Prinsip, ngồi dưới bức tranh hình khối, từ cái cách anh ta di đi di lại đôi giày đinh nặng nề của mình trên tấm thảm, dường như anh ta đang quyết tâm muốn khoét thủng nó. Hành động này đã chọc tức Sandra Warner đến nỗi phải kêu anh ta ngừng lại.
“Tôi không thể. Nó khiến tôi lo lắng”, anh ta nói. “Đó là những gì tôi đang cảm thấy.”
“Tôi cũng cảm thấy thế”, Sandra nói.
Kể từ lần cuối gặp Wexford, bà ta đã nhuộm tóc thành màu đen tuyền. Có lẽ không phải vì đám tang, ý tưởng quá kỳ lạ, nhưng với anh, đó dường như là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Những chiếc khuyên lớn làm bằng vàng, và đều có kích cỡ to bằng cái vòng, treo lủng lẳng trên hai tai bà ta. Bà ta mặc một cái váy ngắn màu đỏ và áo phông bó sát. Cả bà ta và Prinsip đều liên tục hút thuốc. Những đề xuất biến khu vực đồn cảnh sát Kingsmarkham thành một nơi không có khói thuốc đã liên tục được đưa ra nhưng với sự phản đối từ Cảnh sát trưởng, vốn cũng là một người hút thuốc, và từ Wexford, người coi chuyện đó có chút tàn nhẫn, đã bị trì hoãn vô thời hạn. Hiện giờ, anh nghĩ, mình đang phải trả giá cho sự khoan dung của bản thân đối với thứ dường như là nguyên nhân dẫn đến bệnh hen suyễn.
Anh cố gắng không ho, nhưng điều đó càng khiến cơn ho của anh tồi tệ hơn. Đương nhiên, Prinsip và Sandra nghĩ rằng anh đang làm bộ và Prinsip lại đốt một điếu nữa từ bao thuốc cuối cùng, tiếp tục chà xát chiếc giày bên phải của mình lên thảm.
Thấy Wexford tạm thời mất khả năng nói, Burden lên tiếng hỏi, “Các vị không nghĩ được gã này có thể là ai à?”
“Tôi, tôi vừa nghĩ ra”, Prinsip nói. “OK. Chúng tôi đang lắng nghe đây.”
“Hắn giống như một người cha, phải không?” “Người cha?”
Hất nhẹ mái tóc đen dài về phía sau, Sandra trả lời thay anh ta. “Các anh không muốn nghe cậu ta nói đâu. Cậu ta giống như bị ám vậy. Cậu ta bị ám ảnh rằng có một thằng cha nào đó mà Meg đã gặp gỡ và đó là cha của đứa bé nó đang mang trong mình. Chà, các vị không thể đổ lỗi cho cậu ta được, đúng không? Đấy hẳn phải là một ai đó.”
“Vậy ý của bà, bà Warner, là người đàn ông này”, Burden lưỡng lự khi anh quyết định xem mô tả như thế nào là tốt nhất, “đang... ờ, có quan hệ với Megan?”. Anh ta quay đi, không nhìn thấy Wexford đang nhăn mặt. “Anh Prinsip?”
“Dĩ nhiên là thế”, Prinsip nói. “Còn gì nữa không? Nếu hắn dám đến gần tôi, tôi sẽ giết hắn ngay.” Mặc dù rất chậm rãi, Keith Prinsip dường như nhận ra một cách lờ mờ rằng thật không khôn ngoan khi nói những lời như vậy trước mặt hai cảnh sát. Anh ta sửa lại, “Tôi sẽ khiến hắn phải hối hận”, anh ta thêm vào, “Hắn sẽ không dám tái phạm đâu”.
Tin rằng nên bảo vệ đức hạnh của con gái mình, Sandra nói, “Không có chuyện đó đâu. Gã này có thể là một khách hàng con bé đã từng gặp ở cửa hàng trước đó. Tôi tin rằng đứa bé trong bụng của nó là con Keith. Tất cả mọi người đều biết thực tế là việc thắt ống dẫn tinh không phải lúc nào cũng thành công một trăm phần trăm”. Bà ta mỉm cười trìu mến với Prinsip. “Đối với một gã còn trẻ mà lại sung sức như Keith”.
Prinsip trẻ và sung sức thở dài nặng nề, mặt xám ngoét và chảy xệ, ngực lõm xuống và đôi tay run rẩy. “Thôi ngay cái trò mà anh đang làm với cái thảm đi Keith”, Sandra nói, “hút thêm điếu nữa đi. Và có thể đưa tôi một điếu”.
Lấy giọng chỉnh tề, Wexford nói, “Chúng tôi tin rằng gã đàn ông này là kẻ đã giết Megan. Tôi biết tất cả những điều đó khiến cả hai vị cảm thấy đau lòng nhưng tôi nghĩ mình cần phải giải thích. Chúng tôi tin là Megan đã thấy hắn trở ra từ phía cầu Yorstone xuyên qua cánh rừng nơi mẹ bà sinh sống, bà Warner. Có khả năng là cô ta đã đe dọa sẽ báo cảnh sát nếu hắn không trả công cho sự im lặng của cô ta. Tôi rất tiếc khi phải nói với bà điều này.”
Hối hận là một điều không cần thiết vì Sandra chẳng hiểu anh đang nói gì cả. “Chẹp, tôi chẳng hiểu anh đang nói cái gì. Ai là thằng cha kia?”
Burden thở dài, nhưng giấu đi. Khuôn mặt anh vẫn hiện vẻ bình tĩnh và kiên nhẫn. “Chúng tôi hy vọng các vị có thể nói cho chúng tôi biết, bà Warner ạ.” Anh ta hết nhìn Sandra rồi nhìn sang Prinsip và quay lại phía bà ta. “Megan có đề cập đến chuyện này với cả hai - hay một trong hai người không? Cô ta có bao giờ nói rằng mình đã thấy một người đàn ông mà nghi ngờ là có liên quan đến vụ tai nạn xe hơi dưới cầu Yorstone không? Cô ta không nói gì về người đàn ông trong rừng vào buổi tối cô ta đến nhà bà Morgan ư? Không có gì giúp nhận ra hắn khi cô ta thấy hắn lần nữa à?”
“Đối với tôi điều đó chẳng có nghĩa lý gì cả”, Prinsip nói. “Tôi cũng thế, Keith.”
Một tảng bê tông, một viên gạch, có có thể là hai loại gạch khác nhau... “Bà có biết ai làm trong lĩnh vực xây dựng không, bà Warner?”, Wexford hỏi. “Megan có biết không? Còn ông nữa, ông Prinsip?”
“Chỉ có ông Lee nhà tôi”, Sandra nói, “và ông ấy đã không còn làm ngành đó suốt từ hồi ông ấy thôi việc năm chín sáu”.
“Tôi nghĩ cô ta chỉ vô tình thấy hắn trên phố”, Burden nói sau khi rời khỏi. “Gặp hắn và nhận ra hắn là người mình đã thấy trong rừng.”
Wexford tiếp tục dựng lại kịch bản. “Chúng ta phải nhớ rằng lần đầu tiên trông thấy hung thủ, có thể cô ta không biết hắn. Hắn chỉ là một người đàn ông đi bộ xuyên qua rừng vào buổi tối. Trời rất tối và cô ta, nếu không sợ hãi thì cũng có đôi chút hoảng hốt, đã nhận ra sự xuất hiện của hắn. Điều này lý giải tại sao cô ta chú ý tới hắn. Tôi dám cá rằng về sau cô ta sẽ không nhớ ra hắn nếu không trông thấy hắn lúc ban ngày ban mặt tại High Street ngoại trừ việc cô ta thấy hắn trong rừng tối. Thấy hắn, không nghi ngờ gì nữa, bằng chiếc đèn xe đạp.”
“Thế sau đó, cô ta gặp lại hắn ở đâu?”
“Nếu biết được điều ấy, chúng ta sẽ tiến gần hơn tới câu trả lời cho tất cả chuyện này.”
Sau đó họ tới văn phòng của Wexford, một căn phòng có những bức màn che lát gỗ mỏng đã kéo xuống nửa chừng từ hàng tuần nay để che ánh nắng chói chang. Sáng nay ánh nắng trái mùa lần đầu tiên bị bao phủ trong một lớp mây mỏng và giờ bị che khuất trong đám mây tích1. Wexford mở các bức màn che, sau đó kéo chúng lên để thấy được bức tranh toàn cảnh bầu trời của những đám mây giống như các dãy núi, trông như nhìn từ trên máy bay xuống những làn hơi nước màu trắng, xám và tím phập phồng thành một cảnh quan tuyệt vời.
1 Các đám mây thuộc về một lớp được đặc trưng bởi sự tích tụ các thành phần riêng rẽ trong dạng các đám mây bồng bềnh, đống hay tháp, với phần đáy phẳng và phần đỉnh thông thường có hình giống như cây súp lơ.
“Trời vẫn nóng”, anh nói, “Chúng ta chưa hoàn thành một, chà, một bài phân tích tính cách về gã đàn ông chúng ta đang tìm kiếm. Đó là một gã đàn ông, đúng chứ?”.
“Tôi nghĩ vậy. Chúng ta nên giả định rằng đó là một người đàn ông trong khi để ngỏ khả năng rằng đó có thể là một phụ nữ cực kỳ khỏe mạnh.”
“Hắn trẻ, tầm tuổi trung niên, tôi nghĩ vậy. Bốn mươi hoặc hơn chút. Hắn biết rõ vùng này. Hắn có xe con hoặc xe tải. Có thể thất nghiệp. Mặt khác, bằng cách này hay cách khác, hắn đã tham gia vào một số phi vụ bất hợp pháp.”
“Vận chuyển ma túy”, Burden nói.
“Delenda est Carthago. Hắn đã làm chuyện gì đó phạm pháp. Đấy là động cơ khiến hắn cố sát hại Amber vào tháng Sáu, và giết cô ta vào tháng Tám.”
“Nhưng không phải động cơ để sát hại Megan sao?” “Chúng ta đều nhận định được động cơ để sát hại cô ta là bắt kẻ tống tiền phải câm họng.”
“Nhưng điều đó không đúng”, Burden phản đối. “Hai cô gái đều quen biết nhau. Họ cùng nhau vận chuyển ma túy đến Frankfurt. Làm ơn đừng nói mấy thứ kiểu ‘hủy diệt’ vớ vẩn gì đó nữa đi. Họ đến Frankfurt cùng nhau vì mục đích công việc. Không phải họ vốn là bạn bè mà họ biết nhau, không nghi ngờ gì, thông qua Lara - em gái của Megan. Cả hai người đều biết hung thủ. Hung thủ cũng biết họ. Hắn bảo họ đi chuyến đó. Điều này có nghĩa là khi Megan thấy hắn trong rừng thì cô ta đã biết hắn rồi. Có thể nói, hắn là người thuê cô ta.”
“Vì thế?”
“Cô ta vẫn dám tống tiền hắn ư? Cô ta biết hắn là một kẻ buôn lậu tàn bạo. Cô ta hẳn phải biết rõ những gì hắn có thể làm được. Thực tế là, cô ta biết. Cô ta biết hắn đã cố giết Amber lần đầu tiên, và sau đó đã thành công.”
Wexford ngồi xuống đằng sau bàn làm việc. Không khí trở nên nặng nề. Anh bắt đầu có cái cảm giác một vài người phải chịu khi áp lực không khí bất thình lình ép xuống, mệt mỏi, mạch đập dồn dập. “Không đúng, Mike ạ”, anh nói, “việc anh khẳng định là có liên quan đến ma túy ấy, và rằng hung thủ đã thuê hai cô gái vận chuyển ma túy cho hắn. Ồ, tôi biết hai người họ có khả năng đã làm điều gì đó mà họ không nên làm, chắc chắn đấy, nhưng không có tay mua bán ma túy nào dính vào cả, không có nhân vật tàn bạo nào trả tiền cho họ để vận chuyển các chất hạng A tới Đức cả. Anh có bao nhiêu đầu mối ma túy cũ để tra hỏi rồi?”.
“Hai mươi chín”, Burden nhanh chóng nói.
“Và anh có thấy một lời nào từ bọn chúng ám chỉ Amber và Megan không? Không có, đúng không?”
“Bởi vì anh nói thế, nên không.”
“Những cô gái này không biết hung thủ, không ai trong cả hai người biết cho đến khi Megan trông thấy hắn trong rừng. Cô ta không nhận ra hắn, cô ta chưa từng thấy hắn trước đó. Một thời gian sau - có thể là vài tuần sau - cô ta đọc tin tức hoặc có ai đó đã kể với cô ta về tảng bê tông rơi từ trên cầu cùng vụ tai nạn xe hơi có liên quan đến Amber. Lúc đó cô ta nhận ra rằng người đàn ông cô ta đã nhìn thấy có thể là hung thủ. Thời gian trôi qua, vài tuần sau nữa, và trong suốt thời gian ấy, có thể hai cô gái đã gặp nhau vì lý do nào đấy, họ đã đi du lịch tới Frankfurt cùng nhau trước đó. Rồi Amber bị giết. Môt ngày hoặc một tuần sau đó, Megan nhìn thấy hung thủ - trên phố, trong cửa hàng, khi đang lái xe - và nhận ra hắn. Cô ta tìm thấy nơi hắn sống và họ gặp nhau. Có thể hắn đã trả tiền cho cô ta một lần nhưng hung thủ không muốn phí thời gian. Khi cô ta yêu cầu trả tiền lần thứ hai thì hắn hạ sát cô ta. Đúng chưa?”
Burden gật đầu, tỏ vẻ hoài nghi. Anh ta quay sang, đưa mắt nhìn xa xăm về phía cửa sổ, tựa như nghe được tiếng súng nổ trong một thành phố xa xôi đang trong vòng vây hãm và tiếng sấm rền. “Giờ sao?”, anh ta nói, bước tới cửa và bỏ ngỏ câu hỏi chưa có ai trả lời. Wexford đứng ở nơi anh đã bị bỏ lại, nhìn từ bầu trời vần vũ mây xuống đám cỏ úa vàng, những chiếc lá khô rơi xào xạc cùng con đường bụi bặm, và thấy Lara Bartlow băng qua phố High Street rồi đi vào sân trước đồn cảnh sát. Anh không bảo cô ta đến đây. Không ai bảo cả. Cô ta tự mình đến. Một làn sóng phấn khích dâng trào khiến anh nhấc điện thoại lên và yêu cầu viên trung sĩ đang trực đưa cô Bartlow lên thẳng đây.
Cô ta đang vận một chiếc quần đen tương tự. Chiếc áo phông trắng rất trắng và khuôn mặt hoàn toàn không trang điểm. Cô ta sải chân bước vào, không lúng túng, không do dự.
“Tôi có được phép ngồi xuống không?”
“Tại sao cô không ngồi ở cái ghế kia?” Wexford trở lại đằng sau bàn làm việc. “Tôi sẽ ngồi đây. Cô có gì muốn nói với tôi sao?”
“Có vài điều tôi đã nên nói nhưng lại thôi. Ý tôi là cái ngày chúng ta gặp gỡ trong xe của các ông ấy. Khi các ông đưa tôi đến trường.” Cô ta ngừng lại, nhìn chằm chằm vào anh. “Lúc đó Megan chưa chết.” Cô ta tự chỉnh lại lời mình. “Vâng, lúc đó chị ấy đã chết nhưng tôi không biết điều đó. Tôi đã không muốn nói về chị của mình. Nhưng người ta không thể - vâng, phản bội, ý tôi là vậy - người ta không thể phản bội người đã khuất, đúng không? Mặc dù tôi ước gì chị ấy đã không ở cùng với Prinsip. Tôi ước gì chị ấy đá anh ta trước.”
“Cô biết Megan đã có thai, phải không cô Bartlow?” “Làm ơn gọi tôi là Lara. Ồ, tôi biết chứ. Meg không nói với tôi điều đó. Nhưng mẹ tôi đã nói. Đó không phải là con của Keith, tôi mừng vì điều đó, dù không biết tại sao mình nói vậy. Đứa bé tội nghiệp cũng đã chết theo, phải không?”
“Ý cô là gì khi nói về sự phản bội, thưa cô… à, Lara?” Cô ta ngước nhìn anh chằm chằm. Cô ta không xinh hơn người chị, mặc dù Megan có một khuôn mặt mà anh gọi là không hoàn hảo, giống như được làm từ gốm và những người thợ gốm đã thấy chán nên dẹp nó đi. Mũi thì to và quá dài, mắt nhỏ, miệng rộng và không cân đối. Nước da của Lara tương đối trắng, chắc sẽ hồng hào khi đến tuổi trung niên, mái tóc của cô giống như rơm, nhưng từ những đặc điểm đó hiện lên một nét tính cách, sự sắc sảo, tính quyết đoán và có lẽ cả chút cứng rắn để làm được những việc tương đối khó khăn.
“Tôi nên kể với các vị bắt đầu từ việc tôi không biết họ làm gì, chị ấy và Amber. ‘Cùng nhau làm ăn’, đó là cái cách mà Meg gọi. Dĩ nhiên tôi hỏi công việc làm ăn đó là gì và chị ấy nói chị ấy chỉ kể với người cũng đang làm việc đó, và nếu họ có thứ mà chị ấy gọi là ‘năng lực’.”
“Năng lực?”, Wexford nói.
“Tôi không có nó, chị ấy nói vậy, và vì thế không ích gì khi nghĩ rằng tôi có thể tham gia vào. Nếu tôi không biết, chị ấy nói, thì tôi không thể kể với bất cứ ai. Tôi không thích điều đó lắm vì thông qua tôi chị ấy mới quen được Amber. Ý tôi là, Amber là bạn tôi. Tôi nói là mình có thể đi báo cảnh sát. Chị ấy nói rằng việc đó không phạm pháp, rồi chị ấy nghĩ một lúc và nói tiếp, chà, có thể nó phạm pháp nếu theo cách mà tôi nghĩ.”
“Đó không phải là ma túy, đúng không Lara?”
Cô ta lắc đầu thật mạnh. “Tôi biết là không phải. Meg sẽ không dính vào ma túy đâu. Keith có dùng cỏ và tôi còn biết anh ta dùng amphetamine và thuốc lắc. Meg đã thử dùng thuốc lắc một lần. Đó là sau khi chị ấy sinh con - các vị có biết chị ấy có con khi mới mười lăm tuổi không? - và nó khiến chị ấy bị nôn mửa. Người ta đã đưa chị ấy vào bệnh viện nhưng chị ấy chưa bao giờ nói rằng mình sai - vâng, mẹ tôi bảo với mọi người rằng chị ấy bị ngộ độc thực phẩm. Meg không bao giờ động đến các chất kích thích sau lần đó và chị ấy sẽ không buôn bán chúng đâu, tôi biết mà.”
Dường như “Carthage cuối cùng cũng đã bị hủy diệt” thật rồi.
“Vụ làm ăn này, như cô đã nói, Lara ạ - biết đâu mục đích là để kiếm tiền?”
“Tôi đã hỏi chị ấy. Chị ấy nói rằng không thể kiếm được một triệu đô nếu chỉ đi làm công ăn lương qua ngày. Khi họ tới Frankfurt, hình như Meg đã giới thiệu chuyện làm ăn này cho Amber. Họ đã đi gặp vài người và Meg gọi đó là một ‘vụ giao dịch’. Amber nghĩ ra từ này, chị ấy nói vậy.”
“Nhưng đó là cái gì?”, Wexford hỏi.
“Xem này, tôi cũng muốn biết lắm chứ. Tôi đã nói, chị phải kể cho em. Chị ấy lại nói tôi sẽ biết khi đến lúc. Các vị đã hiểu vấn đề chưa, tôi nghĩ rằng chị ấy muốn làm ra vẻ bí ẩn. Có một điều tôi biết. Chuyện này bắt đầu từ trên mạng. Chị ấy chưa từng vào mạng nhưng Amber thì có. Sau đó, khi chị ấy kiếm được một ít tiền, chị ấy và Keith mua một chiếc máy vi tính cùng tất cả các thiết bị phụ tùng và đầu chơi CD lẫn cả máy ảnh kỹ thuật số, một đống luôn. Nhưng chưa hết. Tôi nghĩ đó là cách mà hai người họ bắt đầu, ý tôi là một kiểu cộng tác. Meg đến Bling-Bling với tôi một đêm nọ. Prinsip thì đến Brum để gặp người cha già cả của anh ta. Tôi đoán là anh ta lấy tiền rồi đi. Chẳng có gì khác có thể khiến anh ta tới đó thường xuyên đến vậy. Dù sao thì, Meg đã đến câu lạc bộ. Đó là vào, ừm, mùa đông. Tháng Hai, tôi đoán vậy. Amber ở đó cùng với Ben Miller và Samantha và - tôi không nhớ làm thế nào chuyện đó được đưa ra - Amber nói rằng cô ta đang tìm kiếm thứ gì đó trên mạng và Meg nói rằng, ồ, ‘cô thật may mắn’, hay đại loại thế. Các vị xem, tôi nghĩ rằng tới lúc đó chị ấy đã tìm hiểu thông tin hết mức có thể ở quán cà phê Internet. Tôi biết chị ấy đến chỗ của Amber ở Brimhurst bởi vì chị ấy đã kể với tôi nơi đó hoành tráng đến thế nào. Chị ấy gọi nó là biệt thự. Chính xác từ đó luôn, một căn biệt thự.”
Tháng Hai, anh nghĩ. “Chính xác chuyến đi tới Frankfurt là khi nào?”, anh hỏi.
“Trước đó chị ấy chưa từng tới châu Âu”, Lara nói. “Chà, chỉ qua Pháp, thu gom thuốc lá và rượu giá rẻ với Keith. Chị ấy gửi cho tôi một tấm bưu thiếp có ảnh của khách sạn mà chị ấy và Amber ở.”
Điều đó lại khiến máu trong người Wexford chảy nhanh hơn và tim đập mạnh dần. “Cô vẫn còn giữ nó chứ?”
“Không. Tôi chưa bao giờ giữ nó.” “Tiếc thật.”
“Mẹ tôi cũng có một cái. Tôi vẫn còn nhớ rõ thời điểm. Đó là ngày Hai mươi hai tháng Năm.”
Một tháng sau đó thì Amber bị tai nạn xe hơi. Lời đề nghị tới ở căn hộ của nhà Hilland đã được đề đạt với cô ta vào đầu tháng Bảy khi cô ta bước sang tuổi mười tám. Cô ta đã không bao giờ ra nước ngoài lần nữa và rõ ràng cả Megan cũng thế. Vào ngày Mười một tháng Tám, Amber bị giết và đúng ba tuần sau, ngày mùng Một tháng Chín, Megan cũng bị sát hại.
“Cô có hay đến thăm bà mình không, Lara?”
Đó là một câu hỏi gây ngạc nhiên và anh có thể thấy cô ta không thích nó. “Không thường xuyên lắm. Hẳn phải hai tháng một.” Cô chĩa vào anh cái nhìn trực tiếp một lần nữa. “Thành thật mà nói, tôi không muốn đi xuyên qua khu rừng. Khu rừng quá đáng sợ.”
“Thế à? Tại sao?”
“Đã có hai cô gái bị sát hại ở đó kể từ tháng Tám. Tôi không muốn mình là người thứ ba. Kẻ đang cố giết Amber bằng tảng đá đó, hắn có thể vẫn quanh quẩn đâu đấy.”
“Megan chưa bao giờ đề cập với cô về việc hắn có thể là ai à? Tôi nghĩ hắn là một trong số những người cô ta biết.”
“Chị ấy không biết ai ngoại trừ chúng tôi cả, mẹ, Lee và tôi, à, cả Nana lẫn bạn bè của Keith nhưng chị ta ghét họ lắm.”
“Đứa bé được nhận nuôi - cô ta đã từng gặp nó chưa? Con trai hay con gái?”
“Đó là một bé gái. Không, chị ấy chưa từng gặp lại nó. Chị ấy là chị gái tôi và tôi yêu chị ấy, tôi không muốn các vị nghĩ là tôi không yêu chị ấy, nhưng chị ấy khá vô cảm với trẻ con. Chị ấy chưa bao giờ đòi hỏi bất cứ thứ gì, chị ấy nói, và chị ấy rất vui khi có người nhận nuôi Kili - tên của con chị ấy - chưa bao giờ có một phút hối tiếc về việc cho nó làm con nuôi. Tôi nghĩ là chị ấy cũng sẽ làm thế với đứa trẻ lần này.”