Tôi đã thảo luận với một đồng nghiệp về những ý tưởng trong cuốn sách này nhiều tháng trước khi xuất bản, và chúng tôi đã có những cuộc thảo luận dài về việc dạy học. Cả hai chúng tôi đều rất trăn trở về những vấn đề mà khi nói chuyện với nhiều giáo viên khác, chúng tôi biết rằng những giáo viên ấy có cách hiểu rất rõ ràng về việc dành thời gian để xây dựng kế hoạch và suy ngẫm về việc dạy học, họ cho rằng khi họ rời công sở thì mọi việc phải được hoàn thành.
Chúng tôi đã trò chuyện về thời gian chuẩn bị bài giảng mà chúng tôi thường làm vào buổi tối hoặc cuối tuần khi chúng tôi là những giáo viên trẻ. Chúng tôi tìm kiếm những ý tưởng dã ngoại cộng đồng, đến thư viện tìm những cuốn sách đọc thêm để hỗ trợ cho hoạt động học của trẻ, tìm kiếm trong tạp chí Địa lý Quốc gia và nhiều tạp chí khác những bức hình có liên quan tới chủ đề mà chúng tôi dạy. Chưa bao giờ chúng tôi có ý niệm là khi rời trường học thì mọi việc phải được hoàn thành. Chúng tôi đều nhiệt tình ủng hộ cho việc trả lương xứng đáng cho những giáo viên mầm non, cho việc mở rộng lợi ích cũng như tăng cường thời gian chuẩn bị nội dung giảng dạy. Chúng tôi cũng là những nhà giáo dục tin rằng dạy học là một niềm đam mê cần nhiều thời giờ chuẩn bị và lập kế hoạch giảng dạy, nên sẽ không đủ nếu chỉ theo giờ làm việc thường ngày.
Trong cuốn sách Những tín niệm sư phạm của tôi, Dewey có nói tới yêu cầu cần các giáo viên dạy trẻ cách sống trong xã hội. Ông tin rằng qua những gì họ làm, thầy cô giáo không chỉ xây dựng nhân cách cá thể học sinh mà còn góp phần xây dựng xã hội. Một ví dụ điển hình cho điều này là chương trình Đi một ngày đàng học một sàng khôn1 (IMIL) của Head Start. Chương trình này đáp ứng nhu cầu cá nhân cũng như nhu cầu chung của các em nhỏ muốn học cách hình thành khái niệm như những ý niệm về màu sắc, hình dạng, con chữ và con số theo những cách hoạt động thực tế và vui vẻ. Đồng thời nó cũng hướng tới vấn đề xã hội nghiêm trọng ở Hoa Kỳ: sự béo phì ở trẻ nhỏ. Nó truyền đạt tới trẻ em tầm quan trọng của một sức khỏe tốt thông qua việc để các em đứng dậy, di chuyển và nói về những loại rau được nói tới trong các bài hát, cũng như việc nhảy múa theo điệu nhạc vừa giúp hoạt động vui vẻ hơn lại vừa giúp cơ thể các em trở nên săn chắc, cân đối hơn. Một ví dụ của việc mở rộng phương pháp IMIL sang những phương pháp tích hợp khác là sử dụng cách tiếp cận Những Mầm Non (Early Sprouts) của Karrie Kalich, Dottie Bauer và phương pháp dùng hoạt động nấu ăn và làm vườn của Deirdre McPartlin đã tích hợp được việc chăm sóc sức khỏe thân thể.
1 Nguyên văn là I Am Moving, I Am Learning (IMIL), khó dịch sang tiếng Việt mà còn giữ được nguyên nghĩa và cả nhịp vần nữa, nên tôi dịch phóng ý thành “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”, một kiểu học tập qua trải nghiệm thực tế (ND).
John Dewey đã hỗ trợ các bậc cha mẹ vào thời điểm mà Hoa Kỳ chuyển đổi từ thời đại nông nghiệp sang thời đại công nghiệp. Nếu có ai đó nói với Dewey về phong trào “sống xanh1”, có lẽ ông sẽ nghĩ ngay tới việc chúng ta đang nói tới những hoạt động học tập dành cho trẻ em về chủ đề màu sắc. Nhưng cũng như việc mỗi khi dạy trẻ em, chúng ta lại suy ngẫm về lý thuyết quan trọng của ông về định hình xã hội, chúng ta có thể áp dụng điều đó vào một thực tế là chúng ta đang chuyển đổi một lần nữa trên bình diện văn hóa. Tầm quan trọng của việc dạy trẻ biết chăm sóc, bảo vệ hành tinh này không chỉ liên quan tới thế kỉ 21 mà còn là điều cực kì thiết yếu đối với sự sống còn của chúng ta. Tại sao ta không mở rộng những ngày lễ Ngày Trái Đất (Earth Day) hơn nữa để sử dụng cả Thang đo Sống Xanh2 của Phil Boise. Tất cả những chương trình này còn tương đối mới lạ, nhưng chúng đều hướng tới những vấn đề trong đời sống thực tế mà Dewey, Piaget và Montessori đã nhiều lần nhấn mạnh như những vấn đề cực kì liên quan tới việc giáo dục các thế hệ tương lai.
1 Going green.
2 Go Green Rating Scale.
Đối với các nhà giáo dục hiện thời, để học và sử dụng những lý thuyết về giáo dục của Dewey, chúng ta phải sẵn sàng với việc thay đổi theo thời cuộc. Khi Dewey kêu gọi các bậc cha mẹ và giáo viên trong thời đại của ông tìm cách thích ứng với những biến động xã hội thay vì chống lại chúng, ông đã đưa ra những lời khuyên tốt. Việc than tiếc quá khứ hay khiếp sợ những xu thế mới có thể làm chúng ta không thoải mái đều không đem lại tác dụng.
Trong phân tích của mình về phong trào giáo dục tiến bộ (năm 2007), Scott Nearing đã đề cập tới trường học như là người phục vụ chứ không phải ông chủ. Ông viết: “Trong điều đó ẩn chứa sự vĩ đại của nó – sự vĩ đại của cơ hội và trách nhiệm” (198).
Nearing tin rằng trách nhiệm của chúng ta là phải cởi mở để tăng cường tri thức, điều đó có thể sẽ hiệu quả hơn những lý thuyết cũ mà chúng ta đã từng sử dụng. Trong những thời điểm như thế, chúng ta cần phải nắm lấy sự thay đổi. Ông cảnh báo rằng việc này không nhất thiết phải thực hiện vội vàng, mà sự thay đổi là điều không thể tránh khỏi.
Những nhà giáo dục tiến bộ tiên phong thường hỏi câu hỏi mà trong những tranh luận gần đây về định hướng trường học chúng ta vẫn còn tiếp tục nghe thấy: giáo dục tồn tại vì trẻ em, hay trẻ em tồn tại vì giáo dục? Ngày nay, cũng như một thế kỉ trước, đây là câu hỏi đáng để cho chúng ta thảo luận. Lý thuyết của Dewey vẫn là một định hướng rõ ràng cho cuộc tranh luận này.