Trời nóng đến nỗi không ngủ được và khi Wexford nghe thấy tiếng giao báo lúc sáu giờ thì anh liền tỉnh dậy, bước xuống lầu và nhặt tờ báo Người đưa tin Kingsmarkham từ tấm thảm chùi chân. Đó là câu chuyện Lovelace viết, kèm theo một bức ảnh cũ chụp chính Wexford, từ cách đây nhiều năm, đang uống nửa chai rượu thuốc apxin ở vườn nhà Olive và Dove. Anh pha trà, mang đến bên vợ rồi đẩy tờ báo sang cô và nói rằng, “Lần thứ hai tưởng sẽ dễ dàng hơn, nhưng không phải”.
“Em không biết tại sao lại thế nữa.”
“Anh cho rằng mình đã nghĩ chuyện này sẽ không xảy ra nữa.”
“Em có nên đọc bài báo và bảo rằng rất an toàn cho anh đọc nó không?”, giọng cô đã thiếu kiên nhẫn.
“Em biết anh rõ quá mà”, anh nói. “Nếu là chuyện đó thì anh phải đọc.”
Hannah mua một tờ Người đưa tin từ sạp báo ở Brimhurst St John mở cửa lúc tám giờ. Câu chuyện đầu trang nói rằng Wexford vẫn chưa đi đến đâu trong cuộc điều tra về cái chết của Amber Marshalson và một bức ảnh anh đang uống bia cùng dòng chú thích, “Chánh thanh tra thám tử nổi giận”. Cô ném nó vào sau xe, cầu mong sếp của mình không bị phân tâm bởi mấy thứ tin tức này. Cô đến Brimhurst Prideaux trong vòng năm phút, đỗ xe cách điểm giao nhau giữa đường Mill và đường Myfleet chừng vài mét. Còn hai mươi phút trước khi gặp John Brooks nên cô lại nhặt tờ báo lên.
Tất cả những lỗi lầm và sự xâm phạm của các phương tiện truyền thông đều xuất phát từ những gã nhà báo, đó là quan điểm của Hannah. Do đó cô không mấy ngạc nhiên khi thấy tên tác giả in bên trên bài báo là Darren Lovelace hay đọc được một loạt các tuyên bố không chính xác và ngoa ngôn điên rồ. Wexford đang ngập đầu với công việc và anh đang già đi nhanh chóng. Bức ảnh cho thấy, anh không thể tránh khỏi những cơn thịnh nộ bạo lực chẳng thể giải thích được lẫn chứng hoang tưởng. Các hướng điều tra để tìm kiếm hung thủ sát hại Amber Marshalson đều rơi vào ngõ cụt và giờ một cô gái khác, bạn của Amber, đang mất tích. Có ai không bị “tâm hồn treo ngược cành cây” mà lại nghi ngờ cô ta đã bị hung thủ ra tay sát hại? Cảnh sát trưởng đang đứng trước sức ép phải loại Wexford ra khỏi vụ này và thay bằng một ai đó trẻ hơn. Những “thân nhân” của cô gái mất tích, bị rơi vào tay một điều tra viên vớ vẩn như vậy, đã có được sự cảm thông sâu sắc nhất của tờ Người đưa tin.
Mặc dù Hannah yêu thích và ngưỡng mộ “ngài sếp” của mình rất nhiều và cũng biết tất cả lập luận của Lovelace chỉ là vu khống thiếu căn cứ, cô vẫn phải thừa nhận Wexford là một gã đàn ông và cô không thể ngừng cảm thấy rằng trong những hoàn cảnh như thế, phụ nữ thường xử sự khôn khéo hơn. Ai đó như cô chẳng hạn, giả dụ trong mười năm nữa.
Đồng hồ chỉ tám giờ hai mươi tám phút. Cô ra ngoài, khóa xe và đi bộ về phía chiếc VW của John Brooks đang đỗ như mọi khi - nhưng lại bất thường vào lúc này - trước cửa nhà số hai của dãy Jewel. Cô nhìn vào xe anh ta, chẳng nhằm mục đích gì mà chỉ là để giết thời gian, nhưng khi xoay người lại, cô nhìn thấy anh ta trên sân trước, đang đứng ngay bên trong cổng.
“Chà, anh Brooks, cuối cùng thì…”
Cô khó mà tìm ra được từ nào phù hợp khi anh ta nhìn cô và nói nhỏ nhẹ, “Chúng ta có thể nói chuyện trong xe tôi được không?”.
Không cần phải hỏi anh ta lý do tại sao. Cửa trước khép hờ, vợ anh ta đang ở bên trong và có thể nghe thấy hết những gì họ nói. “Như anh muốn”, cô nói.
Sáng nay bầu trời nhìn u ám nhưng sức nóng vẫn bắt đầu bốc lên. Nó gần như không hề giảm đi suốt cả đêm. Vì xe của John Brooks đang đỗ, nên cửa sổ bên ghế hành khách nằm ở phía bên tay phải. Anh ta kéo nó xuống tầm hai inch nhưng vẫn đóng cửa bên phía mình. Hannah liếc anh ta. Một số người có thể thấy anh ta ưa nhìn. Anh ta có khuôn mặt của một ngôi sao nhạc pop mới nổi hoặc một người dẫn chương trình truyền hình, dịu dàng, nhẹ nhàng và năng động, với những đường nét không nổi bật nhưng đôi mắt anh ta, dường như có nhiều lòng trắng xung quanh con ngươi hơn bình thường. Anh ta gầy và đen, còn cặp mắt có màu xanh xám đậm.
“Có vấn đề gì vậy?”, anh ta nói bằng giọng của một ngôi sao mới nổi, khác xa giọng điệu của Keith Prinsip nhưng không quá “trang trọng”.
Hannah dự định sẽ có một bước tiến quan trọng ở đây. Không phải là những gì Henry Nash đã nói mà là việc Brooks sẽ không thể liên tục phủ nhận nếu điều đó là đúng. “Vấn đề là, thưa anh Brooks, anh có thói quen lái xe ra ngoài vào nửa đêm và anh đã ra ngoài vào cái đêm Amber Marshalson bị giết hại.”
“Thế thì có liên quan gì?” Câu hỏi đã được cô đoán trước. “Tôi không giết cô ta.”
“Anh có biết cô ta không?”
Có lẽ anh ta nghĩ cái “vấn đề” sâu xa kia sẽ không bị nhắc lại nữa, nên anh ta trông có vẻ nhẹ nhõm. “Dĩ nhiên rồi. Trong khu này mọi người đều biết nhau. Cô ta là một cô nhóc dễ thương. Thực sự là, tôi đã giúp cô ta tìm lại vài thứ trong laptop khi cô ta gặp rắc rối với nó.”
“Tôi nghĩ anh là một nhân viên chịu trách nhiệm về an toàn và sức khỏe.”
“Ok, đúng vậy, nhưng tôi cũng biết về máy tính và cô ta biết điều đó. Cô ta ghé qua và nhờ tôi giúp đỡ.” Anh ta liếc nhìn về phía nhà mình và cửa sổ trước đang mở một nửa. “Vợ tôi sẽ không thích điều này nhưng đúng là không có gì thật, hoàn toàn không có gì, giữa tôi và Amber. Ý tôi là, tôi chỉ coi cô ta như một đứa trẻ.”
Một đứa trẻ có con, Hannah nghĩ. “Máy tính của cô ta bị sao vậy?”
“Chả sao cả, thật đấy. Những đứa trẻ ngày nay thường rất thông thạo về vi tính nhưng cô ta lại không. Cô ta không thể hiểu rõ về nó. Cô ta muốn tôi tìm giúp cô ta vài trang web và tôi đã giúp. Dễ như ăn kẹo, thật đấy.”
“Và các trang web đó là gì?”
“Ý tôi là tôi chỉ cho cô ta cách làm như thế nào. Tôi không biết nó là gì nữa.” Cô có thể nhận thấy anh ta đang nói dối. “Còn gì nữa không? Chỉ là giờ tôi thực sự phải đi làm.”
Hannah nói một cách trôi chảy, “Ồ, thưa anh, có đấy, anh Brooks ạ. Còn rất nhiều nữa là đằng khác. Nếu anh phải đi làm, tôi có thể gặp anh ở đó. Nửa giờ nữa được không?”.
Anh ta thở dài. “Hỏi những gì cô muốn biết và kết thúc chuyện này đi.”
“Tôi chỉ đơn giản muốn biết anh đi đâu vào lúc nửa đêm. Dễ như ăn kẹo, anh đã nói thế mà.”
“Tôi không ngủ được. Tôi chỉ lái xe đi lòng vòng và đến lúc có thể ngủ được thì tôi quay về.”
“Anh lái xe đi lòng vòng hai tiếng? Anh đã đi đâu vậy?” Brooks đang trở nên giận dữ. “Tôi không có nghĩa vụ phải cho cô biết điều đó. Tôi không làm gì sai cả. Tôi là một người vô tội và tôi rất bực khi bị thẩm vấn như thế này.” “Vâng, chà chà, tôi e là anh có nghĩa vụ phải cho tôi biết đấy. Tôi không cần nhắc lại cho anh rằng đây là một vụ giết người. Không kể cho tôi là anh sẽ bị liệt vào tội cản trở người thi hành công vụ đấy.” Hannah luôn muốn nói điều này và cho đến tận bây giờ mới có cơ hội. “Tôi sẽ quay lại tìm anh ở chỗ làm vào giờ ăn trưa. Lúc mấy giờ nhỉ? Khoảng từ một đến hai giờ được không?”
Hannah chợt có một linh cảm khủng khiếp rằng anh ta sẽ muốn cô quay lại vào tối nay và ngồi trong ô tô lần nữa với anh ta. Cô đã hẹn đi ăn tối với Bal vào bảy rưỡi tối nay.
Dĩ nhiên phải ưu tiên công việc trước. “Nếu anh muốn gặp tôi tại đây lần nữa vào tối nay…?”
Cô thấy mừng vì đã đưa ra lời đề nghị này. Được rồi. “Đến chỗ làm nếu cô muốn. Một giờ ba mươi được chứ?”
“Đúng một giờ ba mươi, thưa anh Brooks.”
Họ đã bắt đầu lục soát các thị trấn và vùng ngoại ô lân cận. Prinsip được yêu cầu cung cấp tên của bất cứ người nào Megan quen biết và phải vật lộn để làm vậy. Cuối cùng, Sandra Warner và con gái bà ta, Lara, đã giúp anh ta làm việc ấy. Mục đích của cảnh sát là tìm ra ai đó mà cả Megan và Amber đều quen biết. Dĩ nhiên là Ben Miller, Chris Williamson và James Sothern đều được đưa vào danh sách này, nhưng tất cả bọn họ đều nói rằng mình chỉ gặp Megan một lần duy nhất vào hôm Lara đưa cô ta tới Bling-Bling. Tình trạng tương tự cũng xảy ra với các cô gái, Samantha Collins, Charlotte Probyn và Veryan Colgate. Samantha đã đụng mặt với Megan vài lần, cô ta không thích Amber nhưng đội của Wexford phải mất một lúc lâu để tưởng tượng ra cảnh Samantha bé nhỏ bụ bẫm trong vai kẻ thả khối bê tông và tay sát thủ dùng gạch.
Wexford đưa Sĩ quan Vine và Sĩ quan Overton đi cùng tới nhà Marshalson. George đã tỏ ra vô cùng sốc khi được hỏi liệu con gái ông ta có thể đã tham gia vào một vụ vận chuyển ma túy hay không. “Con bé đã có con khi nó còn đi học, nó ra ngoài vào nửa đêm để đến câu lạc bộ và giờ các vị bảo với tôi rằng nó vận chuyển ma túy từ Thái Lan đến châu Âu. Tôi đã sai ở đâu chứ? Tất cả là bởi vì mẹ nó mất khi nó còn là một đứa trẻ ư? Tôi đã cố hết sức. Tôi nghĩ rằng mình đã tìm được cho nó một người mẹ khác...”
“Ông Marshalson”, Wexford nói, “chúng tôi không nói Amber đã tham gia vào phi vụ đó, chỉ là có thể thôi. Sự hợp tác của ông có thể giúp chúng tôi chứng minh rằng cô ta không làm vậy”.
“Sự hợp tác của tôi?”
“Chúng tôi muốn lục soát căn nhà này với sự giúp sức của một… một con chó nghiệp vụ. Ông có phản đối không?” George nói rằng ông ta không thích nhưng phản đối thì, không, ông ta sẽ không từ chối. Dường như việc này không đem lại cho ông ta cảm giác hài lòng, nhưng với Wexford thì ngược lại, khi anh được ngắm sự thích chí của Brand lúc Buster xuất hiện. Cho dù tính ưu việt của một con chó đánh hơi có được thừa nhận ở Buster hay không, trên cơ sở quyền uy đi kèm với trách nhiệm, nó vẫn liếm một cách nhiệt tình lên mặt vị khách hàng mới một tuổi mà hầu như không hề quen biết nó, nhưng Brand lại tỏ ra thích con chó và lần đầu tiên Wexford trông thấy thằng bé cười. Tràng cười của nó vang vọng khắp căn nhà buồn tẻ khi nó vòng tay qua ôm con chó spaniel lông vàng.
Nhưng Buster có việc phải làm. Nó chủ yếu tập trung vào phòng ngủ của Amber, rà soát từng chút một trên sàn, bên trong các ngăn kéo và các hốc phía trong tủ quần áo, như thể mình là một chuyên gia. Cuộc tìm kiếm vô ích và nếu động vật có thể tỏ ra thất vọng thì hẳn Buster đã làm rồi. Nó không tìm thấy gì hết.
“Tôi cho là sẽ có lúc mình mua cho thằng bé một con chó”, George nói, giọng ông ta không hề có tí nhiệt tình nào. “Tôi không nghĩ anh quan tâm nhưng tôi không thể nghĩ tới một tương lai với đứa trẻ này lớn lên trong ngôi nhà của mình và Diana hay việc tôi phải chăm sóc nó. Kiếm cho nó một con chó, giống như tôi bảo ấy, hoặc một con mèo cũng được. Cho nó đi học. Đưa nó tới bác sĩ để tiêm phòng bắt buộc. Tìm bạn cho nó chơi cùng. Tôi khó mà có thể suy ngẫm về nó. Dường như tôi đã gây ra một đống lộn xộn trước kia. Giờ tôi nên làm gì đây? Tôi vừa mất đi đứa con gái mình yêu thương. Tôi đã già, nghỉ hưu và tan nát cõi lòng. Tôi là một ông già. Đó là những gì tôi sẽ làm khi nghỉ hưu sao, nuôi dạy một đứa trẻ khác?”
Có thể họ sẽ lấy mất thằng bé khỏi tay ông, Wexford nghĩ, và sẽ có ai đó nhận nuôi nó, một ai đó thực sự muốn có một đứa con. “Cô gái mất tích này”, anh nói, “Megan Bartlow. Cô ta và Amber đã tới Frankfurt cùng với nhau. Hiện giờ, ông Marshalson, ông và tôi cũng biết là hai cô gái trẻ tuổi người Anh này không đi Frankfurt để nghỉ mát, và cũng không có cặp đôi trẻ người Đức nào đến Birmingham. Vậy, tại sao họ đến đó?”.
“Anh nghĩ là chúng đang vận chuyển… chà, ma túy?” “Đó là một khả năng”, Wexford không dám nhìn vào khuôn mặt đau khổ của George. “Megan Bartlow không có vẻ gì là bạn thân của Amber. Cho đến trước cuối tuần đó, một chút cũng không.”
“Rất nhiều cô gái đã đến đây. Cô ta có thể là một trong số bọn họ. Tôi chưa bao giờ nghe đến cô ta cho tới khi Amber nói chúng sẽ đến Frankfurt cùng với nhau. Tôi nghe điện từ cô ta trong suốt quãng thời gian đó và tôi phải nói rằng cô ta không có chất giọng mà tôi muốn ở đám bạn của con gái mình.”
“Đó không phải là tình bạn, đúng không? Đó chỉ là sự phân công công việc.”
“Amber biết gì về chuyện buôn bán này chứ?”
Con người tích lũy kiến thức về chuyện đó rất nhanh khi làm ra tiền, Wexford nghĩ, nhưng không nói ra.
Ngay khi Hannah đỗ xe ở khu vực giới hạn cho “Nhân viên và khách tham quan” thì John Brooks bước xuống dãy cầu thang bằng bê tông từ một cánh cửa được sơn màu xanh lá cây ở phía cuối dãy. Anh ta tiến thẳng đến, cười và bắt tay, làm cô thắc mắc anh ta đã nói gì với các đồng nghiệp về danh tính của cô. Chắc chắn anh ta sẽ không tiết lộ chuyện cô là một sĩ quan cảnh sát. Một khách hàng tiềm năng chăng? Hay là một dạng thanh tra An toàn và Sức khỏe? Anh ta mở cánh cửa màu xanh và dẫn cô vào một văn phòng nhỏ đầy các tủ hồ sơ. John Brooks rõ ràng luôn tự pha trà và cà phê, và bây giờ, khi đang cắm phích ấm điện, anh ta mời cô một trong hai loại đồ uống.
“Thôi, cảm ơn anh.” Cô không muốn biến việc này thành một dịp xã giao, trò chuyện thân mật qua tách trà.
“Tiếc nhỉ. Cô chắc chứ? Chà, nếu cô không muốn thì thôi vậy.”
“Anh Brooks, hãy ngồi xuống và tập trung vào lý do tôi ở đây. Tôi muốn biết anh đã đi đâu vào những đêm lái xe ra ngoài đó. Có phải đó là lý do tại sao vợ anh ngủ một phòng và anh ngủ ở phòng khác? Không liên quan gì đến việc anh ngủ ngáy, đúng không? Anh giả vờ ngáy để có cớ ngủ ở đâu đó, tạo điều kiện để lái xe ra ngoài.”
“Tôi không biết là cô muốn tôi kể gì cho cô.”
“Rằng anh đã đi đâu. Làm ơn đừng có nói là chỉ đi lòng vòng thôi đấy.”
Brooks cho một túi trà vào cốc và đổ nước sôi vào. Anh ta mở ngăn kéo lấy ra một gói bích quy chocolate nhỏ. “Bích quy không?”
“Không, cảm ơn. Anh có đi gặp người phụ nữ nào không?” “Nếu tôi nói là có và nói với cô là ai, thì sẽ không có hậu quả gì chứ?”
“Nếu ý anh là chúng tôi sẽ kể với vợ anh thì, không, tôi không nghĩ vậy.” Vẻ khinh miệt đã len lỏi vào giọng nói của cô và cô thấy anh ta co rúm lại. “Nếu người phụ nữ đó xác nhận anh đến thăm cô ta hằng đêm và anh đã đến đấy vào cái đêm Amber chết, thì chuyện này không cần nói với ai nữa. Tên và địa chỉ, thưa anh, anh Brooks.”
Anh ta viết một cái tên và địa chỉ ở Pomfret vào một mảnh giấy vụn. Sau đó, anh ta tiễn cô xuống cầu thang bê tông ra đến xe. Băn khoăn muốn thoát khỏi giả thuyết của mình, cô suy nghĩ khi cho xe chạy. Ngay khi biết cô đã đi khỏi, anh ta liền gọi cho người phụ nữ kia, Paula Vincent ở đường Foster, Pomfret.
Người tình của Brooks chẳng hề giống cô mong đợi chút nào. Cô ta trẻ hơn Gwenda vài tuổi và mang vẻ hấp dẫn trái ngược với cô ấy, một ả gái điếm trong chiếc váy ngắn. Người phụ nữ ra mở cửa cho cô, không nói gì mà chỉ nhướng nhẹ lông mày, ít nhất là bốn mươi tuổi, tóc đen ngắn, thẳng và rũ xuống, gương mặt không trang điểm và dáng người thì còn xa mới có thể được biên tập viên ở các tạp chí sắc đẹp gọi là “săn chắc”. Cái quần dài của cô ta, Hannah nghĩ, chỉ có thể giống như mẹ cô gọi, “quần mặc ở nhà”. Cô ta vận một chiếc áo len dài tay màu trắng bẩn thỉu và đi dép bông.
Hannah không được mời vào xa hơn chỗ hành lang chật hẹp. Trả lời cho các câu hỏi của cô, Paula Vincent nói, đúng, cô ta và John Brooks đã “cặp kè với nhau”. Họ sẽ kết hôn khi anh ta ly dị. Cô ta, Paula, là một góa phụ. Brooks thỉnh thoảng đến thăm cô ta vào ban đêm, chỉ khi anh ta lẻn đi được. Hannah ghi lại tất cả những điều đó, không nói gì cả, nhưng thầm nghĩ sao những người phụ nữ như thế này lại ngu ngốc đến thế. Nếu anh ta định ly dị, thì sao không nói với vợ từ sớm là mình đã có tình nhân? Bởi vì anh ta không hề định ly dị, dĩ nhiên rồi, anh ta là một kẻ lừa gạt như bao kẻ khác. Tóm lại, cô nghĩ về Bal, người mà mình sẽ cùng đi ăn tối trong năm tiếng nữa. Anh có khác không nhỉ?
Trên đường quay trở lại Kingsmarkham, cô đi ngang qua những người đang làm nhiệm vụ tìm kiếm, hầu hết bọn họ được chia thành các nhóm mười hai người hoặc các tình nguyện viên nhiệt tình dưới sự chỉ dẫn của một nhân viên cảnh sát. Cô vẫy tay về phía Lynn Fancourt và cách đấy nửa dặm là Karen Malahyde. Cô không thấy Burden nhưng anh ta đang ở đó với Cảnh sát điều tra Damon Coleman cùng bốn người dân, tìm hiểu các con phố, những làn đường và các không gian lộ thiên ở Pomfret. Trong khi Hannah quay trở lại căn phòng xảy ra án mạng trong hội trường làng Brimhurst, Lynn và Karen cùng với đội của họ di chuyển đến Sewingbury, còn Burden đưa nhóm của anh ta đến khu Stowerton lớn hơn và đáng gờm hơn.
Bóng tối sẽ buông xuống lúc chín giờ, vì thế công cuộc tìm kiếm ở những địa điểm không có ánh sáng chỉ có thể tiếp tục kéo dài đến chiều muộn. Burden về nhà ăn tối lúc sáu giờ ba mươi và quay trở lại Stowerton lúc bảy giờ mười lăm, đúng lúc Damon Coleman cùng Lynn Fancourt đang mở hộp bánh pizza ở một tiệm cà phê tại Sewingbury. Anh ta quay trở về khi trời bắt đầu tối dần.
Stowerton, có một khu công nghiệp lớn ở vùng ngoại ô và một mạng lưới phố xá nội thị đan xen lẫn nhau, được nối bằng sân hiên của các ngôi nhà nhỏ, ban đầu được xây dựng để cung cấp chỗ ở cho công nhân mỏ đá phấn, không phải là một địa điểm hấp dẫn. Đặc biệt, cư dân ở Kingsmarkham và Pomfret coi nơi này như một cái gai trong mắt, mặc dù hầu hết đều thừa nhận rằng diện mạo của khu vực đã được cải thiện rất nhiều khi những ngôi nhà nhỏ ở đường Oval, Rectangle và Pyramid được các cặp vợ chồng tiềm năng mua và nâng cấp. Họ thấy những cánh cửa trước được sơn mới rất vừa mắt - Wexford gọi cư dân ở đây là Cộng Đồng Cầu Vồng - các ô cửa sổ đầy nghệ thuật và cỏ cây hoa lá cùng các khuôn viên được cắt tỉa cho thấy dấu hiệu của nền văn minh. Stowerton nằm trong phạm vi đi lại của Luân Đôn nếu bạn không phiền dành hai tiếng mỗi ngày, năm ngày một tuần để ngồi, thậm chí là đứng, khi đi tàu.
Burden cùng với Lynn Fancourt, Damon Coleman và một nhóm nam nữ mặc thường phục đã rà soát những không gian lộ thiên và những khu vườn cỏ cây mọc tự nhiên hoặc um tùm. Nhưng thị trấn không hoàn toàn được cấu thành từ sự mở rộng của các nhà máy và các ngôi nhà gỗ có cấu trúc hai phòng trên - hai phòng dưới trị giá một trăm năm mươi nghìn bảng. Ở khu vực trung tâm, có niên đại từ khi nó còn là một chốn sang trọng của thế kỷ XIX, là các con phố được tạo nên từ những ngôi nhà xây dựng vào những năm 1840. Những khu vườn có tường bao dài ở dãy nhà Victoria quay lưng vào những khu vườn có hàng rào nhỏ ở đường Oval. Mặt tiền có cửa sổ khung kính dài, ban công viền đăng ten thanh lịch và những bậc thang lên tới cửa trước, hai bên là cột trụ. Chúng có thể đã từng xuất hiện ở Chekenham hoặc Bath và từng lộng lẫy như bất cứ thứ gì có thể so sánh được ở Kingsmarkham. Trải qua nhiều năm, chúng đã bị chia thành những căn hộ và phòng đơn hoặc bị chiếm đóng bởi các doanh nghiệp nhỏ đang gặp khó khăn mà không may là cần tân trang lại. Những ngôi nhà này gần đây đã được mua theo lô bởi một nhà phát triển bất động sản với dự định sẽ nâng cấp chúng. Giàn giáo được gắn với mặt tiền, toàn bộ bao phủ trong tấm lưới màu xanh lá cây. Chưa có thợ xây nào bắt đầu công việc, mặc dù gạch, gạch xỉ lò và những khung cửa sổ mới đã chất đống ở khu vườn phía trước.
Những khu vườn đằng sau dãy nhà Victoria trông giống như trảng cỏ sẽ nhanh chóng trở thành một rừng cây, những bức tường ngăn cách bị che khuất bởi cỏ cây mọc um tùm: những bụi gai, hoa hồng dại, dây thường xuân và cây ông lão mà tại thời điểm này trong năm, được bao phủ bởi những hạt phấn hoa mềm mịn như tơ. Burden và đội của anh ta lục soát khu vực hoang tàn này từ đầu chí cuối, đạp các cây tầm ma đổ rạp xuống rồi nâng những lưới bụi gai rối bù lên trong ánh nắng nóng bức của mặt trời sắp lặn. Họ tìm thấy các lon rỗng, tiền giấy, bao cao su, vỏ kem, chai bia, một chiếc giày cao gót, khay đựng đá trong tủ lạnh, ống tiêm, vé xổ số và một đũa DVD của Apocalypse Now. Chiếc giày đã mang lại chút hứng thú cho đến khi Lynn chỉ ra rằng kích cỡ của nó là 41 trong khi Megan đi giày cỡ 38.
Hoàng hôn chầm chậm buông xuống và họ sẽ sớm cần đến những chiếc đèn trợ giúp.
“Chúng tôi coi thế là xong một ngày”, Burden nói.
Một người phụ nữ không bao giờ nên ăn diện vì một người đàn ông. Hannah tin chắc điều này. Đó là một trong những nguyên tắc sống của cô. Vì một điều, đàn ông không bao giờ để ý đến những gì phụ nữ mặc, họ chỉ quan tâm xem cô ta có xinh đẹp hay không, và thêm lý do nữa, tại sao phải thỏa mãn đàn ông theo cách này khi tâm trí họ không thể nảy ra ý định mua một bộ đồ mới để mặc trong ngày hẹn hò? Cô tin vào nguyên tắc ấy và thường tôn trọng nó. Ngày hôm nay thì khác, mặc dù dĩ nhiên không nên làm khác đi so với nguyên tắc của bản thân. Nhưng đúng là vậy. Cô thừa nhận với bản thân mình khi đã đi tắm đến lần thứ ba trong ngày nóng bức này rằng cô thật sự nghĩ Bal sẽ khá là khó chịu nếu cô làm vậy, và tốt nhất là nên xác định rõ ràng mối quan hệ ngay từ đầu. Giống như tối nay. Do đó, dù quy tắc hay không, cô sẽ mặc bộ cánh gợi cảm nhất mình có, trang điểm thật kỹ càng và dành thêm năm phút để vuốt thứ dầu dưỡng mới này lên tóc.
Bởi vì rất cao nên cô lo lắng việc mang giày sẽ làm mình cao hơn Bal một cái đầu nhưng ngay khi ý nghĩ đó xuất hiện, cô đã khiển trách bản thân mình tại sao lại nghĩ vậy. Tại sao phải rơi vào cái bẫy đó? Có nhà cầm quyền hay thế lực nào hoặc thẩm phán tuyên bố rằng đàn ông phải cao hơn phụ nữ? Ngay cả khi có thế lực đó đi chăng nữa, thì nó cũng đã lỗi thời và vô tác dụng rồi. Cô xỏ chân vào đôi giầy cao gót cao nhất của mình; màu đen tinh tế và không có quai sau, nó khiến việc đi bộ trở nên rất khó khăn nhưng cô không định đi bộ nhiều. Xức loại nước hoa Cashmere Mist của Donna Karan và trang điểm nhẹ, cô đã sẵn sàng đi gặp Bal. Dĩ nhiên, không cần chính xác lúc bảy rưỡi, để thích hợp cho một người phụ nữ không muốn trông có vẻ quá hào hứng, thì nên là tám giờ kém hai lăm.
Khi đi được nửa đường đến nơi dùng bữa tối, Hannah lái cuộc trò chuyện tránh xa khỏi chủ đề công việc. Lúc đầu, chỉ là tự nhiên họ nói về chuyện đó vì công việc là thứ mà hai người cùng quan tâm. Từ tội phạm và quản lý tội phạm, câu chuyện đã nhanh chóng chuyển sang nhân cách của những sĩ quan cấp thấp hơn họ và Hannah không ngần ngại thảo luận về tính cách của Wexford với một ai đó là cấp dưới của mình. Sau cùng, cô không nói gì ngoại trừ khen ngợi anh ta. Không cần thiết phải đề cập đến thái độ lỗi thời của anh ta với một vài thứ cụ thể, trong đó chủ yếu là ngôn ngữ, và niềm yêu thích đặc biệt của anh ta đối với sách qua video, đĩa DVD và CD, rốt cuộc cũng chẳng đáng ngạc nhiên.
Nhưng sau nửa tiếng, cô cảm thấy rằng, nói theo cái cách cô ưa thích, đã đến lúc chuyển sang gian đoạn mới. Cô đã uống khá nhiều rượu nhưng không phải rượu khiến cô cảm thấy say tình. Chỉ một cái nhìn của Bal là đã đủ rồi. Dĩ nhiên, anh còn phải lái xe nên đã tự xác định sẽ chỉ uống nửa chai Chablis và sau đó uống nước suối. Nhưng tại sao lại là “dĩ nhiên”? Họ sống không xa nhau. Cô đã đến nhà hàng bằng taxi và họ có thể đi chung xe về nhà. Cô cảm thấy khó chịu một cách vô lý bởi vì Bal, mặc dù đã mỉm cười với cô vô cùng ngọt ngào trên bàn ăn, nhưng lại không chịu đặt tay lên tay cô, mặc dù bàn tay cô vẫn để trên mặt bàn ăn. Cũng không nhìn vào mắt cô lấy một lần. Có lẽ chẳng đáng ngạc nhiên khi anh đang nói chuyện một cách say mê về thái độ thân thiện của Thanh tra Burden đối với đội của anh ta và liệu Hannah có nhận ra rằng anh ta hoàn toàn trái ngược với những tay thanh tra thô lỗ cục cằn trên truyền hình.
Cô hướng cuộc nói chuyện về đời tư cá nhân của họ và biết rằng cha mẹ của Bal sống ở Somerset. Cha anh là kế toán viên, và mẹ anh - chà, bà chưa bao giờ đi làm ngoại trừ việc làm mẹ của anh và các anh chị em của anh, cũng như làm vợ của cha anh. Hannah không chấp nhận việc này, dĩ nhiên, nhưng giờ không phải lúc để nói thế. Cô thậm chí còn hoảng sợ hơn khi biết rằng chị gái anh đã có một cuộc hôn nhân sắp đặt. Cô không thể nào che giấu nổi cú sốc của mình.
Bal cười. “Tôi nói là ‘sắp đặt’, chứ không phải ‘ép buộc’.” “Cũng như nhau cả thôi…”
“Vấn đề là, Hannah ạ, chúng không giống nhau. Lamila và chồng không biết nhau nhưng họ được giới thiệu với nhau và thực tế là họ đã cảm mến nhau ngay từ lần gặp đầu tiên. Nếu chị ấy không thích anh ta hay anh ta không thích chị ấy thì cũng chẳng sao hết. Không có sự ép buộc. Tôi không thấy điều này khác biệt với việc gặp gỡ ai đó thông qua một trung tâm mai mối, ngoại trừ cách làm của chúng tôi an toàn và, chà, đứng đắn hơn. Lamila và Kanti rất hạnh phúc, chị ấy còn sắp sinh em bé. Nó sẽ là đứa cháu đầu tiên của bố mẹ tôi. Cô không thể tưởng tượng được họ đã mừng đến thế nào đâu.”
“Anh có định làm thế không? Có một cuộc hôn nhân sắp đặt ấy?”
“Chúng ta đang không nói về tôi”, anh nói và cô nghĩ, không, chúng ta chưa thôi. Không có gì. Chỉ là về gia đình anh. Không một lời nào về những gì anh muốn, mục tiêu và mơ ước của anh. Không có gì về những người bạn gái mà anh hẳn phải có rất nhiều. Với ngoại hình kia, anh hẳn đã phải xua đuổi hết bọn họ. “Giờ đến lượt cô kể về câu chuyện của đời mình”, anh nói, rót thêm rượu cho cô.
Cô ít dè dặt hơn anh. Điều cuối cùng cô muốn là làm cho anh có ấn tượng rằng cô bị thuyết phục vì cách sống của chị anh, hoàn toàn trinh trắng không tì vết cho đến khi cuộc hôn nhân sắp đặt được tổ chức xong xuôi. Cô nói về “những mối quan hệ” mình có, những mối quan hệ cô đã phải “bắt giam” và những mối quan hệ mà chạm mặt nhau nhiều đến nỗi trở nên bình thường. Thật là nghiêm trọng nếu như anh hiểu ý cô muốn nói là mình chỉ quan tâm đến những mối quan hệ cộng sự sâu sắc về lâu về dài. Các khái niệm về chuyện tình nhẹ nhàng nhưng đầy đam mê là những gì cô muốn gửi gắm vào tâm trí anh. Khi cô nói, cô chú ý đến nét mặt của anh nhưng biểu hiện trên đó vẫn dễ chịu và thân thiện không hề thay đổi. Dường như anh thấy hứng thú nhưng không để tâm.
Hannah được mời rượu và kem tráng miệng kiểu Ý nhưng cô từ chối, thay bằng cà phê không có caffeine. Để trở nên gợi cảm là một chuyện, nhưng đi đứng không vững trên đôi chân và - ý nghĩ thật khủng khiếp! - nấc, lại là chuyện hoàn toàn khác. Tối nay ấm đến nỗi cô không mang theo áo choàng để anh khoác giúp cô, vì thế Bal không có cơ hội nào để vòng tay anh qua vai cô. Bên ngoài nhà hàng đã được thắp sáng, nhưng bãi đỗ xe lại hơi tối. Bãi đỗ xe của thị trấn không có chỗ dành cho hạng chim chuột nhau nhưng ở miền quê này thì có thể lại khác, nó được bao kín bởi những hàng rào, bởi tán lá đung đưa trên các nhánh cây to, thậm chí chẳng hề có xe đỗ, ngoại trừ tối thứ Bảy. Đi ngang qua bãi cỏ và đứng dưới một vòm thủy tùng, Bal đã có thể cầm hoặc khoác tay cô nhưng anh không làm thế. Thậm chí anh còn chủ động mở cửa xe mà không chạm vào vai cô.
Suy nghĩ đầu tiên của một phụ nữ như Hannah là phải chăng cô đã chọn phải một tên đồng tính. Cô biết Bal không phải vậy, mặc dù chẳng thể nói chính xác tại sao cô lại biết. Nếu có ai khác nói với cô rằng cô “chỉ mới rung rinh”, cô sẽ khinh thường câu trả lời này, nhưng đó là cách mà nó đang xảy ra với cô. Cô đã rung rinh; cô biết điều đó. Khi họ ở đằng sau căn hộ của cô, dĩ nhiên mọi thứ sẽ dễ dàng hơn. Cô đã đặt một chai champagne vào tủ lạnh từ lúc chiều. Mặc dù những tấm ga trải giường vừa mới được thay hai ngày trước, cô vẫn thay lại bằng những tấm mới tinh. Anh sống cách đây chỉ một phần tư dặm và trong bất kỳ trường hợp nào, sẽ chẳng vấn đề gì dù anh có uống bao nhiêu đi chăng nữa vì anh vẫn sẽ dành cả đêm với cô.
“Anh có vào nhà không, Bal?”
Anh dừng xe ở bên ngoài Drayton Court và khiến tim cô suýt bắn khỏi lồng ngực khi anh rút chìa khóa ra khỏi ổ. Trên suốt quãng đường về nhà, một giọng nói cứ liên tục thì thầm, nhưng nếu anh nói không thì sao? Anh nói có, mở cửa xe cho cô và đi qua cổng vào đến khu vườn của căn hộ. Trái tim cô nảy lên lần nữa khi anh xoay và bấm điều khiển khóa cửa xe lại. Anh sẽ không làm vậy nếu không có ý định gặp cô trên lầu và khám phá không gian riêng tư của cô.
Nhưng khi đi vào chưa xa và cũng chưa lâu, anh lại bảo mình không muốn uống thêm.
“Cô biết rồi đấy, Hannah. Khi chúng ta đi quá giới hạn thì tất cả sẽ kết thúc. Điều này không giống như giữa những người bình thường để có thể vượt qua.”
“Nửa cốc sẽ không làm anh đi quá giới hạn đâu.”
Họ ngồi kế bên nhau trên sofa. Trước cái nhìn năn nỉ của cô, anh đặt một tay lên đầu gối cô, nghiêng người về phía cô, mỉm cười và lắc đầu. Cô cảm thấy bủn rủn, không phải bởi vì đồ uống mà bởi bàn tay thon dài trên chân cô.
“Anh không cần phải về.” Cô chưa bao giờ tin được rằng mình cảm thấy thiếu tự tin đến vậy, rụt rè đến vậy, cô nhận xét về bản thân, so với những trường hợp khác trong rất nhiều lần trước đó. “Anh có thể ở lại đây.” Anh lắng nghe, một bên lông mày nhướng lên. “Với em”, cô nói.
Bất thình lình anh dường như trở nên già dặn hơn cô rất nhiều chứ không phải trẻ hơn cô một hay hai tuổi nữa. Với bàn tay đang dừng lại trên đầu gối của cô, anh nâng bàn tay cô lên và đưa nó đến môi mình. Sau đó anh đứng dậy.
“Anh vô cùng hãnh diện. Em là người phụ nữ xinh đẹp nhất mà anh biết, Trung sĩ Goldsmith ạ. Và rất tuyệt vời.” Anh hôn lên má cô. “Anh sẽ đi bây giờ nhưng đến một lúc nào đó, sớm thôi, anh sẽ nói cho em biết tại sao mình không thể qua đêm với em.”
Im lặng, cô gật đầu.
“Anh không phải đồng tính và cũng không lăng nhăng với ai khác. Chúc ngủ ngon.”
Khi họ đi vào dãy nhà Victoria và đang tiến về phía chiếc ô tô lẫn xe tải thì một phụ nữ luống tuổi bước đến gần, nhưng không phải để tìm Burden hay Sĩ quan Peach. Sau đó Burden đã cảm thấy rất biết ơn vì “bộ đồng phục”. Nếu tất cả mọi người trong đội của anh đều mặc thường phục thì phát hiện của họ rất có thể đã bị trì hoãn mất vài tuần. Người phụ nữ - đang ai oán khẩn nài đội cứu hộ trèo lên cứu con mèo thất lạc của bà ta - sẽ không bao giờ, anh chắc chắn, dám tiếp cận họ nếu bà ta không trông thấy chiếc áo khoác xanh đen đáng tin và dễ chịu, những chiếc quần dài và mũ có đính bốn số hiệu của họ.
Bà ta cho biết tên mình là Lyall, Pauline Lyall. “Tôi không yêu cầu các anh tìm con mèo”, bà ta đang nói. “Tôi biết nó đi đâu. Tôi có thể tìm được nó. Nhìn kìa.”
Burden nhìn theo. Trời vẫn đủ sáng để nhận thấy được, trong khoảng trống giữa các tấm lưới màu xanh lá cây, xuất hiện hình dáng màu trắng pha cam của một con mèo lớn nơi bậu cửa sổ tầng trên. Con mèo ngoác cái miệng rộng trông như đang không ngừng than khóc. Điều cuối cùng anh muốn làm vào thời điểm này là tìm cách nào đó để vào nhà bắt, mặc dù hơi khó khăn, con vật ngốc nghếch ấy. Burden không thích mèo. Nhưng dĩ nhiên là họ phải vào, không còn sự lựa chọn nào khác.
“Lối nào tốt nhất để lên đó, Sĩ quan Peach?”, anh nói. “Cửa sau, thưa ngài. Nó trông có vẻ không chắc lắm. Tôi đã để ý điều đó khi chúng ta ở phía sau.”
Chủ nhân của con mèo hỏi liệu bà ta có thể đi theo không. Bà ta sẽ đem lại rắc rối, anh nghĩ, nhưng mặt khác sinh vật kia dường như lại muốn tiến về phía bà ta hơn bất kỳ ai trong số họ. “Được thôi”, anh nói. “Đi xem một chút vậy.”
Lynn Fancourt, Damon Coleman và những người còn lại đến căn nhà. Burden, Peach và Pauline Lyall đi vòng ra sau, băng qua những đám cỏ dại mọc cao tới ngang eo, phát quang những bụi gai và tầm ma mọc tua tủa. Còn cách bốn bước nữa là đến cánh cửa sau của ngôi nhà số bốn. Những tấm ván gỗ được đóng chéo trên cửa, bên trong là một tấm kính. Burden không muốn đập vỡ cửa kính và cũng không cần thiết, vì những tấm ván gỗ đã bị cậy ra nên có thể dễ dàng mở được cửa, chốt cửa cũng đã bị gãy. Họ bước vào một căn bếp lớn, được trang bị theo phong cách thập niên 50. Khi họ bước vào hành lang dẫn đến một cầu thang uốn lượn nhìn rất trang nhã, có thể nghe thấy rõ tiếng kêu của con mèo.
“Ồ, tội nghiệp Ginger”, bà Lyall kêu lên. Bà ta nhanh nhẹn hơn vẻ bề ngoài và bắt đầu chạy thẳng lên gác.
Burden trước kia chưa từng học về phong cách thanh lịch thời Victoria hoặc thích thú để mắt đến những đường gờ trên trần, các hốc tường cong và lan can cầu thang uốn lượn - tất cả những thứ vốn đều đã xơ xác, hỗn loạn và đổ nát. Ngôi nhà phảng phất mùi gỗ mục cùng nước tiểu, và một mùi gì khác mà Peach nghĩ là chuột. “Thứ đã khiến Ginger tìm đường đến đây, thưa ngài”, Peach thêm vào.
Burden không quan tâm đến động cơ của Ginger, và cũng không quan tâm đến mùi chuột. Anh đã từng ngửi thấy nó trước kia và hy vọng rằng mình sẽ không bao giờ ngửi lại mùi này nữa. Tò mò về những gì ở trên lầu, anh theo Peach đi lên. Nhưng chẳng có gì cả - ngoại trừ mùi. Tất cả những cánh cửa ở ba căn phòng trên tầng đều mở toang, bà Lyall đứng ngay bên trong căn phòng lớn nhất, ôm con mèo có kích cỡ của một con linh miêu trong vòng tay và ngâm nga nhẹ nhàng với nó.
“Tôi không thể diễn tả được lòng biết ơn của mình lúc này.”
Anh muốn bà ta ra khỏi đó. Dĩ nhiên, đấy cũng chỉ là suy nghĩ của anh mà thôi… “Tôi muốn biết địa chỉ của bà, thưa bà, nếu bà cho phép.”
“Ồ vâng, rất hân hạnh. Số năm mươi hai đường Oval.”
“Vâng, và sau đó. Nếu bà đem Ginger - phải tên nó thế không? - về nhà, chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để khóa nơi này lại.”
Gọi với lại để cảm ơn, bà ta xuống lầu, mang theo con mèo. Burden nghe tiếng chân bà ta bước ra ngoài cửa sau.
“Nó phải ở đâu đây”, anh nói với Peach. “Tôi không cho rằng đèn đóm trong này còn hoạt động, phải không?”
“Không, thưa ngài. Tôi đã cố.”
“Tôi sẽ gọi thêm viện trợ. Và cả đèn nữa.”
Khi Burden triệu tập thêm người, họ lục soát những căn phòng trên tầng. Mỗi phòng có một cái tủ, chiếm một không gian khá lớn, gần như to bằng chính căn phòng đó, nhưng chẳng có gì trong đấy ngoài những cuộn thảm, những cuộn giấy dán tường và một con chuột chết. Peach nghĩ rằng con chuột này đã minh chứng cho lời nói của anh ta nhưng anh ta cũng phải thừa nhận rằng đó không phải là thứ họ muốn tìm. Lúc này trời đã tối, nguồn sáng duy nhất đến từ những ngọn đèn đường trên các cột nhà nhưng đã bị chặn lại bởi những tấm lưới, một vệt sáng vàng xanh kỳ dị trải dài trên nền nhà và mặt tường như một vết sơn mạ vàng. Họ lên tầng tiếp theo, tiếng chân vang vọng trên những mặt sàn không được trải thảm, càng tiến tới gần thì mùi càng nồng nặc. Cái nóng ngột ngạt gần như không thể chịu đựng được và Burden, một người đàn ông khó tính, cảm thấy mồ hôi lăn xuống hai bên sườn, thấm ướt cả cái áo màu sò của mình. May thay, trời quá tối nên chẳng thể nhìn thấy những mảng ẩm ướt đó. Anh nghĩ rằng từ giờ về sau bất cứ khi nào nhìn thấy cái màu xanh vôi chua loét này, anh sẽ liên tưởng ngay đến mùi của cái chết.
Phía trên cùng tầng lầu là một đầu cầu thang, nơi ba cánh cửa mở toang. Khi mở cánh cửa đầu tiên, anh cảm thấy một nỗi khiếp sợ mạnh mẽ đến nỗi không thốt nên lời. Căn phòng rất trống trải, một khối hình chữ nhật với ánh sáng crom chứa lưu huỳnh nằm dọc theo sàn gỗ, màu vàng da. Xa xa phía góc phòng, bên kia những đồ gốm tráng men màu vàng và sâu trong bóng tối, anh có thể nhìn thấy một cánh cửa với núm tròn và một lỗ khóa.
“Ai đó đã khóa và đem chìa đi.”
“Một cái tủ, phải không, thưa ngài? Ngài có muốn tôi phá cửa không?”
“Kiểm tra ổ khóa trước đã.”
Dĩ nhiên đã bị khóa. Peach huých vai vào cánh cửa và đến lần thứ hai thì nó bung ra, mở toang. Burden phải thừa nhận rằng mùi tỏa ra từ đây còn kinh khủng hơn trước đó. Đôi mắt anh đã quen với bóng tối, nên có thể phân biệt được các thứ bên trong. Anh có thể nhìn thấy ánh sáng đèn màu mật lóng lánh trên mái tóc vàng dài rồi, bịt mũi bằng chiếc khăn tay, anh bước về phía trước để nhìn rõ hơn khi bước chân của những người trợ giúp vang lên trên cầu thang.
Dưới ánh sáng của những chiếc đèn họ mang đến, xác của một cô gái ở tư thế ngồi sụp xuống đang dựa vào bức tường phía sau tủ. Mái tóc, thứ mà trong bóng tối lờ mờ trông bóng loáng, thậm chí là rực rỡ, giờ tạo thành từng vệt bê bết máu khô. Một lớp bụi gạch màu đỏ thẫm hiện lên trên mặt cô ta và vấy luôn cả vào chiếc áo phông màu đen mà cô ta đang mặc. Chân cô ta vẫn đang đi một đôi xăng đan cao gót màu trắng và chiếc túi xách cũng màu trắng vẫn đang khoác một bên cánh tay.
Burden đã từng nhìn thấy loại túi xách này trước đó nhưng nó được làm bằng da đen, trang trí với khóa mạ vàng và đinh tán, được thêm thắt bằng những chiếc ví với đốm phát quang nhỏ, trên tay của Sandra Warner, mẹ của Megan Bartlow.