Montessori tin rằng trẻ em muốn và cần được tự chăm sóc bản thân cũng như môi trường xung quanh. Bà cho rằng người lớn đã dành quá nhiều thời gian “phục dịch” các em. Bà cảnh báo các giáo viên cần nhớ rằng, trẻ em không tự làm việc gì đó thì sẽ không học được cách làm việc đó như thế nào. Montessori cũng hiểu rằng đôi khi làm thay trẻ việc gì đó sẽ dễ hơn là việc bỏ thời gian công sức ra để dạy các em tự làm. Nhưng bà cũng tin rằng, để trẻ có thể trưởng thành và phát triển được các kĩ năng thì người lớn cần tạo cho trẻ cơ hội để các em tự mình làm những việc đó. Nuôi dưỡng tính tự lập là một phần trong di sản của Montessori.
Montessori tin rằng trẻ học tốt nhất là qua làm việc và qua việc làm đi làm lại. Bà cho rằng trẻ làm đi làm lại để biến nó thành trải nghiệm của chính mình, và để phát triển các kĩ năng. Montessori khuyến cáo các giáo viên là không nên can thiệp vào cách thức và nhịp độ học của trẻ. Bà cho rằng việc của giáo viên là chuẩn bị môi trường, cung cấp những vật dụng cần thiết, sau đó lùi ra sau dành cho trẻ thời gian và không gian để trải nghiệm. Sắp xếp thời khóa biểu mang tính kết thúc mở (open-ended) với quĩ thời gian dài dành cho trẻ tự do làm việc và vui chơi là một phần trong di sản của Montessori.
Làm thế nào để các giáo viên mầm non có thể áp dụng tư duy của Montessori về năng lực và trách nhiệm vào các chương trình của họ? Montessori nghĩ rằng các giáo viên nên cho trẻ chịu trách nhiệm giữ cho không gian cộng đồng sạch sẽ và ngăn nắp. Bà cũng cho rằng các giáo viên nên tạo ra những gói thời gian dài dành cho trẻ tự do làm việc và vui chơi, để trẻ tự cân đối thời gian cho mình.
Để trẻ chịu trách nhiệm
Kinh nghiệm cho Montessori thấy rằng càng nhiều giáo viên quản lý trẻ thì công việc càng khó thực hiện hơn. Trẻ em có mối quan tâm cháy bỏng tới công việc thực tế. Các em thích nhìn các bác đầu bếp, những người trông coi, những người thu gom rác làm việc. Các em luôn luôn muốn “giúp đỡ” mọi người. Montessori tin rằng nên để cho trẻ được làm bất cứ thứ gì các em có thể làm. Bà cho rằng trách nhiệm của giáo viên là giúp tăng cường năng lực cho mỗi em bất cứ khi nào có thể.
Thông thường, các giáo viên mầm non hay cảm thấy thất vọng khi không thể lau chùi và thu dọn các phòng học hết mức có thể. Họ thấy thất vọng, quá tải khi các khối xếp hình Lego, Unifix và các khối hình khác bừa bãi lẫn lộn, không nằm đúng nơi đúng chỗ. Rất nhiều giáo viên thực hiện các hoạt động phân loại thu dọn nhưng lại không bao giờ nghĩ tới việc giao cho trẻ nhiệm vụ phân loại sắp xếp các vật dụng vào đúng chỗ trong lớp học. Các giáo viên biết rằng chơi với nước sẽ giúp trẻ yên lặng hơn, nhưng họ lại lo là không có thời gian lau dọn vì quá bận rộn. Nếu trẻ được trao cho nước rửa ấm và những chổi cọ, các em có thể tự mình lau chùi bàn ghế. Montessori cho rằng cảm thức về năng lực mà trẻ thu được từ việc tham dự vào những công việc đời thật như thế có lợi ích rất lớn và sẽ tăng cường lòng tự trọng của trẻ theo cách mà những hoạt động nhân tạo hoặc mang tính sắp đặt khác không bao giờ có được.
Sắp xếp các gói thời gian dài mang tính Kết thúc mở
Những quan sát của Montessori khiến bà tin rằng trẻ em có khả năng tập trung cao độ khi xung quanh có nhiều vật dụng thú vị để làm việc và khi các em có thời gian và được tự do làm việc với chúng. Bà cho rằng khi các giáo viên để trẻ được lựa chọn những gì các em sẽ làm, làm như thế nào và làm vào lúc nào thì họ sẽ có nhiều thời gian để quan sát và trợ giúp riêng cho từng em hơn. Hiện nay trong các chương trình mầm non của chúng ta, các em thường bị yêu cầu ra xếp hàng vòng tròn hoặc kể chuyện khi đang chú tâm trong công việc nghiên cứu của riêng mình. Các giáo viên nói rằng họ có quá nhiều thứ để dạy trẻ trong một khoảng thời gian ngắn nên họ không thể để trẻ thoải mái thời gian làm theo những hứng thú của riêng mình. Một số giáo viên còn cảm thấy rằng họ không thực hiện việc dạy trừ khi họ được lập kế hoạch cho tất cả các hoạt động. Họ dùng những cuốn sách dạy lập kế hoạch trong đó các gói thời gian được dành cho việc học viết, kể chuyện và nghe nhạc, thủ công, trò chơi toán học và ăn nhẹ. Rất nhiều giáo viên sợ khi phải rời bỏ những cuốn sách dạy cách lập kế hoạch. Thậm chí họ còn bắt các em phải vào lớp, trong khi ngoài kia đang là một ngày đẹp trời đầy nắng, chỉ bởi vì trong thời khóa biểu có một hoạt động kiểu như “di chuyển với khăn quàng cổ bằng lụa”.
Trái lại, các giáo viên Montessori được đào tạo để dạy ít đi và quan sát nhiều hơn. Tất nhiên các giáo viên phải xây dựng các hoạt động và cần có các giáo cụ trong tay để hỗ trợ cho trẻ, như những ý tưởng mà Dewey gợi ý đã được nói tới trong Chương 1. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần nhận ra sự khác biệt giữa loại hoạt động phi mục đích mà Dewey nói tới với loại hoạt động có mục đích, tự định hướng. Khi trẻ tham dự vào một công việc và học tập nghiêm túc, các em không nên bị ngắt quãng. Lý thuyết của Montessori về trẻ em nói với các giáo viên rằng không nên kéo trẻ ra khỏi công việc mà các em đang đắm mình vào đó, trừ khi cực kì cần thiết.
Montessori tin rằng cách duy nhất để biết sắp xếp thời gian biểu và quản lý hành vi như thế nào là thông qua quan sát. Đây cũng là lý do tại sao những gói thời gian dài không bị ngắt quãng là điều rất quan trọng cho cả giáo viên và trẻ em trong các lớp mầm non. Các giáo viên thường nghĩ rằng họ không cần tham gia vào hoạt động trong thời gian này. Tuy nhiên chính thời điểm này lại mang lại cơ hội tuyệt vời cho giáo viên quan sát cả chất lượng hoạt động của nhóm cũng như sự tham dự cá nhân của từng em trong hoạt động nhóm đó. Chúng ta có thể nhận ra điều khác biệt mà sự quan sát có thể tạo nên trong việc sắp xếp thời gian biểu là thông qua việc nhìn hai giáo viên cùng làm việc theo một chương trình mầm non nhưng ở hai lớp học tách biệt.
Janet tin rằng việc giữ các thời khóa biểu cố định là điều rất quan trọng đối với trẻ. Cuối mỗi tuần cô đều cẩn thận lập kế hoạch cho tuần sắp tới. Cô cố gắng cân bằng thời gian hoạt động trong lớp và thời gian hoạt động ngoài trời, giữa các hoạt động náo nhiệt với các hoạt động yên tĩnh, và giữa những hoạt động dựa trên lựa chọn của trẻ với những hoạt động do định hướng của giáo viên. Cô ghi nhớ nhu cầu cá nhân của các em. Một khi kế hoạch đã được thiết lập, cô rất ngại thay đổi. Cô tin rằng trẻ sẽ có được sự bình ổn với những chương trình hoạt động cố định.
Về cơ bản Bonnie cũng đồng tình với triết lý của Janet khi nói về những quan trọng đối với trẻ nhỏ. Tuy nhiên cô thừa nhận, cô không dành nhiều thời gian cho việc lập kế hoạch như Janet. Cô dựa nhiều hơn vào việc quan sát các em thường xuyên và liên tục. Bonnie nói rằng cô không biết làm gì cho hết ngày nếu như không thận trọng quan sát ở trẻ những dấu hiệu của sự hứng thú, mệt mỏi và nhu cầu.
Sự khác biệt giữa hai giáo viên này càng trở nên rõ hơn khi xem xét việc họ quản lý một phần đơn giản trong công việc của họ như thế nào: thời gian ngoài trời. Janet thường xuyên phải vật lộn với điều này. Cô và người trợ lý của mình, Laura, nhận thấy năm hoặc sáu trẻ trong lớp có 18 học sinh của mình thường bị lạnh hoặc bị nóng quá, hoặc nếu không thì các em cũng cảm thấy không thích thú với việc ở ngoài trời. Khả năng tập trung của hai cô giáo vào những đứa trẻ đang cảm thấy hứng thú vì được ra ngoài trời đã bị giảm đi vì phần năng lượng dành cho việc giữ cho những em kia khỏi làm loạn. Còn khi các em trở lại lớp học, năng lượng của Janet và Laura lại bị hoang phí vì quay cuồng với việc xử lý những em cần thời gian vui chơi ngoài trời lâu hơn.
Bonnie và người phụ tá của mình, Mark, đã tìm ra cách dễ dàng hơn. Khi có cơ hội, họ cho trẻ lựa chọn về thời gian dành cho hoạt động ngoài trời là bao lâu. Khi Bonnie và Mark quan sát thấy có năm hoặc sáu trẻ bị mệt, một người sẽ đưa nhóm nhỏ đó vào lớp. Sự quan sát thận trọng và linh hoạt của họ vừa cho phép họ lập thời gian biểu vừa giúp họ quản lý hành vi của trẻ suôn sẻ hơn.