự, Sachs nhớ lại. Nhiều khả năng có thể xác định được văn phòng mà nhà hoạt động chính trị này đã đến.
Ngày mai cô sẽ đến nơi đó - một tòa nhà trên đường Chambers. Sachs và Cooper bàn luận các dấu vết còn lại từ căn hộ của Lydia nhưng không tách biệt được nhiều. Cooper chạy một mẫu giám định qua máy sắc ký khí rồi ngước lên nhìn về phía hai người phụ nữ. “Tìm được một thứ đây. Một thực vật. Tên Glycyrrhiza glabra - một loại họ đậu, đại khái như đỗ hoặc đậu Hà Lan. Cơ bản thì đây là cam thảo Âu.”
Sachs nói, “Tiểu hồi hương hay hoa hồi?” “Không, không có liên quan, mặc dù vị của chúng giống nhau.”
Nance Laurel tỏ ra hoang mang. “Nãy đến giờ anh có tra cứu gì đâu. Nào cynarine, nào glycyrrhiza… Tôi xin lỗi nhưng làm sao anh biết được mấy thứ này?”
Cooper đẩy chiếc kính gọng đen trên sống mũi rồi đáp, như thể rất hiển nhiên, “Tôi làm việc cho Lincoln Rhyme mà lại.”