Hôm đó là Chủ nhật. Nghĩ đến việc được thoải mái hẹn Bal đi uống cà phê hay một thứ gì đấy rồi xem anh ngượng ngùng và ngốc nghếch đến thế nào khi gặp mặt, Hannah gọi cho Karen Malahyde và hỏi xem cô ta có rảnh không.
Họ gặp nhau ở quán cà phê Parasol mới được khai trương cạnh khách sạn Olive và Dove trên bờ tây Kingsbrook. Bàn và ghế gỗ được bày biện bên dưới những chiếc ô kẻ sọc đỏ vàng. Chúng được bật hết lên vào sáng nay như mọi buổi sáng trong hàng tháng trời qua, khác xa với phong cách mặt trời của miền Nam nước Pháp.
“Tuyệt thật”, Karen nói. “Costa del Kingsmarkham. Có phiền không nếu tôi làm một điếu?”
“Thoải mái đi. Cố mà tận hưởng. Tôi chắc chắn rằng người ta sẽ sớm cấm hút thuốc ở nơi công cộng thôi.”
Họ gọi cà phê latte và bởi vì đã gần trưa, lại là Chủ nhật, họ gọi thêm rượu vang. Chiếc bàn ăn dần dần được lấp đầy bởi hầu hết các cặp đôi, vì Parasol Café có phục vụ ăn trưa với rượu.
“Chủ nhật thật là chán nếu cô vẫn độc thân, đúng không?” Karen đang diễn tả đúng suy nghĩ vô cùng khó chịu của Hannah lúc này. “Tôi không biết tại sao các ngày Chủ nhật nên khác với thứ Bảy. Hầu hết các cửa hàng đều mở cửa. Không còn ai đến nhà thờ nữa. Rạp chiếu phim thì chiếu đi chiếu lại những bộ phim đã chiếu cả tuần rồi. Chúng không nên khác với những ngày thứ Bảy nhưng cuối cùng vẫn cứ khác.”
“Chuẩn, cô nói đúng.” Hannah không muốn đồng ý với cô ta. Cô muốn mình có thể nói rằng điều này không đúng với cô, cô đã có bạn trai. Chỉ mình cô ta mới không có. Và nếu cô đã có Bal trong tâm trí mình, thì cô ta sẽ chẳng bao giờ có. “Nhưng... nếu, ví dụ như, chúng ta đã kết hôn thì chắc hẳn chúng ta được mong đợi sẽ ở nhà giờ này, nướng thịt bò cho chồng mình. Ồ, đừng nhìn tôi như thế. Chúng ta sẽ không thế đâu, cả cô và tôi, song chúng ta có thể phải nhượng bộ mà ngồi xem một trận bóng bầu dục cả chiều và nhâm nhi ly trà cùng mẹ già của chàng. Nhưng hiện tại, chúng ta vẫn đang tự do và”, cô ngừng lại, chuyển sự chú ý sang hai người phụ nữ vừa tới ngồi ở một bàn gần bờ sông.
“Chuyện gì vậy?”
“Tôi không biết. Tôi nghĩ mắt mình đang phản chủ. Cô có nhìn thấy hai người phụ nữ ở cái bàn bên dưới cái cây kia không, cây sồi màu đồng ý? Người mặc váy màu hồng và đeo chuỗi hạt là Gwenda Brooks ở dãy nhà Jewel và người còn lại là bạn gái của chồng cô ta.” “Cô đùa đấy à.”
“Tôi biết, nhưng tôi không đùa đâu. Đó là Gwenda Brooks và Paula Vincent. Khi tôi hỏi chuyện John Brooks, anh ta nói rằng mình có mối quan hệ ngoài luồng với người phụ nữ đó và cho tôi địa chỉ ở Pomfret để xác minh xem anh ta có ở qua đêm với cô ta hay không.”
“Và giờ cô ta sắp ngồi ăn trưa với vợ anh ta. Cô có biết điều này nghĩa là gì không?”
“Tôi không biết, Karen, nhưng tôi sẽ tìm ra. Không, chờ đã...” Hannah níu tay cô bạn lại. “Đó là anh ta. Gã chồng!”
John Brooks đang tiến đến cái bàn bên dưới chỗ cây sồi màu đồng. Thay vì hôn hít, anh ta vỗ nhẹ vào vai hai người phụ nữ rồi ngồi xuống.
“Tìm chỗ nào đó để đậu xe”, Hannah thì thầm. Cô đứng dậy và đi về phía bàn của Brooks, Karen theo sau. Sau đó, cô nghĩ làm thế nào để quen với việc giữ được “cái đầu lạnh” trước những con người này, chắc hẳn có vài chuyện mờ ám ở đây. Có thể Brooks đã gợi ý một vài chuyện kiểu tình tay ba và Gwenda có thể đã đồng ý để duy trì dáng vẻ đáng kính mà cô ta thích thú. Nhưng phản ứng của họ khi nhìn thấy cô rất khác nhau, cụ thể là phản ứng của vợ chồng nhà Brooks và Paula Vincent. Mặt anh ta trắng bệch còn mặt Paula thì đỏ lừ. Anh ta đứng dậy đột ngột đến nỗi hất đổ cái cốc thủy tinh, nó rơi xuống và lăn lông lốc qua bãi cỏ. Gwenda rõ ràng không biết chuyện gì đang xảy ra. Cô ta chỉ nhìn chằm chằm.
“Có lẽ anh nên có một lời giải thích, anh Brooks”, Hannah nói và bất chợt nhận ra. Cô không cần lời giải thích nào cả. Nhìn John Brooks và Paula Vincent cùng với nhau, cô thấy được sự giống nhau đã hiện ra rõ rệt như thế nào. Giống như hai anh em sinh đôi vậy. Mà cũng có thể là thế thật. “Cô Vincent là chị em của anh, đúng không?”
Gwenda trả lời câu hỏi của cô. “Dĩ nhiên rồi. Tại sao lại không chứ? Cô muốn gì đây?”
“Hiện tại, cô Brooks ạ, tôi không muốn nghe gì từ cô cả”, Hannah quay về phía Paula Vincent đã bớt kích động và trông có vẻ thách thức. “Cô có muốn giải thích gì không, cô Vincent?”
“Không có gì để nói cả. Tôi làm điều mà John muốn, thế thôi.”
“Tôi không nghĩ thế. Cô đã nói dối cảnh sát.”
“Tất cả chuyện này là gì đây?”, Gwenda Brooks gào lên. “Chuyện gì đang xảy ra thế này? Tôi muốn biết. Tôi có quyền được biết chứ.”
Phớt lờ cô ta, Hannah nói, “Nói dối cảnh sát đủ để cấu thành tội, cô Vincent. Và anh cũng vậy, thưa anh Brooks. Tôi không thể nói trước bất kỳ điều gì. Tuy nhiên, hiện tại thì...”.
Karen xen vào giữa lời Hannah bằng một cái gật đầu. “Cả hai bị buộc tội vì đã làm lãng phí thời gian của cảnh sát.”
Trở lại căn hộ của mình, Hannah dọn món cá hồi hun khói và salad lên chiếc bàn trên ban công nhỏ, Karen lạnh nhạt chỉ ra rằng Brooks rõ ràng không được có hành vi loạn luân ở Pomfret, hẳn anh ta đã vi phạm một số hoạt động bất chính khác nếu không muốn nói là bất hợp pháp.
“Đúng, nhưng sao?”, Hannah rót nước cam vào hai cốc đầy đá.
“Hiện tại, bỏ qua những suy nghĩ về vấn đề trên, tôi không thể hiểu tại sao anh ta không tới nhà người phụ nữ nào đó mà có thể cho cô biết tên của cô ta thay vì Paula Vincent. Sau cùng thì, cho đến khi cô phát hiện ra cô em gái đi cùng với Gwenda, cô đã tin rằng anh ta phạm tội ngoại tình. Vậy dù có là ai thì khác biệt gì chứ?”
“Có sự khác biệt đấy”, Hannah nói. “Lại đây ăn nào. Dĩ nhiên việc này tạo nên sự khác biệt. Thứ nhất, người phụ nữ thực sự kia sẽ không sẵn sàng kể cho chúng ta rằng anh ta ở cùng mình. Cô ta có thể sống cùng chồng hay bạn trai. Tôi nhận ra rằng dường như không có khả năng Brooks tới chỗ cô ta hằng đêm nhưng điều đó là có thể nếu, chẳng hạn như, chồng hoặc bạn trai cô ta làm ca đêm. Theo đó, cô phải nhớ rằng nếu tên của cô em gái anh ta có đến tai người vợ thì người vợ chắc chắn sẽ nghĩ đó chỉ là trò đùa thôi. Tuy nhiên chuyện sẽ khác đi nếu tên của người phụ nữ thực sự kia đến tai cô vợ.”
Karen bật cười. “Anh ta đã liều lĩnh khi đi ăn trưa với cả vợ và em gái mình.”
“Ồ, tôi không rõ. Thiên hạ không tin là chúng ta có đời sống riêng tư. Khi chúng ta không phải làm việc hay không mặc cảnh phục, như hiện giờ chẳng hạn, họ nghĩ chúng ta sẽ chui vào trong một cái hộp kín, đậy nắp lại cho đến ca làm việc tiếp theo.”
“Thế những bộ phim sitcom dài tập về cảnh sát trên truyền hình thì sao?”
“Họ biết đó chỉ là dàn dựng”, Hannah nói, “và họ nghĩ là mình đúng”.
Sau khi Karen đi rồi, Hannah tìm thấy chiếc kính râm, hiệu Armani khá chất, đang đặt trên tay ghế sofa, và một tiếng sau khi điện thoại đổ chuông, cô đã chắc chắn về người đang gọi đến khi nhấc ống nghe lên và nói, “Xin chào Karen. Nó ở đây”.
Giọng của Bal nói, “Ai ở đó cơ? Em đang tổ chức tiệc à?”. Bị đỏ mặt khi đang ở một mình ngớ ngẩn ngang với việc bị đỏ mặt tới hai lần khi có sự hiện diện của người khác. Đây là điều đang xảy ra với Hannah khi cô phải vật lộn để thốt nên lời, má nóng bừng và ánh mặt trời thì đang rót xuống nơi cửa ban công để mở. “Em nghĩ anh là cái kính râm. À ý em là em nghĩ anh để quên kính râm.”
“Anh có bao giờ đeo thứ đó đâu. Nếu không bận tiệc tùng, em có muốn ra ngoài đi uống thứ gì đó với anh không?”
Cô kinh ngạc. Sau lần hẹn hò trước, anh muốn gì ở cô?
Cô không thể hỏi anh điều đó. “Được thôi”, cô nói.
“Anh thấy lời mời của mình nhận được sự phản ứng nhiệt tình quá. Nhưng không sao. Khoảng một tiếng nữa anh qua được không?”
Buổi hẹn hôm thứ Sáu như chưa từng diễn ra. Anh rất tốt, ấm áp và nói rất nhiều chuyện. Ngoại trừ sự thật rằng anh rõ ràng không phải người đồng tính, anh cư xử theo cái cách đám bạn đồng tính vẫn làm khi đi chơi cùng cô. Cô có thể thoải mái thư giãn cùng họ, tự do và dễ dãi, bởi vì cô biết họ sẽ chẳng bao giờ tán tỉnh gạ gẫm cô. Nhưng, cô đang nghĩ cái quái gì thế nhỉ? Được Bal tán tỉnh, gạ gẫm trong một đêm nào đó chính là điều cô hằng mong muốn nhất...
Cô không ăn vận như lần trước. Cô thay chiếc quần trắng bằng chiếc màu đen chỉ bởi vì vào một ngày nóng bức như thế này, chiếc quần trắng trông sẽ chẳng còn sạch sẽ sau vài giờ. Họ ngồi trong vườn quán Olive và Dove, sau khi đã nói về đủ thứ trên đời dưới ánh nắng mặt trời ngoại trừ công việc của họ cũng như cuộc sống cá nhân của anh, cô bắt đầu nghĩ anh không phải đồng tính, chắc chắn không phải. Ánh mắt tán thưởng anh dành cho cô khi hai người nhìn nhau đã xác nhận điều đó. Trong lúc kích động, cô đã hỏi, “Bal, anh có bạn gái rồi phải không? Đó có phải là vấn đề?”.
Anh bật cười. “Cái gì là vấn đề cơ?”
Vốn rất cởi mở, cô không thể diễn tả nên lời và bỗng lại trở nên yếu đuối, “Ồ, anh biết mà. Anh biết ý em là gì mà”.
Nụ cười của anh là nụ cười của một người đàn ông đang muốn bỏ qua cho ai đó hoặc không trêu chọc người ta nữa. “Ừ, anh ước gì mình có. Nhưng anh không có bạn gái. Nếu có thể, thì anh hy vọng là - không, anh sẽ không nói điều đó. Vẫn chưa phải lúc.”
Cô đặt tay mình lên tay anh và anh để nguyên nó đó. Một bàn tay đẹp, cô tự khen mình, dài, mịn màng và thanh mảnh, móng tay dài nhưng không được đánh bóng. Cô ghét sơn móng tay và qua cái cách anh nhìn bàn tay cô, anh cũng không thích thế.
“Nếu ý anh là”, cô nói, “em nghĩ ý anh là - không, em không thể hỏi được. Em không đến mức phóng túng như em nghĩ.”
“Hannah.” Anh nghiêng người về phía cô, ngang qua mặt bàn và nói, “Đi nào, đi dạo chút đi em. Tối nay rất đẹp. Anh không thể nói điều mà mình phải nói khi có tất cả những người này xung quanh”.
Cô định sẽ bước bên cạnh anh nhưng không chạm vào anh. Khi họ đi xuống những bậc thang đá dẫn đến lối mòn ngang qua trảng cỏ, anh cầm tay cô và khoác vào tay mình. Bầu không khí hiện giờ khá mát mẻ và tĩnh mịch, và từ phía chân trời tối tăm, trăng rằm tháng Tám đang nhú dần lên cao.
“Nếu anh biết rõ Kingsmarkham của anh như anh nghĩ, anh có thể cùng em dạo bước dọc theo những bãi cỏ này và tạt vào một quán nhỏ trên đường đến Kingsbrook.
Trong lúc đó, anh sẽ cố gắng giải thích.”
Trong một quán nhỏ ở Kingsbrook từng được gọi là Anchor nhưng giờ đã đổi tên thành Gooseberry Bush, Wexford và Burden cùng vợ của hai người đang uống ly cuối cùng. Không một người đàn ông nào dám chia bữa tiệc ra thành hai nhóm nhỏ, nhóm những người đàn ông nói về việc đi mua sắm và nhóm những người phụ nữ nói về những vấn đề quốc gia đại sự, nhưng Jenny đã tự chia bữa tiệc thành như thế, cô chỉ muốn tai của Dora nghe những lời chỉ trích của cô ấy về nỗi khủng khiếp khi chỉnh đốn đám thanh thiếu niên thế kỷ XXI cho hợp với tấm bằng A level của chúng. Cuộc hội thoại vang đến tai Wexford, các cụm từ như “chương trình quốc gia”, “những gia đình bất thường” và “trách nhiệm của cha mẹ”, nhưng khi thử bình luận, anh liền bị Dora thô bạo gạt đi để rồi lại phải thử thêm lần nữa.
“Tại sao lại là Gooseberry Bush?”, anh nói, chuyển chủ đề.
Người phục vụ quầy bar không biết.
“Tôi nghĩ là họ chỉ thích cách phát âm cái tên đó”, Burden nói. “Mặc dù giờ này chẳng có ai ăn quả lý gai1 nữa.”
1 Nguyên văn: Gooseberries, số nhiều của gooseberry (quả lý gai). Ở đây, Burden sử dụng biện pháp chơi chữ giữa tên của Gooseberry Bush và tên loại quả.
“Tôi đã làm mứt lý gai hai năm trước”, Jenny nói, “nhưng không ai muốn ăn nó cả”.
Wexford bật cười. “Anh sẽ tìm thấy những đứa trẻ bên dưới bụi lý gai. Đó là những gì bà nội kể cho tôi. Đó đã là phiên bản lỗi thời về thực tế cuộc sống ngay từ thời đó. Khi bà còn nhỏ, bà đã nghe kể rằng trẻ con được những con cò mang đến. Đó là sự giải thích hợp lý nhất, nhưng lại rất kỳ lạ vì anh xem, chẳng bao giờ có cò ở Anh cả.”
Dora ngước mắt lên, anh không biết tại sao. Việc phá đám cuộc trò chuyện với sự khó chịu của cô đã làm Burden phải nhanh chóng lái sang chuyện mình hoàn toàn chắc chắn rằng buôn lậu ma túy là nguyên nhân sâu xa dẫn đến cái chết của hai cô gái. Giá mà họ có thể tìm được một nhân chứng, giá có chút manh mối nào đó. Nhưng Burden sẽ tìm ra nó, anh ta sẽ không bao giờ bỏ cuộc.
“Giống con Buster hả?”
“Nếu anh thích gọi thế”, Burden nói khá cứng nhắc. “Tôi thì nghĩ đó là thứ gì khác. Nhưng tôi không biết đấy là thứ gì. Vấn đề là phải tìm hiểu xem cái gì có thể đem lại cho họ khoản tiền kia mà tôi thì lại không biết.” Anh nhìn Dora di chuyển ghế và ngồi quay lưng lại với anh. Đợi xem Burden có tranh cãi gì hay không nhưng anh nhận ra anh ta không định làm thế và rồi anh nói, “Trong đầu tôi hiện đang nghĩ đến hai thứ mà dường như nhìn qua thì thấy không quan trọng lắm nhưng tôi cảm thấy chúng có gì đó… rất quan trọng”.
“Ồ thế à?” Burden đang hơi nhức nhối vì bị so sánh với Drusus, giống chó ngửi mùi ma túy. “Giống như cái gì?”
“Tôi vô cùng muốn biết trang web mà Amber đã cố gắng truy cập nhưng không thành không và cô ta muốn truy cập đến nỗi phải nhờ John Brooks giúp đỡ.”
“Có lẽ một số công ty sản xuất đĩa CD nhạc pop rẻ tiền hoặc vài thứ khác mà các cô nhóc tuổi teen ưa thích. Anh biết đấy, anh cũng có hai cô con gái mà. Kem trang điểm hoặc đồ tẩy lông chân.”
“Tôi hy vọng anh đúng. Tôi chắc chắn anh sẽ bỏ qua những thứ khác với tính năng tương tự.”
“Nói thử xem.”
Wexford nghĩ, Dora đã nói rằng khi biết đến sự tồn tại của đứa bé, thái độ của Sylvia sẽ phá hủy gia đình chúng ta. Chuyện đó có phá hủy cuộc hôn nhân của chúng ta hay không? Anh nói lớn tiếng, “Giữa tháng Sáu, nhà Hilland đã đề nghị Amber tới ở căn hộ của họ vào tháng Mười một. Điều họ chưa từng nói cho chúng ta biết và chúng ta cũng không hỏi chính là việc thuê nhà. Tiền thuê được miễn phí đúng không?”.
“Chắc chắn rồi.”
“Anh thực sự nghĩ thế à? Tôi thì không dám chắc. Crenthorne Heath không phải là một vùng ngoại ô quá sang trọng nhưng nó gần Luân Đôn hơn so với Croydon và nằm trên tuyến đường tàu điện ngầm. Nếu cho thuê căn hộ, họ có thể thu về hai hoặc ba trăm bảng mỗi tuần với mức giá hiện thời. Liệu họ có hào phóng đến nỗi sẵn sàng bỏ qua chừng đó tiền trong có lẽ hàng năm trời hay không?”
“Anh đang nói rằng”, Burden nói chậm rãi, “họ đề nghị Amber ở căn hộ đó nhưng có thể là với mức tiền thuê thấp hơn. Dĩ nhiên cô ta đồng ý nhưng cô ta biết mình phải bắt đầu kiếm tiền. Người cha già Marshalson sẽ không trả khoản đó”.
“Không. Ông ta không muốn mất con gái, thậm chí nếu điều đó đồng nghĩa với việc phải nuôi cả Brand.” Wexford chợt nhìn thấy trung sĩ cùng một trong những sĩ quan cảnh sát của anh bước vào quán bar cùng nhau. Chà, đúng như anh đã nghĩ... “Ngày mai, chúng ta sẽ tìm ra điều đó”, anh nói.
Người khổng lồ mặc chiếc áo phông có chữ “Riverbank” lại một lần nữa có phiên trực ở cổng nhà Hilland nhưng sáng nay anh ta niềm nở hơn. Anh ta để xe của họ vào với một nụ cười và câu “Chào buổi sáng” đầy phấn khởi. Wexford rất ngạc nhiên khi thấy tấm bảng Surrage-Samphire vẫn còn dựng trong vườn trước nhà Hilland. Công trình dường như đã hoàn tất và nhìn rất kiểu cách, thậm chí có phần hơi quá. Sảnh của căn nhà hơi nhỏ quá và trần thì hơi thấp để có thể mang vác những tấm ván lót cỡ lớn, những tấm khiên chạm khắc hoa mỹ cùng những bông hồng Tudotrauau trau chuốt. Nhưng Surrage-Samphire hoàn toàn hiểu rõ công việc của họ.
Vivien Hilland dường như khá ngạc nhiên trước lời khen ngợi của anh về tay nghề của thợ như thể bà ta mong đợi những tay cảnh sát hạn chế bình luận các vấn đề pháp y. Sáng nay, cả Cosima và Daniel đều không có nhà. Nhờ sự vắng mặt của hai đứa con, bà Hilland dường như bình tĩnh và ít kích động hơn. Nhưng khi Wexford nói với bà ta rằng bạn bè của Daniel đã cung cấp những bằng chứng ngoại phạm thỏa đáng vào đêm mùng Mười tháng Tám, thay vì thở phào nhẹ nhõm thì bà ta lại phẫn nộ, “Chà, dĩ nhiên rồi. Mọi người còn mong chờ điều gì nữa?”.
Anh hỏi bà ta về tiền thuê căn hộ Crenthorne Heath. “Chúng tôi cho con bé thuê với giá rẻ như cho.” Bà ta có vẻ phòng thủ và anh đã hiểu được tại sao lại như thế khi hỏi bà ta chi tiết hơn, bà ta nói, “Chà, thực tế là một trăm một tuần”. “Cô ta kiếm đâu ra một trăm một tuần cho bà, bà Hilland?” Không nghi ngờ gì, bà ta chẳng thèm bận tâm đến giọng điệu của Burden. Sự phòng thủ của bà ta thậm chí còn tăng lên khi bà ta nói, “Đó không phải mối quan tâm của chúng tôi. Nó thực sự chỉ bằng một phần ba số tiền con bé sẽ phải trả cho căn hộ nếu thuê của người khác. Thực tế là cha con bé đã gọi cho tôi và nói rằng trả tiền thuê căn hộ đồng nghĩa với việc con bé sẽ không thể chiếm được căn hộ nhưng rắc rối chưa ngừng ở đó, còn cả việc ông ta sẽ nói bất kỳ điều gì để ngăn không cho con bé đi, ông ta đã quá hồ đồ vì con bé. Còn với Diana, chị ta có rất nhiều tiền và tôi nghĩ chị ta sẽ trả tiền thuê căn hộ chỉ nhằm tống khứ con bé đi. Để tôi cho các anh biết vài chuyện. Tôi nghĩ đám con gái giống con bé cần được dạy dỗ về trách nhiệm và giá trị của đồng tiền, đó chính xác là những gì mà đề nghị của chúng tôi sẽ làm được”.
Dường như không có gì để nói thêm nữa. Khi cả hai chuẩn bị ra về, chuông cửa trước reo lên. “Chắc là đám thợ quay lại lấy đồ nghề”, bà Hilland nói.
Tiếng bước chân của ai đó vang vọng trong sảnh là câu trả lời cho tiếng chuông cửa và khi Wexford cùng Burden ra khỏi phòng, họ thấy Cosima đang ở đó với một người đàn ông có làn da khá hồng hào khoảng ba mươi tuổi. Wexford, người hy vọng được gặp gã đàn ông tên Ross đã ở đây lần trước, tự giới thiệu bản thân và hỏi anh ta là ai.
“Tôi là Colin Fry”, tay vận động viên bóng bầu dục nói, ánh mắt anh ta dõi theo cặp chân dài của Cosima đang bước lên tầng.
“Anh làm việc cho Surrage-Samphire à?” “Một trong những người ở đó”, Fry nói. “Còn ai khác nữa không?”
“Có tôi, Rick và ông Samphire. Chuyện của Megan, các ông đến vì chuyện đó, đúng không? Nếu ông muốn biết về chỗ đấy, công việc và toàn bộ, thì hãy gặp ông Samphire. Ross Samphire. Ông ta biết mọi chuyện về chỗ đó.”