Không nghi ngờ gì nữa, cô gái đã chết này chính là Megan Bartlow. Bên trong chiếc túi xách khoác trên thi thể Megan có chứa thẻ tín dụng nhưng không có gì giống như khoản tiền được tìm thấy trên người Amber và không có chất cấm nào. Trừ khi kẻ giết người đã lục túi, còn không Wexford chắc chắn rằng một số phụ nữ mang túi xách đơn giản chỉ như một phụ kiện làm đẹp và có lẽ chẳng để gì trong đó. Trong ví của Megan có một tờ mười bảng cùng một tờ bướm quảng cáo, vài đồng bảng và một đồng năm mươi xu, không có đồ trang điểm, không khăn giấy, không điện thoại di động, không thuốc lá, không gì cả trừ một cặp kính râm bị mất một bên mắt.
Wexford và Burden ngồi trong văn phòng của Wexford, để cả đội ở lại tiếp tục điều tra từng nhà trong dãy Victoria - đường Oval và tìm kiếm chủ nhân của ngôi nhà trong dãy đó.
“Phải có ma túy chứ nhỉ”, Burden nói. “Không thì Amber Marshalson lấy đâu ra số tiền đó? Megan và Prinsip lấy đâu ra chừng đó trang thiết bị nếu không mua bán hoặc vận chuyển?”
“Chúng ta không có bằng chứng cho thấy Megan sử dụng, buôn bán hay vận chuyển ma túy”, Wexford nói. “Tất cả những gì chúng ta có để kết nối hai cô gái với nhau là thực tế họ đã gặp nhau, gọi điện cho nhau và đến Đức cùng nhau. Và khi nghĩ đến điều này thì tôi thấy thật kỳ quặc. Vấn đề giai cấp đã thay đổi rất nhiều từ khi tôi còn trẻ nhưng có vài thứ thuộc về bản chất con người không bao giờ thay đổi. Amber được sinh ra trong một gia đình khá giả nếu không muốn nói là giàu có. Cô ta không học trường tư, đúng vậy, nhưng lại học ở một trường công rất có uy tín và sau đó là một cao đẳng đầy danh tiếng. Cô ta đã quay lại trường học sau khi sinh con để hoàn thành khóa A level. Cô ta dự định sẽ vào đại học. Bạn trai cô ta, cũng là cha của con cô ta, có lai lịch tương tự. Cha cậu ta là một cựu nghị sĩ và cậu ta đang học Đại học Edinburgh.”
“Nhưng xem lại cô gái nghèo Megan. Lớn lên trong những khu ổ chuột khác nhau cùng với một người mẹ thường được gọi là bà mẹ đơn thân bất chấp những người cha dượng bà ta đã tìm cho cô gái. Chẳng nghi ngờ gì chuyện cô gái sẽ bỏ học ở tuổi mười sáu. Nhân viên bán hàng. Sống cùng với Keith Prinsip, một trong những kẻ vô công rồi nghề, nếu như không có mấy thay đổi ở đất nước này, sẽ đếch thèm quan tâm đến chuyện đi làm. Điều gì đã khiến hai cô gái đi cùng nhau nếu không phải là quan hệ đối tác làm ăn, nói theo một cách hoành tráng?”
“Ma túy, như tôi nói đấy”, Burden nói. “Và trả lời cho câu hỏi điều gì đã đem họ đến với nhau, thì đó chính là Lara, em gái của Megan. Cô ta vốn là bạn của Amber.”
“Đúng, nhưng dù được sinh ra trong cùng một gia đình, Lara vẫn cực kỳ khác biệt. Một cô ngốc, có thể lắm chứ. Cô ta học khác trường với chị mình, là trường của Amber, hay bất luận thế nào, cô ta cũng ở lại lâu hơn. Cô ta muốn thành công trong cuộc sống. Hãy nhìn cái cách cô ta ăn mặc hay lên giọng khi nói. Khi cô ta giới thiệu Amber với chị gái mình, tôi không nghĩ mục đích của cô ta là giúp họ trở thành bạn bè. Tôi nghĩ rằng bởi vì họ đã cùng đi chơi rồi bất ngờ gặp chị cô ta và không thể tránh khỏi phải giới thiệu hai người với nhau.”
“Nhưng đó không phải lần duy nhất, đúng không? Họ hẳn đã liên lạc với nhau mà Lara không biết. Một trong hai người, có thể là Megan, đã nhận ra điều gì đó ở Amber, điều gì đấy trong diện mạo hoặc lời nói, có thể là từ ngữ mà Amber sử dụng, khiến cô ta nhận ra rằng Amber rất phù hợp để trở thành, chà, một đối tác làm ăn.”
“Tôi có thể hiểu được tất cả những điều đó. Hầu hết những gì anh nói đều hoàn toàn chính xác. Nhưng cô ta đã nhìn thấy ma túy ở đó à? Thứ đã đánh bại thói quen nỗ lực kiên định và làm bột phát những nỗ lực thất thường. Nó phá hủy sức mạnh tự nhiên của cuộc sống nhưng lại phát triển sự bột phát siêu nhiên của sức mạnh thất thường?”
“Gì cơ?”
“De Quincey. Tôi đã đọc quyển Lời thú tội của một kẻ nghiện ma túy người Anh của ông ta.” Vụt đứng dậy, Wexford suýt phá lên cười vì vẻ mặt ngơ ngác và có chút kinh ngạc của bạn mình. Muốn làm anh ta thất kinh hơn nữa, anh nói,
“Không phải để phục vụ công việc. Giải trí chút thôi”.
“Ồ.” Trên gương mặt lịch thiệp của Burden hiện lên vẻ không tài nào hiểu nổi, khiến Wexford mỉm cười.
“Dù sao, nếu họ đang buôn lậu thì đấy không phải là thuốc phiện. Và những kẻ buôn bán thường không sử dụng nó. Nhưng tôi không nghĩ ma túy là thứ họ đang hợp tác làm ăn.”
Tất cả mọi người, không chỉ Wexford và Burden, đều biết đến nguy cơ khi giữ một giả thuyết từ trước, nhưng mỗi người trong số họ vẫn làm vậy. Suy nghĩ về người đàn ông đội mũ trùm đầu đã in sâu vào tâm trí họ. Một người đàn ông đội mũ trùm đầu được nhìn thấy trên cầu Yorstone vào thời điểm xảy ra vụ đâm xe; một người đàn ông đội mũ trùm đầu được nhìn thấy giữa đám cây cối vào ngày Mười một tháng Tám, ngày Amber bị giết. Vậy là cái chết của Amber và Megan có liên quan đến nhau, một kết luận quá rõ ràng. Vì thế tất cả mọi người, đang bắt đầu điều tra lần lượt từng nhà một, đều chờ đợi tin tức về một người đàn ông đội mũ trùm đầu được nhìn thấy ở vùng lân cận của dãy nhà Victoria. Nhưng không ai trong số những người họ nói chuyện có thể đưa ra thông tin họ mong chờ.
Nhà của bà Lyall được trang bị theo kiểu nơi ở dành cho mèo. Một loại khung leo trèo có kích cỡ của một cái cây nhỏ, tạo nên từ những thanh xà ngang, cột trụ và đường ray, tất cả được phủ bằng nỉ hay buộc bằng dây, chiếm trọn phòng khách. Một cái cột để gãi ngứa và khay tập cào được đặt ở góc khác. Bát đựng nước, bát ăn và đĩa đựng đồ ăn vặt của Ginger chiếm trọn khu vực bên dưới hốc tường trong khi cấu trúc đối xứng của những cánh cửa sổ phòng khách đã bị hủy hoại (theo quan điểm của Burden) bởi các vết mèo cào nhìn như những thiết kế tiên tiến. Nằm chỏng chơ bên cạnh đó, giống như món đồ chơi vứt đi của một đứa nhóc, là con thỏ bằng vải đã bị gặm mòn. Chủ nhân của những món đồ này hiện đang nằm ngủ giữa cái ghế sofa ba chỗ, duỗi thẳng ra và với chiều dài cơ thể của nó, khó ai có thể ngồi cạnh nó được.
Burden kiếm một cái ghế nhỏ lưng thẳng để ngồi và trong khi bà Lyall đi pha trà, anh nhằm vào Ginger, thì thầm không ra tiếng vài lời thóa mạ đã được cân nhắc kỹ. Trà và bánh được đem ra. Ginger vẫn chìm trong giấc ngủ, ngáy nhè nhẹ và quơ chân như mơ thấy gì đó. Burden hỏi về căn nhà số bốn trong dãy Victoria. Khu vườn của bà Lyall quay lưng vào khu vườn của căn nhà số bốn đó. Bà ta đã nhìn thấy gì từ cửa sổ phòng khách vào tuần trước? Bà ta có trông thấy ai đó ra vào bằng cửa sau không? Hoặc là nhẹ nhàng đi vào qua lối cửa sổ của phòng khách cũ nát với những tấm kính màu và chấn song uốn cong theo phong cách nghệ thuật mới nổi?
“Nếu Ginger có thể nói được”, bà Lyall nói, “nó sẽ có vài chuyện để kể. Nó dành phần lớn thời gian ở trong khu vườn đó, đối với nó, chỗ ấy giống như rừng cây nhỏ. Dĩ nhiên, nó hiểu được mọi thứ người ta nói với mình, nó là một con mèo cực kỳ thông minh. Chỉ là nó không thể nói chuyện mà thôi.” Rồi bà ta bồi thêm, “Không phải bởi vì mèo không đủ thông minh. Mà là do có gì đó trong kết cấu vòm họng của chúng. Tôi đã đọc được điều đó trong một tờ tạp chí về mèo”.
“Nhưng bà đã nhìn thấy gì, thưa bà Lyall?”
“Thỉnh thoảng tôi nghĩ rằng mình đã sai khi để nó ra ngoài đó. Ra ngoài mọi lúc, ý tôi là vậy. Những người bạn của tôi nói rằng tôi không nên làm vậy và đúng là tôi rất lo lắng khi nó mất tích. Ý tôi là, bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra với nó khi ở trong căn nhà đó. Dù kẻ nào đã giết cô gái ấy đi chăng nữa, hắn cũng chẳng ngần ngại giết thêm một con vật, đúng không?”
“Không hẳn thế đâu.”
Burden tự nhủ rằng, dù chuyện gì xảy ra đi chăng nữa, anh vẫn phải duy trì thái độ lịch sự và tiếp tục thẩm vấn một cách khéo léo và cân nhắc. Có lẽ anh thậm chí phải có chiến lược thích hợp hơn cho gia đình này và đặt ra những câu hỏi từ quan điểm của Ginger. Nuốt xuống một cách khó khăn và hít một hơi thật sâu, anh bắt đầu lại.
“Bà có nghĩ Ginger đã nhìn thấy ai đó có hành động đáng nghi xung quanh sân sau của căn nhà số bốn trong dãy Victoria không? Ví dụ, liệu nó có lo lắng nếu đụng phải một người đàn ông lạ mặt ở nơi, ờ, nơi nó thường hay lui tới không?”
Cảm ơn Chúa vì anh đã đến đây một mình! Thử tưởng tượng xem Barry Vine hay Karen Malahyde sẽ như thế nào khi nghe anh nói những lời vô lý đần độn này. Rõ ràng việc anh đi một mình là quyết định đúng đắn. Đặt bàn tay lơ đễnh vuốt ve lên cái đầu to và nhọn của Ginger, bà Lyall vội vàng trấn an Burden rằng con mèo của bà ta không sợ bất cứ thứ gì và cũng chẳng sợ ai. Nó dũng mãnh như một con sư tử. Chuyện tương tự cũng đã xảy ra khoảng một tuần trước, vào tối thứ Bảy, khi trời bắt đầu tối dần, nó ra ngoài qua lối đi dành cho mèo với tốc độ nhanh đến nỗi đâm cả vào cánh cửa. Bà ta nhìn ra ngoài, một cách tự nhiên, và thấy một người đàn ông đang nhìn xuyên qua một trong những khung cửa kính ở cửa sổ phòng khách của căn nhà số bốn.
Burden rất lão luyện để không hỏi bà ta xem người đàn ông đó có đội mũ trùm đầu hay không. Mặc dù câu hỏi đã hình thành sẵn trong đầu anh. “Hắn trông như thế nào?”
“Hắn quay lưng lại”, Pauline Lyall nói. “Hắn không làm gì cả, chỉ nhìn chằm chằm vào trong, tôi không thích hắn đứng đó và đã cân nhắc rất nghiêm túc về quyết định gọi cảnh sát, nhưng bất thình lình người đàn ông đó quay lại và băng qua khu vườn tới một mảng tường đổ nát rồi hướng thẳng về phía đường Pyramid. Đáng lẽ tôi nên gọi cảnh sát. Chẳng tốt lành gì khi một gã đàn ông ra ngoài và dọa nạt một con vật như thế này, đúng chứ?”
“Bà sẽ nhận ra hắn lần nữa chứ? Bà có thể mô tả lại hắn không?”
Pauline Lyall rót cho Burden một tách trà nữa. Anh nghĩ mình đã phát hiện ra vẻ thất vọng trên khuôn mặt của bà ta khi không thể rót cho Ginger một chén.
“Tất cả những gì tôi biết là hắn gầy và hơi cao. Lúc đó trời đã bắt đầu tối dần, anh biết đấy.”
“Hắn đội mũ trùm đầu đúng không?”, giờ anh bắt buộc phải hỏi.
“Mũ trùm đầu? Ồ không. Lúc đó trời rất nóng. Anh biết cảm giác thế nào mà. Hắn thì đang mặc một cái - mọi người gọi là gì ấy nhỉ? - áo phông.”
Burden cảm ơn bà ta vì tách trà rồi ra về, thầm nguyền rủa và nhặt hết đống lông của Ginger dính trên chiếc quần vải lanh màu than của mình. Có ít nhất mười ngôi nhà nhỏ trên con phố này quay lưng lại phía những khu vườn trong dãy Victoria. Karen Malahyde xuất hiện trước cửa căn nhà số bốn mươi tám khi anh đi ngang qua cổng.
“Ông già sống ở đây nói rằng thị giác của ông ta không đủ tốt để nhìn được đến tận cuối khu vườn, huống hồ là cánh cửa phía sau, nhưng một phụ nữ bốn mươi bảy tuổi đã quả quyết rằng những tấm ván lót chưa từng được đóng lên cánh cửa cho đến cuối tuần này.”
“Anh đã đến căn nhà số bốn mươi sáu chưa?” “Chưa, thưa sếp.”
“Vậy cả hai chúng ta sẽ cùng đi”, Burden nói.
Bà Spear, không nuôi mèo nhưng lại có một con chó nhỏ nhìn rất đáng nghi bám theo sát gót, một ông chồng tàn tật ngồi trên xe lăn và một con vẹt đuôi dài màu xanh ở trong lồng. Ghế của John Spear được đặt chính xác ngay trước cửa sổ phòng khách, và khu vườn của ông ta hơi chếch một chút về phía bức tường đằng sau, bức tranh toàn cảnh của dãy nhà Victoria lọt ngay vào tầm mắt ông ta. Trên chiếc bàn bên cạnh chỗ ông ta ngồi là một cái ống nhòm.
“Hầu như chẳng có gì thú vị để nhìn cả”, ông ta nói với Burden, “nhưng tôi cũng đã thấy vài điều đáng ngạc nhiên. Một con cáo đã làm tổ ở đó vào mùa xuân - chà, một cái tổ, vậy đấy. Nó đẻ con ở đó và tôi đã ngồi đây nhìn chúng chơi đùa hàng giờ đồng hồ, phải không Eileen?”.
Những cư dân ở đường Oval đều bị ám ảnh bởi động vật, Burden nghĩ, nhưng ngài Spear đây chỉ vô tình bị như vậy mà thôi. Anh không có khả năng tìm được ai đó mọc rễ ở một chỗ, do đó phải nói rằng đây là vị trí thuận lợi nhất trong mười căn nhà.
“Cũng có rất nhiều chim. Chúng đánh thức tôi dậy mỗi sáng bằng tiếng hót. Thực sự, chúng còn hót hay hơn cả những cặp trai gái tán tỉnh nhau. Nếu những gì chúng đang làm thật sự là tán tỉnh.”
“Ông có để ý đến những tấm ván gỗ trên cánh cửa sau đằng kia không, ông Spear?”
“Tôi để ý từ khi chúng có ở đó. Chúng vốn không ở đó, như chưa từng có trong suốt hai lăm năm chúng tôi sống ở đây, và giờ thì chúng lại ở đó. Eileen đẩy tôi đến đây lúc tám giờ sáng, bà ấy luôn làm thế, tôi đã nhìn sang bên đó rồi nói với bà ấy, ‘Đống gỗ kia mới nhỉ’, và bà ấy nói, ‘Đống gỗ nào?’. Tôi liền bảo, ‘Trên cái cửa sau căn số bốn trong dãy ấy’.”
“Ông ấy nói đúng”, bà Spear nói. “Tôi đã nhìn thấy và nói, ‘Anh nói đúng, Jack. Đống gỗ kia mới nhỉ. Em thắc mắc không biết tại sao chúng có mặt ở đó’, tôi nói vậy và Jack trả lời, ‘Ai đó sẽ chuyển vào và đấy là lý do chúng được có mặt ở đó’.”
“Ông có nhớ được ngày đầu tiên mình nhìn thấy những tấm ván gỗ đó không?”, Karen hỏi.
“Để tôi nhớ lại đã.”
Con vẹt líu lo trong khi John Spear đang suy nghĩ. Bên ngoài, trong dãy nhà bỏ hoang, một cơn gió thổi xuyên qua đám cây bụi, làm tán lá rung rinh. Không có cáo, không có người, không có cả chim chóc, ngoại trừ ánh mặt trời nóng bức đang chiếu xuống.
“Nhớ rồi”, John Spear bất ngờ nói. “Không phải là ngày chúng tôi nhìn thấy một quý cô trẻ tuổi ngoài đó, mà là hôm sau đấy. Ngày chúng tôi nhìn thấy cô ta, lúc đó là đầu giờ tối, chắc tầm sáu giờ, trời đầy mây và tôi nói với Eileen, ‘Cuối cùng thời tiết cũng chịu thay đổi’. Nhưng hóa ra không phải, cái nóng tiếp tục quay trở lại vào hôm sau và ngày sau đó nữa khi đống gỗ kia xuất hiện.”
“Cô gái trẻ nào vậy, ông Spear?”
“Chà, tôi nói là ‘quý cô trẻ tuổi’ nhưng tôi không gọi họ là quý cô khi họ mặc váy ngắn. Cô ta thì có và đang sải bước về phía đám cây bụi. Tôi đoán cô ta tới nơi mà tất cả bọn họ đều đến, băng qua đường Pyramid nơi có bức tường sắp đổ nát. Cô ta đi thẳng tới cánh cửa đó và nhìn nó. Cô ta không thử mở hoặc làm gì đấy, chỉ đứng nhìn sau đó đi mất.”
Karen đưa ra bức ảnh của Megan Bartlow và cả hai người nhà Spear nhìn vào nó.
“Không chắc lắm nhưng rất giống cô ta. Tóc có giống không, Eileen?”
“Chính xác là cô ta”, bà Spear khẳng định.
“Ông có chắc đó là vào hai ngày trước khi những tấm ván gỗ đó xuất hiện không? Megan bị sát hại vào ngày mùng Một tháng Chín. Những tấm ván gỗ được đóng lên để bảo vệ cánh cửa vào buổi chiều hoặc đêm hôm đó và ông đã thấy chúng vào buổi sáng hôm sau. Cô ta đã ở đây vào ngày mùng Một, không phải Ba mươi mốt tháng Tám.”
“Nhưng tôi đã nhìn thấy cô ta vào ngày Ba mươi mốt”, Spear khăng khăng. “Đó là một ngày trời đầy mây và tôi đoán hôm đó là thứ Hai. Đó là thứ Hai, phải không, Eileen?”
“Chính xác”, Eileen nói. “Chúng tôi không thể trông thấy cô ta vào thứ Ba được, bởi vì đó là ngày xe cấp cứu đến đón Jack đi vật lý trị liệu. Chà, không phải xe cấp cứu, giờ họ có vài cái tên hay ho cho nó. Xe chuyên chở những người mất khả năng hay đại loại thế. Ừm, lúc đó chắc tầm chín giờ và phải đến tận mười giờ kém hai mươi anh mới ra ngoài cửa để chuẩn bị lên xe, đúng chứ? Và anh đã ở đó cả ngày.”
“Tôi không thể nhìn thấy cô gái đó vào thứ Ba được bởi vì tôi đã ở bệnh viện đến tận bốn giờ như Eileen nói đấy.”
“Nhầm ngày rồi”, Burden nói khi cùng Wexford bước ngang qua nhà xác. “Nhưng ông ta khẳng định mình đã thấy cô gái vào thứ Hai, không phải thứ Ba, ngày mà cô ta bị giết. Một người đàn ông bị trông thấy đang nhìn vào cửa sổ của căn nhà số bốn nhưng không giống tay hung thủ đội mũ trùm đầu của chúng ta.”
“Hung thủ lúc đó không đội mũ, đúng không? Trời lúc đó rất nóng, như bà Lyall đã nói.”
“Thời tiết tháng Tám khá nóng nhưng hắn vẫn đội mũ trùm đầu đó thôi. Có điểm nào cần chú ý trong cái thực tế là cả hai cô gái đều bị sát hại vào thứ Ba không?”
“Chúng ta không chắc Megan có phải bị sát hại vào hôm đó hay không.”
Nhưng Carina Laxton đã xác nhận là vào ngày hôm đó. “Cô ta chết hôm mùng Một, thứ Ba”, Laxton nói sau đó một giờ. “Cô ta đã chết được bốn ngày khi chúng ta tìm thấy thi thể và tôi phải nói là vào sáng sớm hôm đó, chứ không phải sau bốn giờ chiều. Chắc chắn vậy. Có thể là vào giữa buổi sáng.”
“Cô có thể xác định chính xác hơn một chút được không?”, Burden có vẻ cáu kỉnh.
“Không thể với cái nóng như thế này, và với cái xác bị giấu trong tủ. Tôi nghĩ là anh biết cô ta đang mang thai?”
“Tôi không biết”, Wexford nói.
“Cô ta mang một thai nhi đang trong gian đoạn phát triển. Khoảng mười bốn tuần tuổi, có lẽ vậy.”
Wexford và Hannah tìm thấy Prinsip ở nhà của Sandra và Lee Warner. Vì sự vắng mặt của Lara, nơi này nhìn bẩn thỉu và bừa bộn đến kỳ lạ. Như thể, khi có mặt ở đây, Lara luôn dọn dẹp xung quanh và đưa tất cả mọi thứ về trật tự ngăn nắp nhưng một khi cô ta rời khỏi, mọi thứ đâu lại hoàn đấy. Căn hộ ở khu Muriel Campden Estate này đang có tang, nhưng nỗi đau buồn không làm giảm đi cảm giác ngon miệng của Lee Warner. Ông ta ngồi trước ti vi, trên cái ghế sofa võng xuống, ăn bánh mỳ kẹp thịt với một quả trứng ốp bên trên, một suất đúp khoai tây chiên và một lát bánh mỳ nướng dày bên trong rưới cả đống nước sốt cà chua. Vợ ông ta, người đã mời họ vào, mặc chiếc áo choàng dài màu trắng bị vấy bẩn bên ngoài áo phông và quần đầy mồ hôi. Bà ta xin phép một lát và quay trở lại cùng với hộp khăn giấy để bắt đầu lau khô những giọt nước mắt. Prinsip cũng có một đĩa tương tự như đĩa trên đùi Warner, thức ăn trên đó đông cứng lại vì không được sờ đến. Đặt tay lên đôi vai đang rũ xuống của anh ta, Sandra hỏi, “Các vị đã bắt được tên cầm thú đó chưa?”.
“Bà không nói với chúng tôi là Megan đang mang thai”, Hannah nói.
“Cô nói gì cơ?”
“Megan đang mang thai, thưa bà Warner. Tôi cho rằng bà không biết.”
“Chắc chắn là tôi không biết rồi và cả Keith cũng thế. Ý cô là gì, mang thai ấy? Chắc có sự nhầm lẫn nào đấy.” “Nếu đúng là như vậy thì tôi bị một cú đau quá.” Prinsip ngước khuôn mặt xám xịt lên nhìn họ, miệng anh ta há ra.
Đĩa thức ăn đã trượt ra khỏi đùi anh ta nếu Sandra không nhanh tay giữ lại. “Ý cậu ta là cậu ta đã thắt ống dẫn tinh”, bà ta nói.
“Phẫu thuật thắt ống dẫn tinh - ồ, tôi hiểu.” Hannah khá bình thản trước sự tiết lộ này, Wexford không hề ngạc nhiên. “Tuy nhiên, cô ta đã mang thai.”
“Keith”, Sandra Warner nói và ngồi xuống, châm một điếu xì gà, “đã có sáu đứa con. Hay bảy đứa nhỉ, Keith? Không, sáu thôi. Từ...”, bà ta ngừng lại, vắt óc suy nghĩ và thốt lên, “những mối quan hệ trước kia. Đó là lý do khiến cậu ta không muốn có thêm con nữa. Megan đã có một đứa, dĩ nhiên. Ý tôi là, đứa bé được nhận nuôi, đó là điều tốt nhất cho nó sau khi đã cân nhắc mọi khía cạnh. Megan muốn đứa bé có được sự khởi đầu tốt nhất trong cuộc sống, thứ mà Megan không thể cho nó được, mặc dù từ bỏ đứa trẻ thật sự đau khổ”. Bà ta dụi tàn thuốc vào phần trứng đã đông cứng, hamburger và khoai tây chiên trên đĩa của Prinsip.
“Tôi chưa thấy sự liên quan nào ở đây cả”, Burden nói khi họ về đến văn phòng của Wexford, ăn sandwich được Lynn Fancourt đem đến. “Megan đang làm cái quái gì ở dãy nhà Victoria vào ngày thứ Hai nhỉ? Cô ta đã đến đó vào thứ Ba. Và tên hung thủ của chúng ta thì làm gì ở đấy tối thứ Bảy tuần trước?”
“Anh có thể thông suốt mọi chuyện”, Wexford nói, “nếu anh xem xét theo chiều hướng này. Hung thủ của chúng ta, đã hẹn Megan và cuộc hẹn này có liên quan đến việc buôn bán mà cô ta và Amber đang tham gia, có thể hắn cũng chính là người đứng ra tổ chức. Căn nhà số bốn ở dãy Victoria là địa điểm hắn chọn. Tại sao thì chúng ta cũng không biết. Có thể hắn đã từng làm việc hoặc sống ở đó. Hôm thứ Bảy, hắn đến đó để kiểm tra mọi thứ và tìm hiểu cách thức tốt nhất để đột nhập vào”.
“Hắn đã dàn xếp để gặp Megan ở đó, xem nào, chín giờ ba mươi sáng thứ Ba, ngày mùng Một tháng Chín. Hắn đã bảo cô ta rằng ngôi nhà trống không, sắp được chuyển đổi cùng với những khu vườn bị bỏ hoang phía sau. Cô ta sẽ băng qua những khu vườn từ đường Pyramid, nhận ra căn nhà số bốn nhờ ký hiệu gì đó, màu sắc của bức vẽ trên cánh cửa hoặc những tấm kính màu trên cửa sổ phòng khách chẳng hạn.
Bước lên bốn bậc thang và cô ta nhận ra cánh cửa bên trên không hề khóa.”
“Được, đúng đấy.” Burden nhấc lát bánh mỳ bên trên chiếc sandwich của anh ta lên và ngắm nghía thịt bò muối, salad khoai tây cùng cà chua ở bên dưới. “Bơ thực vật”, anh ta nói. “Nhưng anh có thể mong đợi điều gì chứ? Tất cả những gì anh nói đều có lý. Tôi hiểu. Chỉ có điều cô ta được cho đã làm thế vào thứ Ba, chứ không phải thứ Hai.”
“Không, nhưng giả sử cô ta có chút lo lắng về việc đến đó thì sao. Hung thủ có thể là một hình bóng đáng sợ nào đó trong đời cô ta - và với lý do thích hợp, như chúng ta giờ đã biết. Còn gì tự nhiên hơn việc cô ta thử đi theo chỉ dẫn của hắn và tới đường Pyramid sau khi kết thúc công việc hôm thứ Hai? Đi vào những khu vườn đó, nhìn xung quanh, thử mở cửa - hoặc chỉ đứng nhìn nó. Nếu mọi thứ như lời hắn nói, cô ta sẽ cảm thấy yên tâm hơn.”
“Cô ta quay trở lại vào sáng thứ Ba. Cô ta để lại lời nhắn trên cửa cửa hàng Gew-Gaws, bắt xe buýt tới Stowerton, vào những khu vườn qua đường Pyramid và phát hiện ra cửa sau của căn nhà số bốn không khóa. Ngài Jack Spear của anh không trông thấy cô ta bởi vì ông ta đang ở phía trước nhà mình, đợi xe cứu thương đến đón vào bệnh viện để vật lý trị liệu. Thấy thế nào?”
“OK. Có thể sự việc là như thế. Bánh sandwich của anh thế nào?”
“Nó sẽ ngon hơn nếu không có nước sốt mayonnaise, nước sốt mayonnaise gần như phủ đầy cả cái bánh và tôi ghét thứ đó. Nhân tiện, Hannah cũng đã tìm ra chủ nhân của dãy nhà Victoria. Đó là công ty cổ phần hữu hạn Iannoides. Họ là hai anh em họ sống tại Síp. Theo như những gì anh có thể đã nghĩ, họ hoàn toàn không quan tâm đến Megan xấu số ngoại trừ việc cô ta bị giết trong tư gia của họ có thể gây ảnh hưởng đến việc bán những căn hộ khi chúng được hoàn thiện.”
“Họ có hợp đồng với chủ thầu xây dựng không?”
“Fish & Son of Stowerton đảm nhận phần chính còn Surrage-Samphire phụ trách phần trang trí. Rõ ràng, những dãy phòng hay “những căn hộ” này, theo lời của những chuyên viên thiết kế, tôi trích dẫn từ bản cáo bạch của họ, sẽ được ‘tái tạo’ một cách rất sang trọng. Các đường gờ mang phong cách Victoria trên trần nhà, vách ngăn, đồ gỗ chạm khắc, tay nắm cửa và tấm bảo vệ buộc ở cửa theo lối cổ, tuốt tuồn tuột. Surrage-Samphire có những chuyên gia trong lĩnh vực đồ gỗ, trát vữa thạch cao, kỹ thuật phục hồi, và vân vân.”
“Tên buồn cười nhỉ?”, Burden nói. “Không phải một cái tên dễ quên. Có ai trong số những người này đã từng đến căn nhà số bốn chưa?”
“Tôi nghĩ tất cả bọn họ đều đã từng đến đó. Để kiểm tra và đánh giá. Công việc sẽ chỉ được bắt đầu vào cuối tháng.”
Khi đang đi bộ về nhà trong ánh hoàng hôn rực rỡ và nóng bức, Wexford nghĩ về Megan Bartlow. Cô ta đã có một đứa con và giờ lại mang thai một đứa nữa. Số phận của đứa trẻ này có thể đã như thế nào đây? Trẻ em dường như bị đối xử theo một cách rất tùy tiện bởi vài người như thế này, dễ dàng được thụ thai, hiển nhiên rồi, nhưng cũng dễ dàng bị vứt bỏ một khi được sinh ra, tuy nhiên trong giai đoạn mà “gia đình” được nhắc đến với sự tôn trọng và tầm ảnh hưởng lớn hơn trước đây, có lẽ chuyện này vẫn chưa được chấp thuận. Keith Prinsip có sáu đứa con, bị bỏ lại cho mẹ của chúng hoặc các bà mẹ khác, không nghi ngờ gì nữa. Sau đó tới Brand - suy nghĩ của anh thường quay trở về Brand.
Cậu nhóc bé bỏng có một người bà nữa. Nếu Vivien Hilland không tỏ ra mình giống như người mẹ của thằng bé, thì với Wexford, ấn tượng về bà ta chẳng liên quan gì đến cái cách bà ta có thể đối xử với Brand hay cái cách Brand nhìn bà ta. Anh hồi tưởng lại chuyến viếng thăm đến ngôi nhà ở trang viên có cổng ra vào, cố gắng nhớ lại bất kỳ dấu hiệu nào của sự dịu dàng hay nhạy cảm ở bà Hilland nhưng không phát hiện được gì, song ít nhất, anh cũng nhớ được vài thứ. Đó là việc anh đã trông thấy cái tên Samphire, trên biển báo ở vườn trước nhà: Surrage-Samphire, những chuyên gia Trang trí và Phục chế. Một trong số họ, người đàn ông tên Ross, đã ngó đầu qua cửa phòng khách trong khi Wexford và Hannah đang thẩm vấn bà ta; bà ta cũng nói rằng Diana Marshalson đã giới thiệu anh ta. Sự liên quan này có ý nghĩa gì không?
Xe hơi của con gái anh đang đậu ở lề đường. Anh tự nhủ rằng mình luôn cảm thấy hạnh phúc khi nhìn thấy con cái nhưng chỉ riêng lúc này, riêng tối nay, anh muốn được ở cùng vợ mà không có sự hiện diện của Sylvia. Không phải bởi Dora chẳng còn là chính mình trong những ngày gần đây: Khi chỉ có họ với nhau, Dora không bao giờ ngừng than vãn về hành động của Sylvia và luôn chỉ trích anh vì đã “quá khoan dung” với con bé.
Dù vậy, Sylvia đang ở đây, trong nhà và chống chọi với những lời mắng mỏ từ mẹ. Anh đi gặp mấy đứa cháu trai trước. Không biết anh đến, chúng vẫn đang chơi đùa với vòi phun nước ở cuối vườn. Sylvia đang ngồi trên một chiếc ghế bành, con bé quay lại để hướng mặt về phía những cánh cửa sổ phòng khách rộng mở, mẹ con bé ngồi trên chiếc ghế ngay bên cạnh, và lúc này, con gái anh đang hò hét diễn thuyết, không nghe thấy tiếng chân bước vào phòng của anh.
“Không phải con nghi ngờ Mary, bà ta là một phụ nữ hoàn toàn tốt bụng, nhưng con nghi ngờ Naomi bảo bà ta theo dõi con và bà ta rất vui lòng hưởng ứng. Cô ta đã dẫn Mary theo khi ghé thăm. Cô ta luôn muốn biết con cảm thấy thế nào nếu Mary có thể đi chợ giúp con hay ngồi trông lũ trẻ khi con ra ngoài.”
“Vài người sẽ bảo như thế là rất tốt bụng”, Dora nói với giọng gay gắt đầy mới mẻ.
Anh lên tiếng, thông báo sự xuất hiện của mình. “Chỉ trong trường hợp con nghĩ bố đang theo dõi con thôi.”
“Ồ, bố.”
Anh tiến tới và hôn con bé. “Naomi, người gây ra những chuyện này đâu rồi?”
“Con vừa nói với mẹ rằng Naomi rất thân thiết với người phụ nữ sống ở góc đường nhà con và con biết cô ta đã thương lượng để bà ta để mắt đến con. Bà ta là một nữ hộ sinh, bố biết đấy.”
“Ai, Naomi á?”
“Không, bố ạ, đó là Mary. Naomi không tin tưởng để con có thể tự chăm sóc bản thân đúng cách khi đang mang thai. Ồ, nhưng cô ta đâu phải quan tâm đến con. Mà là đứa bé, con của cô ta. Tối qua, Mary đã đến đây - dĩ nhiên là không thèm báo trước - và hỏi rằng con có muốn bà ta kiểm tra các loại vitamin và khoáng chất con đang dùng để đảm bảo tất cả đều tốt không. Và rồi bà ta hỏi con có ăn đúng cách không. Con không phải quá béo, đó là những gì bà ta nói, và bà ta hy vọng con sẽ không ăn kiêng, khiến đứa bé trở nên còi cọc. Chú ý này, bà ta đã cười khi nói câu đó. Bà ta luôn cười ngay cả khi chẳng có gì đáng cười. Và một điều khủng khiếp là mấy thằng bé lại thích bà ta. ‘Bà ta không bao giờ ăn gian’, Ben nói vậy. ‘Dĩ nhiên bà ta không làm thế rồi’, con nói, ‘bà ta không phải mẹ của con’. Và sau đó nó nói một điều thực sự rất đau đớn, ‘Con ước thế. Con ước gì bà ấy là mẹ con’.”
“Trẻ con”, Wexford nói, “nghĩ gì là nói nấy. Bố không nghĩ có đứa trẻ nào chưa từng nói như vậy vài lần với bố mẹ của nó. Con đã từng nói thế với bố một lần khi bố không cho con đi bơi vào một ngày lạnh giá trong tháng Năm. Đó là một bể bơi ngoài trời và bạn thân của con, Louise Cole, sẽ đi. ‘Con ước gì ông Cole là bố con’, con đã nói thế và nó giống như một cái tát vào mặt bố vậy. Nhưng bố đã học được rằng khi con nói thế, đó chỉ là ý nghĩ tức thời, không phải là mãi mãi và giờ đến lượt Ben cũng vậy. Con sẽ hiểu thôi.”
Hẳn là bị xúc động bởi câu chuyện, Sylvia chạm vào tay anh và nắm chặt nó. “Mary là vấn đề thực sự. Con không muốn bà ta can thiệp vào chuyện này. Không phải vì con không ưa bà ta. Thực sự là, con không nghĩ có ai đó không ưa nổi bà ta. Rõ ràng bà ta chỉ ghé qua vì Naomi yêu cầu.”
“Miễn là con biết thế”, Wexford nói. “Có thể bà ta được yêu cầu đến một lần rồi sau đó tiếp tục tự đến theo ý mình. Nếu con ưa bà ta thì chẳng có vấn đề gì nữa cả. Con không thể chỉ thư giãn và để bà ta giúp thôi sao? Và giờ bố sẽ ra vườn để gặp mấy thằng cháu trai, sau đó bố muốn một thứ gì đó để uống và ít súp. Bố đói cồn cào lên rồi đây.”
Dora không nói gì, chỉ nhìn anh đi bằng ánh mắt lạnh lẽo.
“Con thực sự ghét ả Naomi đó”, Sylvia nói theo cái cách của một thiếu nữ. “Thỉnh thoảng con nghĩ là mình sẽ giết cô ta.”
Wexford cười. “Con sẽ không nghĩ đến việc nói những điều như thế trước mặt bố đâu. Bố là cảnh sát, nhớ chứ?”