Hướng dẫn cách suy nghĩ bên trong chiếc hộp
Từ trước đến giờ chúng tôi đã hướng dẫn các bạn cách suy nghĩ bên ngoài chiếc hộp (suy nghĩ theo đường vòng). Khi bạn đã biết chúng ta luôn phải đi tìm sự đối xứng thì chắc bạn cũng đoán ra bước tiếp theo là gì. Chúng tôi có thể hướng dẫn bạn suy nghĩ bên trong chiếc hộp (suy nghĩ theo đường thẳng) như thế nào?
Suy nghĩ bên trong chiếc hộp?
Trước hết, lời khuyên này có vẻ đi ngược lại những “câu thần chú” sáng tạo thông thường. “Không có câu trả lời nào sai”. “Hãy cân nhắc mọi phương án”. “Hãy phá vỡ những ranh giới ngăn cản sự đổi mới của bạn”.
Thực ra, không nên phá vỡ mọi ranh giới. Một số ranh giới thực sự tồn tại và cần được tôn trọng. Khi đã hiểu được giới hạn thực sự là gì, chúng ta có thể xác định tốt hơn những ranh giới mà chúng ta tự tạo ra.
Nếu bạn xác định có một số giới hạn mà mọi giải pháp đều phải tôn trọng thì quá trình tìm kiếm của bạn sẽ được định hướng một cách hiệu quả hơn. Đến một lúc nào đó chúng ta sẽ phải phân loại giải pháp nào sử dụng được, giải pháp nào không. Xác định được hoàn cảnh phù hợp sẽ giúp “tách gạo ra khỏi trấu”. Bằng cách đặt ra một số giới hạn trong quá trình tìm giải pháp, chúng ta có thể lọc những ý tưởng không phù hợp trước khi nó hình thành. Thậm chí chúng ta còn có thể lọc trước suy nghĩ của mình để không cho các ý tưởng đó xuất hiện trong đầu.
Hãy lấy nguyên lý thứ hai của nhiệt động lực học làm ví dụ (nguyên lý này nói rằng entropy1 của một hệ kín chỉ tăng chứ không giảm). Chúng ta chấp nhận giới hạn của nguyên lý này và không phí thời gian tìm cách tạo ra một loại động cơ vĩnh cửu. Giải quyết vấn đề theo nguyên tắc nghĩa là tính đến những nguyên tắc mà bất kỳ giải pháp nào cũng phải thỏa mãn. Xác định được càng nhiều nguyên tắc thì bạn càng tiến gần đến giải pháp. Có thể bạn sẽ tìm được ít giải pháp hơn, nhưng đó là các giải pháp đúng mà bạn nên tập trung vào.
1 Entropy: Đơn vị đo sự hỗn độn trong vật lý.
Giải quyết vấn đề theo nguyên tắc giúp bạn dễ dàng tìm ra giải pháp hơn bằng cách loại bỏ những điều vụn vặt. Mặc dù chúng tôi coi việc sàng lọc cũng là một hạn chế, nhưng chúng tôi muốn chứng minh cho bạn thấy rằng việc xác định điểm thứ yếu của giải pháp lại không mang tính hạn chế và còn có thể giúp tạo ra nhiều ý tưởng mới. Do vậy, chương này không chỉ giới hạn ở việc sàng lọc ý tưởng mà thực ra về bản chất nó còn là một công cụ nảy sinh ý tưởng.
SÁNG TẠO THEO NGUYÊN TẮC
Gary Hamel thích gây sốc cho người nghe bằng việc hỏi về số tinh trùng của họ. Nếu bạn cần 10 triệu tinh trùng để thụ tinh cho một trứng duy nhất thì có nghĩa là bạn khó có mà có được một ý tưởng tốt trừ phi bạn có rất nhiều vật liệu để tạo ra nó. Nhờ đó Hamel đã làm được một việc tuyệt vời là giúp người nghe tạo ra môi trường cho ý tưởng tự do phát triển.
Vấn đề là khi đã có ý tưởng rồi thì phải làm gì nữa. Bạn nảy ra nhiều ý tưởng, tốt thôi, nhưng điều đó chẳng có ý nghĩa gì cho đến khi bạn đánh giá chúng. Nhưng đánh giá chừng đó ý tưởng là một việc rất mất thời gian và tốn kém. Trong thực tế, nhiều công ty không khuyến khích nhân viên đóng góp nhiều ý tưởng là do lo sợ sẽ có quá nhiều ý tưởng và không biết xử lý thế nào.
Bạn có thể nói rằng chúng tôi ưa thích phương pháp nuôi cấy trong phòng thí nghiệm. Đúng vậy, nhưng thay vì đi sâu phân tích khái niệm này, chúng tôi muốn tìm cách giúp bạn lọc suy nghĩ của mình từ lúc đầu. Chúng tôi muốn các bạn tạo ra ít ý tưởng hơn nhưng chất lượng hơn.2
2 Hai cách này đã được ứng dụng vào chương trình đánh cờ vua trên máy tính. Cách của một trường làm cho máy tính xử lý càng ngày càng nhanh, do đó có khả năng tính trước nhiều nước đi hơn. Cách kia hướng tới việc bỏ các nước đi không quan trọng và tập trung vào việc đánh giá sức mạnh của nước đi. Với cách này, máy tính chỉ tìm kiếm trong một phạm vi được xác định. Ý tưởng này được đưa ra bởi John Geanakoplos và Larry Gray trong “When Seeing Further is Not Seeing Better”, Bulletin of the Santa Fe Institute 6, số 2 (1991).
Điểm mấu chốt là phải sử dụng bộ lọc phù hợp.
Rõ ràng là việc sàng lọc từ đầu giúp làm bạn giảm nguy cơ đi vào ngõ cụt. Tuy nhiên, điều đáng ngạc nhiên là nó còn có thể giúp chúng ta tìm ra một giải pháp tốt. Hóa ra một bức tranh rõ ràng về cấu trúc của vấn đề có thể làm cho quá trình tìm giải pháp trở nên dễ dàng hơn.
Tuy nhiên, thế nào là một bộ lọc phù hợp? Phương pháp giải quyết vấn đề theo nguyên tắc sẽ giúp bạn trả lời câu hỏi này. Mặc dù bạn chưa tìm ra giải pháp thì cũng cứ thử nghĩ xem bạn đã biết những gì. Thay vì bị mắc ở những gì mình chưa biết, tại sao bạn không bắt đầu từ những gì đã biết? Nếu bạn đã biết được 75% của câu trả lời thì việc tìm ra 25% còn lại sẽ dễ dàng hơn nhiều.
Bước thứ nhất là xác định tất cả những thuộc tính sẽ tạo thành phần cốt yếu của mọi giải pháp. Những thuộc tính thiết yếu này được gọi là nguyên tắc (trong toán học gọi là tiên đề) sẽ đóng vai trò như chất xúc tác cho quá trình tìm giải pháp. Phương pháp này giúp bạn định hướng quá trình tìm kiếm để không phải bắt đầu lại từ đầu mỗi khi đi vào ngõ cụt.
Chúng tôi sẽ lấy ví dụ một số vấn đề hóc búa để làm minh họa thực tế cho phương pháp này. Thú thực, chúng tôi hơi lo khi đưa ra những câu đố này vì có thể một số người trong các bạn không thích giải câu đố (còn một số người lại quá thích).
Bạn đã biết nhiều câu đố trong các cuốn sách dạy sáng tạo. Bạn có biết làm thế nào để biến một phụ nữ trẻ thành một bà già không? Mũi tên nào dài hơn? Làm thế nào để lấy một quả bóng bàn ra khỏi giếng? Vấn đề không nằm ở chỗ các câu đố mà ở chỗ thiếu mối liên kết giữa chúng với giải pháp thực tế.
Chúng tôi cho rằng các câu đố của mình được đưa ra với một mục đích rõ ràng - để minh họa phương pháp giả quyết vấn đề theo nguyên tắc. Chúng tạo ra một môi trường có kiểm soát trong đó chúng tôi có thể minh họa phương pháp sàng lọc từ đầu với tính ứng dụng rộng rãi. Các câu đố này chỉ là phương tiện, không phải mục đích. Sau khi giải xong các câu đố, chúng tôi sẽ chỉ ra cách áp dụng phương pháp tương tự trong việc giải quyết các vấn đề thực tế của cuộc sống.
Và chúng tôi cũng muốn các bạn vui vẻ một chút.
BÀI TẬP THỰC HÀNH CÂU ĐỐ 4 HẠT THÓC
Cho 4 hạt thóc, phải trồng như thế nào để khoảng cách từ mỗi hạt đến các hạt còn lại đều bằng nhau.3
3 Chúng tôi lần đầu nhìn thấy vấn đề này ở Lateral Thinking của Edward de Bono, (London: Penguin, 1977).
Bạn hãy thử suy nghĩ bằng mọi cách, cách nào cũng được.
Sau đó, chúng ta sẽ bàn đến việc sử dụng một phương pháp khoa học để tìm ra giải pháp.
Cách đầu tiên mà bạn nghĩ đến có lẽ là vẽ một hình vuông và đặt 4 hạt thóc ở 4 góc.

Đây không phải là một câu trả lời đúng. Khoảng cách của 2 hạt thóc nằm trên đường chéo lớn hơn khoảng cách của hai hạt nằm trên cạnh của hình vuông.
Bạn đã hiểu vấn đề. Hãy dừng lại để suy nghĩ một chút trước khi đọc tiếp.
Cứ cho là bạn không biết phải làm thế nào để trồng cả 4 hạt thóc, vậy bạn biết gì? Chắc chắn bạn biết làm thế nào để trồng ba hạt thóc sao cho khoảng cách từ mỗi hạt đến các hạt còn lại bằng nhau - bằng cách vẽ một tam giác đều.

Vì 4 hạt thóc phải cách đều nhau, do đó mỗi hạt thóc cũng phải cách đều nhau. Như vậy, một nguyên tắc mà chúng ta biết chắc là:
(a) 3 trong số 4 hạt thóc phải tạo thành một tam giác đều.
Khi đã có nguyên tắc đơn giản này, chúng ta có thể dễ dàng đặt 3 hạt thóc vào đúng vị trí. Vấn đề còn lại là hạt thóc thứ tư phải nằm ở đâu. Có thể chúng ta chưa tìm ra giải pháp nhưng ít nhất đã biết được 3/4 giải pháp.
Vậy hạt thóc thứ 4 sẽ nằm ở đâu?

Thông thường mọi người sẽ nghĩ ngay đến việc đặt nó ở giữa hình tam giác. Lại một câu trả lời sai. Vấn đề là khoảng cách từ hạt thóc ở giữa đến 3 hạt còn lại ngắn hơn khoảng cách từ mỗi hạt còn lại với nhau.
Vậy phải đặt nó ở đâu? Có vẻ như chúng ta đang bị tắc ở đây.
Lúc này, bạn sẽ cảm thấy thôi thúc muốn bắt đầu lại từ đầu và không sử dụng hình tam giác nữa. Đừng làm thế. Thông điệp mà phương pháp này muốn chuyển đến các bạn là nếu biết chắc một ý tưởng là đúng thì hãy tiếp tục phát triển nó, cho dù nó vẫn chưa đủ để hình thành giải pháp.
Vấn đề không nằm ở vị trí của 3 hạt thóc ban đầu, chắc chắn là không. Nếu cả 4 hạt thóc phải cách đều nhau thì 3 hạt cũng phải cách đều nhau, và 3 điểm cách đều nhau chỉ có thể là 3 đỉnh của một tam giác đều.
Nguyên tắc xếp 3 hạt thóc trước và chỉ tập trung vào hạt thứ tư giúp bạn thu hẹp vấn đề, chỉ cần giải quyết 1 vấn đề nhỏ nữa thôi là tìm được giải pháp. Thực ra, khi 3 hạt thóc đã được đặt ở vị trí cố định, chúng ta còn có thể mở rộng nguyên tắc đầu tiên để nó bao gồm cả hạt thóc thứ tư. Chúng ta không chỉ biết rằng 3 hạt thóc phải tạo thành một tam giác đều mà còn biết điều sau đây:
(b) 3 hạt thóc bất kỳ phải tạo thành một tam giác đều.
Như vậy, 2 hạt thóc bất kỳ ở đỉnh tam giác và hạt thóc thứ tư phải tạo thành một tam giác đều. Vậy hạt thóc thứ tư sẽ nằm ở đâu?
Thực ra, hạn chế không tồn tại mà do bạn tự đặt ra trong đầu, rằng cả 4 hạt thóc đều phải nằm trên một mặt phẳng.
Giải pháp lúc trước đặt hạt thóc thứ tư ở tâm của tam giác có thể đúng, chỉ cần đặt hạt thóc thứ tư ở vị trí cao hơn. Nhưng khoan đã - làm sao mà bạn trồng được 1 hạt thóc giữa lưng chừng trời? Đúng là bạn không làm được điều này nhưng trồng hạt thóc trên một quả đồi hay một đống đất thì chẳng có vấn đề gì.

Bây giờ hãy đội chiếc mũ đối xứng lên, bạn sẽ thấy ngay giải pháp thứ hai. Tại sao không trồng hạt thóc thứ tư dưới một cái hố?
Không phải dễ mà nghĩ đến không gian ba chiều. Tuy nhiên, bằng việc nhất quyết khẳng định 3 hạt thóc ban đầu phải tạo thành một tam giác đều bạn buộc phải từ bỏ một hạn chế mà hóa ra sai lầm là giới hạn giải pháp của bạn ở không gian hai chiều.
Câu đố tiếp theo sẽ sử dụng phương pháp giải quyết vấn đề có nguyên tắc để xem xét một vấn đề khó khăn hơn. Và trong trường hợp này không gian hai chiều không phải là hạn chế sai duy nhất.
BÀI TẬP THỰC HÀNH VẤN ĐỀ 10 HẠT THÓC
Trong câu đố này, nhiệm vụ của bạn là trồng 10 hạt thóc sao cho chúng tạo thành 5 hàng, mỗi hàng chỉ có 4 hạt thóc.4
4 Vấn đề này đến từ quyển sách rất hay của Henry Dudeney: 539 Puzzles and Curious Problems (New York: Scribner’s Sons, 1967), 439-440.
Một lần nữa, bạn hãy dành ít phút suy nghĩ, sau đó chúng ta sẽ nói về việc sử dụng một phương pháp khoa học để tìm ra giải pháp.
Thoạt nhìn thì câu đối này tưởng chừng như không thể giải được. Chúng ta chỉ có 10 hạt thóc, mà theo suy luận đơn giản thì phải cần tới 20 hạt mới sắp xếp được. Đương nhiên là mỗi hạt thóc có thể xuất hiện ở 2 hàng khác nhau. Thực ra, có thể đoán được rằng mỗi hạt thóc sẽ phải xuất hiện hai lần, vì 10 x 2 = 5 x 4, nghĩa là 10 hạt thóc, mỗi hạt được sử dụng 2 lần sẽ cho số thóc bằng số thóc được sử dụng trong 5 hàng, mỗi hàng 4 hạt.
Chúng ta biết chắc rằng dù giải pháp như thế nào thì các nguyên tắc sau cũng phải được đảm bảo:
(a) Ít nhất 1 hạt thóc phải xuất hiện trong nhiều hàng.
(b) Trung bình mỗi hạt thóc phải được sử dụng 2 lần. (Nếu 1 hạt thóc được sử dụng 1 lần thì một hạt khác phải được sử dụng 3 lần).
Đặt ra nguyên tắc là bước đầu tiên trong việc hình thành một phần giải pháp.
Tìm cách trồng 10 hạt thóc một lúc buộc chúng ta phải đưa ra rất nhiều quyết định - chính xác là 10 quyết định. Nếu có thể bằng cách nào đó tìm ra vị trí cho một số hạt trước thì sẽ dễ hình dung hơn. Đến lúc này bạn có thể nói gì thêm về giải pháp không?
Chắc chắn là có. Mặc dù điều này quá hiển nhiên, nhưng bạn vẫn phải nói ra:
(c) Phải có một hàng có 4 hạt.
Nguyên tắc này đưa chúng ta đến với một phần của giải pháp:

Chúng ta đã trồng được 4 hạt mà không cần sắp xếp gì, chỉ cần chúng nằm trên một đường thẳng. Bây giờ chỉ cần tìm vị trí cho 6 hạt còn lại. Nói cách khác, chúng ta đã đi được gần một nửa chặng đường.
Điểm cần lưu ý tiếp theo là phải nhớ nguyên tắc đầu tiên: Ít nhất 1 hạt phải xuất hiện trong nhiều hơn 1 hàng. Hãy khai thác nguyên tắc đầu tiên này và đặt thêm cùng với 1 trong 4 hạt ban đầu để tạo thành hàng thứ hai.

Chúng ta đã chọn hạt số 1 nằm ở đầu hàng cùng với 3 hạt khác để tạo thành hàng thứ hai. Đương nhiên không nhất thiết phải sử dụng đúng hạt số 1 để tạo thành hàng mới mà có thể là bất kỳ hạt nào và các hạt 5, 6, 7 không nhất thiết nằm đúng vị trí như hình trên. Chúng ta cũng có thể thay đổi góc cắt của hai hàng. Như vậy, chúng ta đã sắp xếp 7 hạt đầu tiên theo các nguyên tắc đã biết chắc chắn, chúng ta cũng nhận thấy phần nào của giải pháp ban đầu không bắt buộc (nhưng trước mắt cứ tạm sắp xếp như thế).
Giải pháp vẫn chưa hiện ra một cách rõ ràng, nhưng chúng ta cũng đã sắp xếp được 7 hạt. Việc còn lại là sắp xếp 3 hạt cuối cùng. Đến đây, chúng tôi sẽ để các bạn tự trồng 3 hạt thóc cuối cùng. Giải pháp sơ bộ mà chúng tôi đưa ra chắc chắn có kết quả. Chúng tôi sẽ giải quyết nốt câu đố này trong phần Phụ lục.
Bên cạnh đó, có thể dùng một số nguyên tắc khác để giải quyết vấn đề này. Ban đầu chúng ta đã trả lời câu đố bằng cách trồng hạt thóc trước và tìm hàng sau. Giờ hãy làm ngược lại. Chúng ta có thể bắt đầu bằng việc xác định 5 hàng rồi tìm cách sắp xếp các hạt thóc lên 5 hàng đó.
________________
________________
________________
________________
________________
Cũng giống như giải pháp sơ bộ bắt đầu bằng 4 hạt thóc, chúng ta cũng có thể bắt đầu bằng 5 hàng bất kỳ. Dù không biết các hạt thóc sẽ được xếp ở đâu thì chúng ta vẫn biết chắc chắn rằng giải pháp bắt buộc phải có 5 hàng.
Xếp 5 hàng song song như trên chắc chắn không đúng vì như thế sẽ cần tới 20 hạt thóc. Khi không có hàng nào cắt nhau thì chúng ta không thể dùng lại bất kỳ hạt thóc nào. Điều này vi phạm nguyên tắc thứ nhất. Chỉ cần sắp xếp lại các hàng một chút các bạn sẽ có ngay câu trả lời. (Chi tiết trong phần Phụ lục.)
ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ THEO NGUYÊN TẮC VÀO CUỘC
Giải câu đố là một công việc thú vị - ít nhất là đối với một số người, tuy nhiên, một câu hỏi quan trọng là những công cụ trên có hữu dụng trong việc giải quyết các vấn đề thực tế hay không. Chúng tôi nghĩ rằng nhiều bài tập giúp phát triển suy nghĩ theo đường vòng chưa chắc có ích trong việc giải quyết các vấn đề trong cuộc sống thực. Suy nghĩ theo đường vòng nghĩa là phá vỡ những hạn chế sai lầm mà chúng ta tự đặt ra trong quá trình giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, một việc quan trọng không kém là phải xác định được những hạn chế thực sự - điều kiện tiên quyết của một giải pháp - để giới hạn suy nghĩ và tập trung vào những ý tưởng có khả năng thành công cao.
Dĩ nhiên là phương pháp này cũng có thể thất bại nếu chúng ta xác định sai nguyên tắc, hay nói cách khác là tự đặt ra hạn chế cho vấn đề. Nếu một nguyên tắc sai làm chúng ta bỏ qua giải pháp thực sự trong tầm tay thì chúng ta sẽ không bao giờ tìm ra giải pháp nữa. Chính vì thế mà phương pháp suy nghĩ theo lối đường vòng mới được coi trọng như vậy. Tuy nhiên, với bài toán về những hạt thóc, các bạn đã thấy rằng hoàn toàn có thể suy luận ra những hạn chế thực sự, nhờ đó quá trình tìm giải pháp sẽ hiệu quả hơn. Suy nghĩ theo đường vòng một cách hỗn loạn, không có nguyên tắc thường mang lại thất bại vì nó làm cho người đi tìm giải pháp phải cân nhắc tất cả mọi phương án, dù biết rằng khả năng thành công là rất thấp.
Như vậy, suy nghĩ theo đường vòng và giải quyết vấn đề theo nguyên tắc chính là hai mặt âm dương của một đồng xu, là tính biện chứng của sáng tạo hiệu quả. Hãy coi sự tổng hợp của hai phương pháp này là “suy nghĩ bên trong chiếc hộp thực sự”.
Công cụ mà chúng tôi muốn đề cập là bạn phải tự phát biểu và viết ra những phần thiết yếu của mọi giải pháp. Phát biểu nguyên tắc thành lời làm cho việc loại bỏ hạn chế sai trở nên dễ dàng hơn. Đó là lý do mà trong câu đố 4 hạt thóc, bước quan trọng nhất là chỉ cho bạn thấy rằng giải pháp không yêu cầu phải trồng các hạt thóc trên một mặt phẳng. Vấn đề thường gặp đối với phương pháp suy nghĩ bên trong chiếc hộp là bạn thậm chí không nhận ra những chiếc hộp đang hạn chế suy nghĩ của mình. Do đó, chúng tôi khuyên các bạn hãy mô tả thành lời những chiếc hộp, ít nhất là để kiểm tra xem các ranh giới có thực hay chỉ là những hạn chế sai lầm.
Phương pháp suy nghĩ theo nguyên tắc sẽ là sự bổ sung mạnh mẽ cho những kỹ thuật sáng tạo ý tưởng mà bạn vừa đọc ở các chương trước. Bạn đã biết rằng tính đối xứng với tất cả những biểu hiện của nó (tạo ra sự đối xứng, phá vỡ đối xứng, đảo ngược sự việc) có thể tạo ra vô số khả năng. Tuy nhiên, tự bản thân tính đối xứng không nói lên ý tưởng nào có thể có hiệu quả và ý tưởng nào thì không. Đó chính là công việc của phương pháp giải quyết vấn đề theo nguyên tắc, nó giúp bạn sàng lọc ý tưởng và định hướng quá trình tìm kiếm giải pháp.
Những người ưa thích lối suy nghĩ theo đường vòng một cách cực đoan chắc sẽ từ chối phương pháp có nguyên tắc vì họ sợ rằng phương pháp này sẽ bỏ đi quá nhiều ý tưởng tốt. Nếu nguyên tắc đúng, điều đó sẽ không xảy ra. Ngược lại, bạn sẽ bỏ đi được rất nhiều ý tưởng tồi và tập trung vào các ý tưởng thực sự tốt.
Kết quả cuối cùng và cũng quan trọng nhất là bạn có thể dùng những nguyên tắc này làm bệ phóng để tìm ra giải pháp. Đó chính là những gì chúng ta vừa làm với nguyên tắc tam giác đều trong bài toán 4 hạt thóc.
Trước khi chuyển sang những vấn đề thực tế, chúng tôi muốn các bạn ghi nhớ một điểm cuối cùng: Nói về phương pháp giải quyết vấn đề theo nguyên tắc, tính đối xứng đòi hỏi chúng tôi đề cập đến một khía cạnh tương ứng - đặt câu hỏi theo nguyên tắc.
Các bạn có thể tìm thấy phương pháp này trong Chương V, ở đó chúng tôi đã yêu cầu các bạn xác định những nguyên tắc cơ bản làm nên hiệu quả của giải pháp trước khi chuyển đổi chúng sang một bối cảnh khác. Ví dụ, khi nói về ý tưởng yêu cầu khách hàng tua ngược băng trước khi xem, chúng ta đã phải suy nghĩ để thấy rằng nguyên tắc cơ bản của ý tưởng này yêu cầu khách hàng phải thực hiện nghĩa vụ cần thiết trước khi sử dụng sản phẩm. Trình bày nguyên tắc này thành lời một cách tổng quát giúp chúng ta tiếp tục tìm cách giải quyết những tình huống tương tự có liên quan đến nghĩa vụ của khách hàng. Và chúng ta có bảo hiểm tính trong giá nhiên liệu để giải quyết vấn đề trốn mua bảo hiểm ô tô và đăng ký bỏ phiếu tại các điểm làm thủ tục cho ô tô để giải quyết vấn đề trốn bỏ phiếu.
Trong thực tế, một cách hiệu quả để tìm ra vấn đề mới là tập trung vào những hạn chế không thuộc bản chất của vấn đề mà đang giới hạn tầm nhìn của chúng ta. Một khi đã xác định được chiếc hộp sai lầm đang hạn chế không cho chúng ta nhìn thấy giải pháp trong một bối cảnh cụ thể, hãy bắt đầu tìm kiếm một cách có hệ thống những bối cảnh khác mà cũng chiếc hộp đó đang ngăn cản suy nghĩ của chúng ta. Một cách để tìm ra vấn đề mới là nhận ra rằng giải pháp thường được tìm thấy khi ta đã xác định được những hạn chế sai hoặc không thuộc về bản chất của vấn đề.
Sau khi thấy rằng thư viện không nhất thiết chỉ bị giới hạn trong hoạt động cho mượn sách, chúng ta có thể nhìn thấy khả năng thư viện cho thuê hoặc bán sách hoặc thậm chí mở một cửa hàng cà phê. Sau khi thấy rằng các hệ thống bán lẻ như IKEA và Disney có thể cung cấp dịch vụ trông trẻ, chúng ta nhìn thấy ngay khả năng các rạp chiếu phim cũng có thể cung cấp dịch vụ này và thậm chí còn làm tốt hơn.
Chỉ cần nhận ra một hạn chế sai lầm, chúng ta có thể tìm ra những ứng dụng khác cho giải pháp của mình. Để làm điều này, chúng ta tìm kiếm những bối cảnh khác trong đó những hạn chế sai lầm tương tự đang ngăn cản việc nhìn thấy giải pháp.
BÀI TOÁN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ THEO NGUYÊN TẮC: TÁI THIẾT KẾ TÍN DỤNG TRẢ GÓP
Để đưa cuộc thảo luận này vào trong bối cảnh thực tế, hãy thử áp dụng phương pháp giải quyết vấn đề theo nguyên tắc vào việc tái thiết kế tín dụng trả góp. Tín dụng trả góp, hiểu một cách chung nhất là việc ngân hàng (hoặc nhà cung cấp dịch vụ tài chính) cho bạn vay một khoản tiền mà bạn cam kết sẽ trả lại. Có các loại tín dụng trả góp lãi suất cố định, tín dụng trả góp lãi suất thả nổi và tín dụng trả góp thanh toán chót hạn. Tất cả các loại tín dụng trả góp trên đều có một mẫu số chung:
Giá trị chiết khấu hiện tại của khoản tiền mà bạn phải trả trong tương lai bằng khoản tiền mà bạn đã vay.
Ví dụ, bạn vay 100 đô la với lãi suất 10%. Bạn có thể trả lãi 10 đô la hằng năm đến mãi mãi, hoặc bạn không trả đồng nào trong năm đầu và trả 121 đô la trong năm thứ hai và như thế là thanh toán xong khoản nợ. Có nhiều phương thức thanh toán nợ đang được các ngân hàng áp dụng nhưng bạn phải nhớ là các ngân hàng không bao giờ làm từ thiện: Họ cần lấy lại khoản tiền (mà khi quy đổi ra giá trị hiện tại) bằng giá trị khoản tiền mà họ cho bạn vay. Đây là nguyên tắc đầu tiên của tất cả các giải pháp cho tín dụng trả góp.
Giới hạn bởi khả năng thanh toán trong tương lai
Chúng ta hãy phân tích loại hình tín dụng trả góp lãi suất thay đổi. Người lao động với mức lương cố định và khả năng thanh toán bằng tiền mặt hạn chế chắc chắn gặp khó khăn với loại tín dụng trả góp lãi suất thay đổi. Họ lo ngại rằng khi lãi suất tăng lên thì khoản tiền trả góp hằng tháng cũng tăng theo và nếu mức tăng quá cao thì có thể họ sẽ không trả nợ được nữa.
Vấn đề ở chỗ hầu hết mọi người đều dựa vào lương để thanh toán khoản vay trả góp nên họ không thể chấp nhận rủi ro khi khoản tiền trả góp hằng tháng tăng lên. Mặt khác, quan điểm của ngân hàng là khi lãi suất tăng, họ phải thu về nhiều tiền hơn để đảm bảo giá trị của khoản vay. Vậy có cách nào giúp người đi vay tín dụng trả góp lãi suất điều chỉnh được lợi khi lãi suất giảm mà khoản tiền trả góp hằng tháng vẫn không đổi hay không?
Chúng ta có một nguyên tắc và một mục tiêu ban đầu xem chừng khá mâu thuẫn. Nguyên tắc cơ bản là ngân hàng phải lấy lại được giá trị chiết khấu hiện tại của khoản tiền mà họ cho vay. Mục tiêu mâu thuẫn là khoản tiền trả góp hằng tháng không được tăng khi lãi suất tăng. Nếu coi mục tiêu khoản tiền trả góp hằng tháng không tăng là một hạn chế (và đối với một số người đi vay, đây là một hạn chế thực sự) thì chúng ta phải tự hỏi liệu có thể có một hình thức tín dụng trả góp nào thỏa mãn cả hai hạn chế này hay không. Trong ví dụ này, phương pháp giải quyết vấn đề theo nguyên tắc có giá trị ở chỗ nó tập trung vào các giải pháp tiềm năng đảm bảo cả hai điều kiện tiên quyết: Giá trị chiết khấu hiện tại không đổi và khoản tiền trả góp hằng tháng không đổi.
Tập trung vào hai hạn chế này, chúng ta sẽ tìm ra một giải pháp. Nếu muốn khoản tiền trả góp hằng tháng không đổi khi lãi suất tăng thì phải điều chỉnh một số điều khoản khác của hợp đồng vay sao cho giá trị chiết khấu hiện tại của khoản vay không đổi. Nói cách khác, một số yếu tố khác ngoài khoản tiền trả góp hằng tháng sẽ phải được điều chỉnh khi lãi suất thay đổi.
Hãy dừng lại một phút để suy nghĩ. Nếu khoản tiền trả góp hằng tháng cố định thì yếu tố nào trong hợp đồng vay sẽ phải được điều chỉnh theo mức biến động của lãi suất thị trường? (Gợi ý: Nếu bạn quen dùng Excel, hãy nghĩ đến những định thức khác nhau của hàm số @PMT.)
Tại sao không điều chỉnh số lần thanh toán trong khi giữ nguyên mức thanh toán định kỳ? Như thế không có nghĩa là hằng tháng người đi vay phải thanh toán nhiều khoản nợ hơn. Yêu cầu người đi vay thanh toán hai lần trong một tháng càng làm cho khả năng trả nợ của họ trở nên xa vời hơn. Giải pháp tốt hơn là kéo dài thời hạn của khoản vay. Một khoản tín dụng trả góp với thời hạn 15 năm có thể được kéo dài thành 16 năm hoặc 18 năm nếu lãi suất tăng lên.
Công cụ đối xứng cũng có thể giúp chúng ta tìm ra giải pháp này. Hãy nghĩ đến việc áp dụng bài kiểm tra nhấn mạnh trong câu sau:
Tín dụng lãi suất thay đổi có thời hạn xác định trong đó khoản tiền trả góp hằng tháng thay đổi theo lãi suất thị trường.
Mặc dù có thể tìm ra giải pháp nhờ đổi chỗ hai cụm từ không in nghiêng nhưng bạn không biết liệu giải pháp có tác dụng hay không. Phương pháp giải quyết vấn đề theo nguyên tắc bản thân nó đã bao hàm một cách kiểm nghiệm tính hiệu quả của ý tưởng, nhưng quan trọng hơn, đôi khi nó còn gợi nên một con đường trực tiếp dẫn đến giải pháp nhờ việc tập trung vào những hạn chế cơ bản - trong trường hợp này là tạo ra một loại tín dụng trả góp lãi suất thay đổi với khoản tiền trả góp hằng tháng cố định.
Loại tín dụng với thời hạn thay đổi này cũng có những hạn chế thực sự. Kéo dài thời hạn của khoản tín dụng dẫn tới nguy cơ lợi nhuận giảm dần theo quy mô. Khi khoản vay thế chấp đã đạt đến ngưỡng không thanh toán được thì không thể tiếp tục kéo dài thời hạn. Tuy nhiên, không nên coi hạn chế này là vấn đề. Hiện nay, nhiều loại tín dụng trả góp lãi suất thay đổi có quy định mức độ điều chỉnh lãi suất tối đa. Tương tự như vậy, có thể đặt thời hạn tối đa là 30 năm đối với loại tín dụng trả góp điều chỉnh thời hạn.
Chúng ta đã tìm ra giải pháp. Nhưng nhu cầu đối với sản phẩm này như thế nào? Ở Anh, loại tín dụng “thời hạn thay đổi” này đã xuất hiện và trở nên rất thông dụng.5
5 Việc có hay không nhu cầu về tín dụng trả góp lãi suất thay đổi ở Mỹ rất khó dự đoán. Thị trường tiêu dùng của Mỹ ưa thích các loại tín dụng lãi suất cố định, trong khi đó thị trường Anh quốc là nơi tín dụng lãi suất cố định ít phát triển, vì vậy có một nhu cầu lớn về các sản phẩm mới có khả năng thay đổi lãi suất.
Giới hạn bởi khả năng thanh toán trong hiện tại
Đối với hầu hết mọi người, quy mô ngôi nhà họ có thể mua được bị hạn chế bởi khả năng tài chính của họ trong hiện tại. Bạn mua ngôi nhà như thế nào phụ thuộc vào số tiền bạn vay được, và số tiền bạn có thể vay được ngân hàng quyết định dựa trên thu nhập của bạn. Thông thường, ngân hàng chỉ cho khách hàng dành 28% thu nhập vào chi phí dành cho nhà cửa, trong khi đó, khách hàng thường muốn vay nhiều hơn số tiền mà ngân hàng sẵn sàng cho vay.
Đây không chỉ là vấn đề no bụng đói con mắt. Ở hầu hết các thành phố lớn, giá nhà đất đều tăng nhanh hơn mức tăng thu nhập. Vấn đề là phải làm sao để các ngôi nhà trở nên vừa túi tiền hơn đối với mọi người.
Hãy xem xét vấn đề ở góc độ khách hàng có khả năng vay bao nhiêu.6 Việc trả nợ trong năm đầu thường khó khăn hơn nhiều so với 10 năm sau. Nếu bạn vượt qua được năm đầu tiên nghĩa là bạn sẽ không gặp vấn đề gì. Việc trả nợ sẽ vất vả nhất trong năm đầu tiên vì từ các năm sau, thu nhập sẽ tăng lên trong khi khoản tiền trả góp hằng tháng không đổi.
6 Cách thứ hai để giải quyết khả năng mua là thay đổi cái mà người ta phải mua. Mua một căn nhà là sự kết hợp của hai việc: có được một nơi để sinh sống và đầu tư một khoản lớn vào bất động sản. Các nhà đầu tư có thể sẵn sàng trả một phần cho ngôi nhà của bạn nếu bạn đồng ý chia sẻ một phần khả năng thu lợi nhuận (và thua lỗ) với họ. Royal Bank of Scotland đã đưa việc này ra thị trường với sản phẩm SAM của họ. Ngân hàng sẽ cho vay với lãi suất thấp nếu người vay đồng ý chia sẻ một phần lợi nhuận khi bán nhà. Một phiên bản khác của việc chia sẻ trực tiếp lợi nhuận đang rất được chú ý tại Australia. Thông tin về vấn đề này có thể tìm thêm tại Housing Partnerships của Andrew Caplin et al. (Cambridge: MIT Press, 1997).
Vậy vấn đề là: Mọi người biết rằng khi thu nhập tăng lên, họ có thể thanh toán một khoản nợ lớn hơn, tuy nhiên, với loại tín dụng trả góp truyền thống, ngân hàng không muốn cho vay nhiều hơn vì như thế nghĩa là khách hàng phải dành một phần lớn hơn trong thu nhập hiện tại vào việc trả nợ mua nhà. Làm thế nào để có một loại tín dụng mua nhà trả góp trong đó ngân hàng cho khách hàng vay nhiều tiền hơn, dựa trên niềm tin rằng thu nhập của khách hàng sẽ tăng lên trong tương lai - mà không làm ảnh hưởng đến ngân sách hiện tại của họ?
Đây chính là lúc áp dụng phương pháp giải quyết vấn đề theo nguyên tắc. Hạn chế thực sự là gì? Bước một: Tập hợp tất cả những hạn chế và trình bày thành lời. Dừng lại và viết những điều đó ra.
Chúng tôi thấy có ba hạn chế thực sự mà mọi giải pháp đều phải thỏa mãn:
Thứ nhất, như đã nói ở trên, ngân hàng cần lấy lại từ người đi vay một khoản tiền có giá trị (quy ra giá trị hiện tại) bằng khoản tiền mà họ cho vay.
Thứ hai, không thể yêu cầu người đi vay trả nhiều tiền hơn là thu nhập của họ cho phép, dù tại bất kỳ thời điểm nào.
Thứ ba, thị trường quyết định giá nhà. Chúng ta không thể làm gì khác ngoài hy vọng là giá nhà sẽ giảm.
Sau khi trình bày thành lời những nguyên tắc trên, chúng ta có thể tự do thiết kế các khoản vay. Chúng ta đã thấy điều này trong bài toán đầu tiên: Việc giữ nguyên số tiền trả góp hằng tháng khiến chúng ta phải tập trung vào việc điều chỉnh các khía cạnh khác của khoản vay để phù hợp với mức tăng lãi suất. Do vậy, bước thứ hai trong quá trình ứng dụng phương pháp giải quyết vấn đề theo nguyên tắc là tập trung vào những gì còn lại khi các nguyên tắc và hạn chế đều đã được thỏa mãn.
Vậy chúng ta có thể tự do hành động ở điểm nào? Trong khi người cho vay đòi hỏi giá trị của khoản vay phải được hoàn trả nguyên vẹn thì nguyên tắc đầu tiên cho phép chúng ta linh động một chút ở khía cạnh khi nào phải trả nợ. Hạn chế thực sự đối với hầu hết những người đi vay là thu nhập của họ không đủ để trả ngay một khoản lớn khi ở giai đoạn đầu của hợp đồng. Tuy nhiên, hạn chế này đạt đỉnh ở giai đoạn đầu và sẽ giảm dần theo thời gian. Chúng ta trông đợi thu nhập của người đi vay sẽ ngày càng tăng.
Tại sao không tạo ra một loại tín dụng trong đó khoản tiền trả góp hằng tháng sẽ tăng theo thời gian? Nói tóm lại là tạo điều kiện cho người mua nhà trả ít tiền vào hôm nay và sẽ trả nhiều hơn vào ngày mai, khi họ có thu nhập khá hơn.
Người đi vay có thể trả nhiều hơn bao nhiêu phụ thuộc vào thu nhập của họ trong tương lai. Có hai lý do để trông chờ tăng lương. Thứ nhất là được đề bạt. Thứ hai là lương tăng theo lạm phát. Bạn có thể hiểu lý do tại sao ngân hàng trông chờ vào việc người đi vay được thăng chức, nhưng tại sao không có loại tín dụng điều chỉnh theo lạm phát? Thay vì yêu cầu người đi vay trả một khoản tiền cố định mỗi tháng, hãy cho họ vay trả góp với cam kết sẽ trả một khoản tiền thực tế. Nếu việc thanh toán nợ trả góp được điều chỉnh theo lạm phát thì gánh nặng thực sự đối với người mua nhà sẽ được phân bố hợp lý hơn.
Bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy tỷ lệ lạm phát dù nhỏ cũng có tác động đáng kể. Trước hết hãy phân tích trường hợp một nền kinh tế với tỷ lệ lạm phát thấp - chẳng hạn, tỷ lệ lạm phát là 2% trong khi lãi suất dài hạn là 6%. Nếu vay trả góp thông thường, người mua nhà sẽ phải trả một khoản tiền hằng tháng tính theo mức lãi suất 6% này. Nhưng nếu việc khoản tiền trả góp được điều chỉnh theo lạm phát thì số tiền phải trả sẽ được tính theo mức lãi suất thực tế thấp hơn nhiều (lãi suất ròng sau lạm phát), nghĩa là khoản tiền trả góp hằng tháng sẽ được tính trên mức lãi suất 4%. Số tiền trả góp trong năm đầu tiên sẽ chỉ bằng 2/3 so với tín dụng truyền thống. Nói cách khác, người đi vay có thể vay thêm 50% mà khoản tiền trả góp trong năm đầu tiên vẫn không đổi.
Lý do “Tại sao không?”
Chúng tôi cho rằng tín dụng trả góp điều chỉnh theo lạm phát là một ý tưởng tuyệt vời, tuy nhiên có ít nhất một lý do tại sao loại tín dụng này chưa xuất hiện ở New York - bởi vì chúng vi phạm pháp luật. Tín dụng điều chỉnh theo lạm phát có thể vi phạm các luật chống cho vay nặng lãi vì nó có thể tạo ra cái gọi là trả nợ âm7. Nghĩa là, thay vì có thể trả dần nợ gốc hằng tháng (và xây dựng dần dần giá trị sau thế chấp của tài sản) thì tạm thời người đi vay sẽ nợ nhiều hơn trong mấy năm đầu. Sau một thời gian, chiều hướng này sẽ bị đảo ngược vì khoản tiền trả góp hằng tháng tăng lên theo mức lạm phát.
7 Trả nợ âm (Negative amortization): Nghĩa là người vay không thanh toán được tiền trả góp trong những năm đầu và số tiền đó bị cộng dồn vào tiền gốc.
Trả nợ âm không đến nỗi xấu như vậy. Mặc dù khoản nợ danh nghĩa ban đầu lớn hơn nhưng khi lạm phát tăng lên, khoản nợ thực tế (tính ra tiền mặt) sẽ ngày càng giảm đi. Và cũng nên nhớ rằng giá trị căn nhà cũng tăng lên theo lạm phát. Miễn là tốc độ tăng giá nhà tương đương với tốc độ lạm phát thì giá trị sau thế chấp của căn nhà vẫn ngày càng tăng lên. Do đó thật vô lý khi cấm đoán theo kiểu vơ đũa cả nắm như thế.
Vay thêm được 50% sẽ tạo nên sự thay đổi lớn trong quy mô của ngôi nhà. Ngay cả khi khoản vay trả góp chỉ được điều chỉnh dựa trên 1/2 mức lạm phát thì người đi vay vẫn có thể vay thêm 25% và như thế cũng đủ tạo ra sự thay đổi lớn.
Trên đây là ví dụ của một nền kinh tế với tốc độ lạm phát thấp. Thử tưởng tượng xem thay đổi sẽ lớn tới mức nào trong một nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát lên đến 20%. Khác biệt ở chỗ bạn vay với lãi suất danh nghĩa 24% hay lãi suất thực tế 4% và khoản tiền trả góp hằng năm tăng với tốc độ 20%.
Nếu khoản tín dụng không được điều chỉnh theo lạm phát thì bạn chỉ có thể vay được một khoản tiền với giá trị bằng 1/5 và không thể mua được nhà. Để mua một căn nhà trị giá 200.000 đô la với lãi suất 24% một năm thì hằng tháng bạn sẽ phải trả 4.000 đô la! Như vậy, bạn phải có thu nhập hằng năm 200.000 đô la thì mới đủ tiền trả góp cho một căn nhà trị giá 200.000 đô la. Thay vào đó, nếu khoản tín dụng được điều chỉnh theo lạm phát thì khoản tiền trả góp hằng tháng chỉ là 800 đô la - và thu nhập tối thiểu đảm bảo trả nợ chỉ là 55.000 đô la một năm.8
8 Các con số này dựa trên chuẩn công nghiệp với tỷ lệ 28/36: Không được tiêu vào chi phí nhà ở (tiền thuê, thuế và bảo hiểm) nhiều hơn 28% thu nhập trước thuế và không được trả nợ (bao gồm cả mua nhà trả góp) quá 36% thu nhập sau thuế.
Như vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi ở các nước có tỷ lệ lạm phát rất cao - ví dụ như Brazil và Israel - các khoản tín dụng trả góp đều được điều chỉnh theo lạm phát. Đây là một điều bắt buộc. Tuy nhiên, không nhất thiết tỷ lệ lạm phát phải cao thì bạn mới được hưởng lợi từ phương thức này.
Lợi ích của tín dụng mua nhà trả góp điều chỉnh theo lạm phát không lớn như ở những nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao nhưng cũng đáng kể. Chỉ với tỷ lệ lạm phát 2%, người đi vay đã vay được thêm 50% giá trị khoản tín dụng. Hoặc bạn có thể vay một số tiền tương đương nhưng số tiền trả góp trong năm đầu chỉ bằng 1/3, nhờ đó bạn có thêm tiền để mua nội thất hay sửa chữa căn nhà. Tín dụng mua nhà trả góp giúp mọi người với mức thu nhập khác nhau đều vay được nhiều tiền hơn để mua ngôi nhà mơ ước.
Bảo vệ tiền tiết kiệm trước tình trạng lạm phát
Khi có một ý tưởng tốt, chúng ta thường muốn lật ngược và tìm cách chuyển đổi sang một bối cảnh khác. Nếu cho vay điều chỉnh theo lạm phát là một ý tưởng tốt thì đầu tư điều chỉnh theo lạm phát sẽ như thế nào? Tại sao không có một loại trái phiếu với lãi suất tăng hay giảm theo tỷ lệ lạm phát? Ý tưởng này do Milton Friedman đưa ra từ năm 1970. Nó đã được áp dụng ở Australia, Canada, New Zealand, Anh, Thụy Điển và gần đây nhất là ở Mỹ.9
9 Các trái phiếu có lãi suất điều chỉnh theo lạm phát có hai dạng. Với các Chứng khoán Chỉ số Lạm phát của Ngân khố (TIPS), nguyên tắc là giữ vững một lãi suất thực không đổi. Dạng khác là các trái phiếu series I, ở đó tỷ lệ lãi suất thay đổi.
Trái phiếu chính phủ với lãi suất thay đổi được đưa ra vào năm 1977 nhờ phần lớn vào công sức của Thứ trưởng Tài chính Mỹ lúc đó là Larry Summers.
Trên lý thuyết, Chính phủ có thể tiết kiệm tiền do không phải trả phí rủi ro.10 Nhà đầu tư thích thú với ý tưởng tiền lợi nhuận của mình được bảo vệ trước tình trạng lạm phát. Điều này gợi lên một ý tưởng chuyển đổi: Trái phiếu huy động vốn xây dựng cơ sở hạ tầng với lãi suất được điều chỉnh theo lạm phát. Người mua trái phiếu sẽ bị đánh thuế trên lợi tức danh nghĩa của trái phiếu chứ không phải lợi nhuận thực tế. Như vậy, điều còn thiếu là khả năng lãi suất sau thuế được bảo vệ trước lạm phát. Chính quyền bang nên tiến thêm một bước nữa và phát hành trái phiếu huy động vốn xây dựng cơ sở hạ tầng với lãi suất được điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát.11
10 Các trái phiếu có lãi suất điều chỉnh theo lạm phát cũng làm giảm động cơ của chính phủ trong việc in tiền và làm cho việc chống lạm phát dễ dàng hơn.
11 Chúng tôi nghe ý tưởng này lần đầu từ nhà kinh tế học John Shoven của Stanford.
Loại trái phiếu này sẽ đảm bảo lợi tức thực tế, làm cho sức mua của những người nghỉ hưu không bị lạm phát triệt tiêu.
Tiếp theo, chúng ta sẽ chuyển sang một ví dụ về giải quyết vấn đề theo các nguyên tắc có thể xuất hiện ngay trong cuộc sống hằng ngày.
VÍ DỤ ĐIỂN HÌNH
CHƯƠNG TRÌNH HỌC GIẢ BẠC
Quy trình đào tạo truyền thống của một trường kinh doanh là sinh viên tốt nghiệp đại học, đi làm ít nhất hai năm, sau đó trở lại trường để theo học MBA. Trường luật thì linh hoạt hơn. Một số sinh viên được chấp nhận học cao học ngay sau khi tốt nghiệp trong khi một số khác có thể ra đi làm vài năm sau đó quay trở lại học tiếp. Trường đào tạo quản lý của Yale cạnh tranh với tất cả các chương trình đào tạo MBA tốt nhất để thu hút các sinh viên giỏi. Ở Yale, chúng tôi luôn tìm cách phát huy lợi thế cạnh tranh. Một cách chắc chắn để đảm bảo chất lượng của trường là thu hút nhiều sinh viên giỏi theo học. Bộ phận đào tạo đại học của Yale là một nơi lý tưởng để tìm kiếm các sinh viên này.
Vấn đề ở chỗ theo học MBA ngay khi mới tốt nghiệp đại học thường là một lựa chọn tồi. Ít công ty chấp nhận trả mức lương thạc sĩ cho một sinh viên có bằng MBA nhưng không có kinh nghiệm làm việc. Ngược lại, sinh viên mới ra trường có chi phí cơ hội thấp hơn. Họ đã thường bị trả lương thấp khi mới ra trường, đến khi được tăng lương thì lại đi học, nên họ không muốn điều này.
Ngoài vấn đề trên, còn cả vấn đề về hiện trạng (hầu hết những người đủ điều kiện học MBA đều đã có vài năm kinh nghiệm làm việc). Trước hết là về chi phí. Ngoài học phí cho chương trình MBA (năm 2003 là 33.000 đô la/năm), chi phí cơ hội - mất khoản tiền lương trong thời gian đi học - còn lớn hơn nhiều. Do đó, một chương trình MBA có thể có giá lên tới 200.000 đô la, bao gồm cả học phí và tiền lương bị mất.
Một phương án được đưa ra là rút ngắn chương trình MBA xuống còn một năm. Một số trường đã áp dụng phương án này, tuy nhiên, ngay cả đối với chương trình hai năm cũng đã có quá nhiều tài liệu phải nghiên cứu chứ chưa nói đến một năm. Đối với các trường, cắt giảm một nửa thời gian học đồng nghĩa với việc giảm một nửa số môn học và kéo theo đó là một nửa số khoa trong trường.
Một phương án khác là cho phép sinh viên học vào ngày thứ Sáu và thứ Bảy và đi làm bình thường trong quá trình theo khóa học. Các chương trình MBA dành cho người đi làm này không chỉ phổ biến, mà các trường còn thu được một khoản tiền lớn.
Sau đây là những thành phần (hay nguyên tắc) mà chúng ta phải thỏa mãn:
(a) Bảo đảm chương trình MBA hai năm. (b) Nhận sinh viên mới ra trường. (c) Bảo đảm sinh viên có kinh nghiệm làm việc trước khi tốt nghiệp. Có cách nào nối tất cả các điểm để tìm ra phương án giảm chi phí cơ hội của việc theo học MBA hay không? Còn những khía cạnh nào mà chúng ta có thể thay đổi?
Tại sao không tiến hành một chương trình ba năm, trong đó sinh viên bắt đầu khóa học MBA ngay khi vừa tốt nghiệp; sau khi hoàn thành năm thứ nhất, họ có thể đi làm trong vòng một năm (hoặc 15 tháng) trước khi trở lại hoàn thành nốt năm thứ hai?
Năm đầu tiên, chi phí cơ hội sẽ thấp vì sinh viên mới ra trường thường được trả lương thấp. Tuy nhiên, vì vừa học xong đại học, không bị cách quãng nên sinh viên sẽ học tốt hơn. Kinh nghiệm làm việc đóng vai trò không lớn lắm trong năm thứ nhất với những môn học cơ bản như kế toán, kinh tế học, tài chính, lý thuyết trò chơi, marketing và hành vi tổ chức. Sau khi đi làm một năm, họ sẽ có kinh nghiệm thực tế cho phương pháp nghiên cứu tình huống điển hình được dạy trong năm thứ hai.
Nhiều công ty trợ giúp tiền để nhân viên đi học MBA. Chương trình này giúp giảm một nửa chi phí của công ty (công ty chỉ phải trả một năm học phí) và giúp họ không bị mất nhân viên sau một năm học.
Một vấn đề đối với phương pháp này là nó phá vỡ tính thống nhất. Sinh viên bảo lưu một năm và khi quay lại họ sẽ tốt nghiệp với lớp sau. Mối lo ngại này là có cơ sở, tuy nhiên, vấn đề này cũng có trong các chương trình hỗn hợp: Ví dụ như chương trình MBA kết hợp với một khóa học có cấp bằng về luật, khoa học môi trường hay y tế cộng đồng.
Đây là một ý tưởng và chúng ta hãy chờ xem nó có tác dụng không. Các đồng nghiệp của Barry ở Yale, với sự ủng hộ của ngài trưởng khoa, đã xây dựng một chương trình MBA thử nghiệm ba năm. Những sinh viên đầu tiên đăng ký vào năm 2002 và các dấu hiệu ban đầu rất tích cực. Các sinh viên đăng ký theo học có nhiều kinh nghiệm làm việc hơn chúng ta tưởng. Một số người đã khởi nghiệp kinh doanh, một số khác từng có tác phẩm trưng bày tại các bảo tàng lớn. Điểm trung bình và điểm GMAT của họ nằm trong top dẫn đầu của lớp. Tám sinh viên đầu tiên đăng ký chương trình học này đều được nhận.
Tập hợp lại tất cả các hạn chế, bạn sẽ thấy còn rất ít chỗ để thay đổi. Nếu không còn lựa chọn nào khác thì quả là một vấn đề. Đó là lúc quay lại và xem xét cẩn thận từng nguyên tắc. Tuy nhiên, khả năng này không lớn bằng số cơ hội thay đổi mà bạn có.
NIỀM TIN
Tìm giải pháp khi biết rằng giải pháp đã có sẵn thường dễ dàng hơn nhiều. Tuy nhiên, nói như vậy hơi ngược đời. Không giống như trong cuốn sách toán, nơi bạn chỉ cần tìm câu trả lời cho vấn đề đã có người giải quyết, trong thực tế, không có ai để nói cho bạn biết trước câu trả lời đã có hay chưa. Nếu bạn không biết gì về giải pháp thì làm sao bạn biết giải pháp đã tồn tại?
Bạn không biết. Nhưng bạn nên tự lừa mình một chút, giống như Paul Zeits viết trong The Art and Craft of Problem Solving (Nghệ thuật mưu mẹo giải quyết vấn đề): “Phần lớn các nhà toán học là những người theo thuyết Platon, họ tin rằng mọi thứ đều có sẵn, công việc của con người là “khám phá” hơn là sáng tạo ra chúng. Với những người theo thuyết Platon, giải quyết vấn đề là nghệ thuật nhìn ra giải pháp đã có từ trước”.12
12 The Art and Craft of Problem Solving của Paul Zeitz (New York: John Wiley, 1999).
Đây là một định lý mong manh. Chúng tôi không muốn các bạn phí thời gian tìm một giải pháp không tồn tại. Tuy nhiên, nếu chúng tôi có thể giúp các bạn tin rằng một giải pháp thực sự tồn tại thì khả năng bạn tìm ra nó sẽ cao hơn. Bạn sẽ không đầu hàng. Bạn sẽ thử nhiều phương án hơn.
Đó là một trong những lý do chúng tôi áp dụng phương pháp WWCD. Đối với vị vua Croesus tưởng tượng của chúng ta, gần như mọi vấn đề đều giải quyết được. Do đó, chúng ta bắt đầu với một giải pháp và tìm cách hoàn thiện nó. Tưởng tượng mình là vua Croesus đem lại cho ta niềm tin rằng có một giải pháp. Nếu không có giải pháp nào cho Croesus thì có lẽ chúng ta nên đầu hàng.
Chúng tôi muốn các bạn nhìn nhận với con mắt hơi “hoài nghi” một chút. Dưới đây là bài toán “ba đường kẻ” của Denise Hunter để minh họa cho giá trị của lòng tin.
Bạn có thể nối các hộp A, B, C với các hộp tương ứng mà cùng nằm trong chiếc hộp lớn và không để đường kẻ nào cắt nhau hay không?

Hãy lấy một mẩu giấy và thử vẽ. Đây không phải một câu đố mẹo. Bạn có thể hoặc không thể vẽ được chứ không có gì là lừa đảo trong câu đố này.
Như mọi người khác, bạn sẽ thấy ngay là không thể nối 2 hộp B bằng một đường thẳng vì như thế sẽ không thể nối được A với A, C với C.
Vậy hãy bắt đầu bằng việc nối 2 hộp A. Cũng giống như với B, nếu nối thẳng hai hộp A thì bạn không thể nối được C với C. Xin chúc mừng, bạn đã chứng minh được rằng không thể giải được câu đố này.
Đó là kết luận của chúng tôi khi thử giải câu đố này lần đầu.
Nhưng nếu chúng tôi nói rằng thực sự có câu trả lời (và hứa là không có đố mẹo) thì sao? Bạn sẽ làm gì? Chúng tôi đánh cược rằng bạn có thể tìm ra câu trả lời mà không khó khăn gì. Biết rằng có giải pháp giúp chúng ta dũng cảm hơn. Nếu bạn cần gợi ý thì nên bắt đầu bằng việc nối hai hộp A.
Chúng tôi phát hiện ra rằng mọi người thường tìm lý do để đầu hàng. Họ nghĩ là đã tìm ra câu trả lời khi cho rằng không thể làm gì với vấn đề này.
Không có một quy tắc nào về việc bạn nên dành bao nhiêu công sức để giải quyết một vấn đề. Đến một thời điểm nào đó thì đầu hàng là việc nên làm. Tuy nhiên, trước khi đầu hàng, bạn nên xem xét vấn đề như là đã có sẵn giải pháp rồi và việc của bạn chỉ là tìm ra nó. Đó là một lý do nữa để trở thành một người duy ý chí.
Một lần nữa phương pháp suy nghĩ theo nguyên tắc có thể giúp bạn. Tìm ra một phần câu trả lời sẽ làm tăng niềm tin và đôi khi những nguyên tắc mà bạn tìm ra cũng giúp bạn hiểu rằng nên dừng lại vì bản thân chúng đã không tương thích lẫn nhau.
Phương pháp giải quyết vấn đề theo nguyên tắc giúp giải câu đố trên như thế nào:
(a) Không thể có một đường thẳng nối B với B.
Nguyên tắc phủ định có thể rất hữu ích trong việc tập trung chú ý vào một khía cạnh nhỏ của giải pháp. Tuy nhiên, hãy xem hộp A trước.
Có bao nhiêu cách để nối hai hộp A với nhau? Có vô số cách nếu chúng ta chấp nhận bất kỳ kiểu đường cong nào, tuy nhiên, nhìn chung có 2 cách để nối 2 hộp A với nhau - hoặc một đường trực tiếp nằm dưới hộp C ở trên, hoặc một đường vòng cung nằm phía trên hộp C ở trên.
Như vậy, nguyên tắc tiếp theo là:
(b) Đường A là một đường trực tiếp hoặc đường vòng.
Hình vẽ mang tính đối xứng nên chúng ta có thể mở rộng nguyên tắc này như sau:
(c) Đường C là một đường trực tiếp hoặc đường vòng.
Bạn có thể kết hợp 2 nguyên tắc (b) và (c) không? Hãy tưởng tượng rằng bạn đã vẽ một đường trực tiếp nối A với A. Hãy nghĩ xem bạn sẽ vẽ đường C như thế nào?
Thử nghiệm này dẫn tới nguyên tắc tiếp theo.
(d) Nếu đường A là trực tiếp thì đường C là đường vòng (và ngược lại, nếu đường C là trực tiếp thì đường A là đường vòng).
Chúng ta đã gần giải quyết được câu đố. Chúng ta biết rằng giữa các hộp A với các hộp C phải có một đường nối là trực tiếp và đường còn lại là đường vòng. Vậy tại sao bạn chưa vẽ vào? (Do bài toán mang tính đối xứng, bạn chọn đường A hay C làm đường trực tiếp không quan trọng, nhưng để thống nhất, chúng ta sẽ chọn đường A.)
Bây giờ bạn hãy đặt bút ở hộp B nằm dưới đáy và tự vẽ đường đến hộp B nằm trên đỉnh sao cho không cần nhấc bút lên và không cắt bất kỳ đường nào trong 2 đường A và C. Hóa ra giải quyết vấn đề theo nguyên tắc đã tạo ra một lộ trình giúp bạn giải quyết vấn đề.
Một mặt, đây là một ví dụ về việc suy nghĩ trong chiếc hộp theo đúng nghĩa đen, nhưng ngay cả ở đây mọi người cũng thường áp đặt các hạn chế không thuộc bản chất lên sự việc. Bài toán sẽ dễ hơn nếu ta nối điểm A hay C trước, nhưng hầu hết mọi người đều nối các đường theo thứ tự chữ cái - điều này thực sự là một hạn chế sai lầm cần phải phá vỡ.
