Một trong những khái niệm quan trọng nhất trong lý thuyết của Vygotsky là khái niệm về Vùng phát triển gần nhất, hay còn được viết tắt là ZPD. Vygotsky xác định khái niệm này như là khoảng cách giữa một nhiệm vụ khó khăn nhất mà trẻ có thể tự làm một mình với một nhiệm vụ khó khăn nhất mà trẻ chỉ có thể làm được nếu có sự trợ giúp. Ông tin rằng trẻ sẽ rất có lợi khi đang học hỏi một khái niệm mới mà được tương tác với giáo viên hay bạn cùng lớp.
1 ZPD: The Zone of Proximal Development. Từ đây trở đi tôi sẽ dùng cụm từ viết tắt này (ZPD) để thay cho cụm “Vùng phát triển gần nhất”. (ND)
Sự trợ giúp của giáo viên hay của bạn đồng lứa đối với trẻ được Vygotsky gọi là bắc giàn (Scaffolding). Một người thợ vẽ trang trí nhà thường sử dụng một khung giàn để với tới những phần khó với tới trong nhà. Cũng theo cách đó, người lớn và những bạn đồng lứa có thể giúp trẻ “với” tới một khái niệm hoặc một kĩ năng mới bằng cách cung cấp những thông tin hỗ trợ. Vygotsky tin rằng điều này có thể được thực hiện không chỉ bởi giáo viên mà còn bởi những bạn đồng lứa với trẻ - những em đã thuần thục kĩ năng mà trẻ đang muốn học. Vygotsky tin rằng để bắc giàn tốt cho trẻ, các giáo viên cần phải là người quan sát sắc sảo. Ông tin rằng giáo viên cần sử dụng những quan sát đó để xác định trẻ đang ở đâu trên tiến trình học tập và các em có khả năng đi tới đâu, để đáp ứng những nhu cầu cá nhân và bối cảnh xã hội xung quanh trẻ. Ông cho rằng từ những thông tin thu thập được qua việc quan sát, các giáo viên có thể hỗ trợ quá trình học tập của trẻ. Điểm này cũng giống với niềm tin của Dewey cho rằng các giáo viên phải sử dụng sự hiểu biết rộng lớn hơn của họ về thế giới để giúp trẻ tạo dựng cảm thức về thế giới của mình.
Các giáo viên muốn ứng dụng quan điểm của Vygotsky về ZPD và về việc bắc giàn trong các chương trình giáo dục trẻ mầm non của mình có thể quan sát trẻ cẩn thận và lập nội dung chương trình giảng dạy để khích lệ sự phát lộ năng lực của trẻ, cũng như để ghép cặp những em có thể học hỏi lẫn nhau.
Quan sát trẻ kĩ càng và xây dựng nội dung chương trình theo đó
Cũng giống như Montessori và Piaget, Vygotsky nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quan sát. Bằng việc quan sát và lắng nghe cẩn thận, giáo viên sẽ biết được sự phát triển của mỗi trẻ. Theo Vygotsky đây là cách duy nhất để giáo viên có thể đánh giá được chính xác cái gì nằm trong vùng phát triển gần nhất của trẻ ở mỗi thời điểm xác định. Sự hiểu biết này rất quan trọng đối với việc xây dựng nội dung chương trình.
Việc xây dựng nội dung chương trình giảng dạy có lẽ là phạm vi chịu ảnh hưởng lớn nhất từ lý thuyết của Vygotsky. Không như Piaget, người nghĩ rằng quá trình học tập mang tính nhận thức của trẻ có tính chất nội tâm hơn là tương tác, Vygotsky tin rằng sự tương tác có tác động rất lớn tới quá trình phát triển nhận thức. Mãi cho đến khi công trình của Vygotsky được biết tới rộng rãi hơn ở Hoa Kỳ, các nhà giáo dục ở đây vốn chịu ảnh hưởng từ lý thuyết của Piaget vẫn ngại ngần chưa dám “thúc đẩy” trẻ học. Piaget tin rằng các giai đoạn phát triển nhận thức gắn chặt với quá trình phát triển thể chất. Ông cho rằng trẻ ở một giai đoạn phát triển đặc thù nào đó không có khả năng hiểu được rằng chúng sẽ phát triển tới một giai đoạn tiếp theo. Điều này dẫn các giáo viên tới chỗ xây dựng nội dung chương trình theo hướng hỗ trợ trẻ tại mức phát triển hiện thời chứ không nới rộng những giới hạn phát triển của trẻ.
Khác với Piaget, Vygotsky lại chỉ ra rằng sự phát triển nhận thức của trẻ không chỉ chịu ảnh hưởng từ sự phát triển thể chất mà còn chịu tác động từ những tương tác và môi trường xã hội xung quanh. Quan điểm của ông về khả năng sẵn sàng phát triển (developmental readiness) linh hoạt hơn Piaget vì nó bao trùm cả những kĩ năng và khái niệm mà trẻ vẫn chưa lĩnh hội được hoàn toàn thành cái của mình, nhưng trẻ sẽ có thể học được chúng từ sự làm mẫu của bạn đồng lứa hoặc của người lớn. Quan điểm này khích lệ các giáo viên xây dựng nội dung chương trình giảng dạy theo chiều hướng mở rộng tri thức của trẻ và bắc giàn cho quá trình học hỏi của các em thông qua việc đặt trẻ vào những tình huống mà trong đó năng lực của trẻ sẽ được nới rộng.
Xây dựng nội dung chương trình mang tính thách thức để nới rộng năng lực của trẻ
Dưới đây là ví dụ về một giáo viên đã tập trung vào ZPD của một trong những học sinh của mình, Margaret. Ví dụ cũng minh họa được rằng cả giáo viên và cả các bạn đồng lứa đều bắc giàn cho quá trình học hỏi và trưởng thành của Margaret. Một lần nọ tôi ghé thăm một lớp học đang tập trung vào chủ đề xây dựng. Các em học sinh bàn về việc xây dựng, xem các sách viết về xây dựng, tập sử dụng các công cụ trong bàn đe làm việc với gỗ và đi thăm quan những khu vực công trường xây dựng. Sau rất nhiều nghiên cứu, các em học sinh đã vẽ bản thiết kế xây dựng một ngôi nhà vui chơi ở sân. Ngày tôi ghé thăm là ngày các em đang làm mái. Tôi quan sát các em nhỏ, với sự trợ giúp của các giáo viên, các em leo lên giàn giáo và bắt đầu đóng các tấm ván lợp lên mái. Margaret cứ lân la quanh khu vực xây dựng. Cô bé muốn đóng đinh. Judy, cô giáo của Margaret nói: “Hôm nay chúng ta sẽ lợp mái. Nếu em muốn giúp các bạn thì cô có thể giúp em trèo lên giàn giáo.”
Margaret nói: “Không, em chỉ muốn đóng đinh thôi.”
Cô Judy xác nhận: “Khi quay lại lớp, em có thể sử dụng bàn đe gỗ để làm thế nếu em muốn. Còn bây giờ chúng ta đang lợp mái, nếu em không muốn giúp các bạn thì còn rất nhiều lựa chọn khác.”
Tôi thấy điều này không ổn. Những gì tôi đã được đào tạo khiến tôi thắc mắc về cách tiếp cận của giáo viên này. Nó có vẻ quá cứng nhắc đối với tôi. Tôi nghĩ: “Tại sao cô ấy lại không đưa cho em đó một mẩu gỗ, một chiếc búa và mấy cái đinh? Cô bé có thể ngồi gần khu vực xây dựng và đóng đinh của mình.” Phản ứng ban đầu của tôi đối lập lại với lời của cô giáo: “Nếu em muốn đóng đinh thì hãy trèo lên giàn giáo và lợp mái,” cũng đối lập với những hướng dẫn từ các giáo viên ngày xưa thường dạy lũ trẻ vẽ một cái cây và nói thêm rằng: “Các em hãy tô những chiếc lá màu xanh lá cây, tô thân cây màu nâu và bầu trời màu xanh da trời.” Tôi không hiểu. Tôi vẫn tiếp tục quan sát những em đang lợp mái.
Thỉnh thoảng cô Judy buông những lời bình luận kiểu như: “Hôm qua Peter sợ leo lên giàn giáo. Em ấy nghĩ rằng mình không thể bám chắc và đóng đinh được.” Margaret không nhúc nhích khỏi chỗ của mình dù có rất nhiều lựa chọn hoạt động khác trong khu vực sân. Cô bé tiếp tục quan sát những bạn đang lợp mái. Cô Judy tiếp tục quan sát Margaret.
“Khi Ashanti leo lên để lợp mái, bạn ấy ngó nghiêng quan sát một lúc vì bạn ấy sợ khi ở trên cao bạn ấy sẽ không tập trung vào việc đóng đinh được,” một lát sau cô Judy nói thầm. Tôi để ý thấy sự than vãn và nỗi buồn ban đầu của Margaret vì bị ngăn cản việc đóng đinh đã không còn nữa. Lúc này cô bé rất chú ý vào các bạn đang lợp mái, những người thường xuyên nhận được lời khích lệ của cô giáo.
“Các em đã đóng được nhiều tấm lợp rồi đấy,” cô Judy nói. Margaret vẫn quan sát.
Cuối cùng cô Judy nói: “Cô đang nghĩ rằng, nếu Ashanti nắm tay em một lát để giúp em chuẩn bị sẵn sàng cho việc leo lên cao. Vậy thì có thể ngày mai em sẽ thích việc đóng đinh.”
Đúng vào lúc này Ashanti cũng tham gia, “Coi nào Margaret. Tớ sẽ nắm tay bạn. Lúc trước tớ cũng thấy sợ.” Margaret đứng dậy. Judy trợ giúp khi Margaret leo lên giàn giáo. Ashanti nắm ngay lấy tay bạn khi Margaret leo lên. Khuôn mặt cô bé chuyển từ vẻ buồn bã, tần ngần và khó chịu mà cô bé biểu lộ suốt cả buổi sáng sang vẻ mặt hân hoan của một người chiến thắng hoàn toàn.
Choáng ngợp bởi thành tích của mình, cảm thức về năng lực của Margaret bùng phát. “Cho tớ mấy cái đinh!” cô bé hét lên sung sướng. Margaret đóng đinh tấm ván lợp đầu tiên. Judy mỉm cười. “Làm tốt lắm!” cô nói. Ngày hôm ấy tôi đã học hỏi được rất nhiều thứ. Tôi nhận ra rằng, nếu tôi là giáo viên của Margaret thì cô bé đã phải dành cả buổi sáng hạnh phúc “bên rìa” của khu vực xây dựng. Có lẽ tôi đã đưa cho cô bé mấy cái đinh, một tấm ván và một cái búa. Cô bé sẽ bằng lòng dành cả buổi sáng ra làm những gì mà mình thấy thoải mái, không mạo hiểm học thêm điều gì mới mẻ cả. Vào cuối ngày đứa trẻ sẽ trở về nhà hệt như khi đã tới lớp vào buổi sáng. Nhưng đứa trẻ mà cô Judy để cho về nhà là một đứa trẻ đã chiến thắng được nỗi sợ hãi, phát triển được các kĩ năng và cảm thức năng lực của mình, dẫn tới sự tăng cường lòng tự tôn. Cô đã quan sát cẩn thận học trò của mình và nhận định chính xác rằng cô bé đã sẵn sàng cho một bước nhảy nếu được trợ giúp một chút. Đây chính là điều mà Vygotsky muốn nói tới qua khái niệm bắc giàn. Kĩ năng leo lên giàn giáo và đóng đinh là thứ nằm trong vùng phát triển gần nhất (ZPD) của Margaret. Cô bé chưa thể tự mình thực hiện được việc đó, nhưng với sự trợ giúp, cô bé có thể đạt tới được năng lực đó.
Điều quan trọng cần nhận ra là việc sử dụng vùng phát triển gần nhất của Vygotsky cần một sự quan sát trẻ thật cẩn thận và đưa ra nhận định chính xác về việc làm thế nào để hỗ trợ tốt nhất cho quá trình học của trẻ. Judy biết rằng Margaret có thể làm được việc leo lên giàn giáo và đóng đinh. Cô biết rằng Margaret sợ leo lên cao. Cô biết rằng Margaret sẽ không chọn việc leo lên giàn giáo mà không có sự trợ giúp. Trong câu chuyện này, tất cả những gì quan sát được và từ đó có được sự hiểu biết về cá nhân trẻ là điều rất quan trọng để trẻ có thể thành công trong việc leo lên giàn giáo. Nếu không hiểu rõ về từng học sinh và dành thời gian quan sát cẩn thận, suy ngẫm về những gì quan sát được trước khi đưa ra những thôi thúc để đẩy trẻ đi xa hơn, các giáo viên có thể sẽ mắc phải những sai lầm nghiêm trọng.
Dưới đây là một ví dụ nữa về việc vùng phát triển gần nhất có thể ảnh hưởng tới đời sống trong một lớp học như thế nào. Trong những năm đầu đi dạy, tôi có một em học sinh năm tuổi tên là Lynn, em không thích vẽ bằng ngón tay1. Mẹ Lynn không thích “bừa bộn”. Tôi muốn “giải phóng” tinh thần sáng tạo của Lynn khỏi sự kiểm soát ngăn nắp của mẹ bé! Tôi không tin rằng cô bé không thích trò vẽ bằng ngón tay. Tôi dám chắc rằng tôi đã nghĩ là mình đang “hướng dẫn” chứ không hề “ép buộc” cô bé khi tôi cầm đôi bàn tay bé nhỏ của bé trong tay tôi và bắt đầu trò vẽ bằng ngón tay. Khi Lynn vùng ra khỏi tôi và trò chơi, tôi mới nhận ra một cách khó khăn rằng không phải mọi đứa trẻ đều thích trò vẽ bằng ngón tay. Tôi đã không lắng nghe học trò của mình cẩn thận. Tôi chưa quan sát đủ kĩ càng. Tôi đã không tôn trọng lối sống của gia đình bé. Tôi muốn ép một trải nghiệm lên cô bé mà tôi tự nghĩ rằng nó sẽ mở rộng vùng hiểu biết của em. Vì tôi không hiểu rõ các nhu cầu cá nhân của em nên kế hoạch của tôi đã không đưa lại kết quả như mong muốn. Trò vẽ bằng ngón tay không nằm trong vùng phát triển gần nhất của Lynn vào ngày hôm đó và nỗ lực bắc giàn của tôi đã thất bại.
1 Fingerpainting: trò vẽ với ngón tay, dùng ngón tay thay cọ vẽ, thường trẻ mẫu giáo rất thích. (ND)