Anh hỏi Burden và Hannah. “Năng lực gì mà Amber và Megan có thể cùng có?”, anh hỏi họ. “Ý tôi không phải là năng lực học vấn. Cái gì đó khác thường về thể chất chăng?”
“Cả hai đều trẻ”, Burden nói. “Cả hai đều là phụ nữ da trắng. Khá tương đương về chiều cao và vóc dáng.”
Hannah đang lắc đầu. “Họ không có nhiều điểm chung thì đúng hơn. Một người thì ưa nhìn, người kia thì không. Một người tóc vàng, một người tóc đen. Một người đang sống cùng bạn trai, người kia lại sống cùng gia đình. Một người thôi học từ năm mười sáu tuổi và người kia thì đang định học tiếp lên cao học.”
“Chẳng điều gì trong số đó dẫn chúng ta đi đến đâu cả, phải không?” Burden nhún vai. Bất kỳ ai tiến vào trong căn phòng này đều bị thu hút bởi cánh cửa sổ nhìn ra bầu trời đầy mây, xám xịt và tuyết đang rơi, “Tôi đã gặp những người thợ xây sẽ làm việc ở dãy nhà Victoria. Họ là công ty William Fish và con trai nhà Stowerton; họ nói rằng mình không có chìa khóa của bất kỳ căn nhà nào. Dĩ nhiên, họ phải đến để xem xét toàn bộ công trình, nhưng họ không có chìa khóa. Fish nói chẳng ai cần chìa khóa nếu họ đã có sự chuẩn bị để đột nhập từ trước. Không có lối cửa sau nào được gắn chặt. Một đứa trẻ có thể ẩy đổ cửa sau của căn nhà số bốn”.
“Như chúng ta đã biết, Surrage-Samphire đang làm công tác trang trí.” Burden ngồi lên chỗ góc bàn yêu thích của Wexford. “Ross Samphire là người chỉ đạo trong mối quan hệ đối tác làm ăn ở đó và là người có kỹ năng làm tủ. Anh ta đã tới dãy Victoria, vào tất cả các nhà để đánh giá những phần đã hoàn thiện trong công tác trang trí. Cứ theo vẻ bề ngoài mà xét thì anh ta là một gã đáng tin...”
“Nhưng mà”, Wexford nói, trích dẫn từ vở kịch yêu thích của mình. “Tôi không thích nhưng mà… Có chuyện gì với anh ta vậy, Mike?”
“Hẳn phải là định kiến”, Burden nói. “Anh ta là một người đàn ông điển trai và anh ta biết điều đó. Trên tường phòng khách nhà anh ta có một bức tranh khỏa thân lớn. Tôi không biết tí gì về nghệ thuật nhưng tôi có thể nói rằng đó không phải là một bản sao của tác phẩm nào đó các vị thấy trong phòng triển lãm. Nó giống một món hàng thường được bày bán trong những nơi bán đồ thủ công của thập niên 90. Tôi không có ý rằng nó không đứng đắn. Có rất nhiều mảnh khăn mỏng manh lơ lửng trên bức tranh đó. Nhưng Ross Samphire đã kết hôn và có con, đó không phải là thứ mà một người phụ nữ muốn treo trên tường.”
Wexford bật cười ha hả trong khi Hannah ném cho viên Chánh thanh tra ánh mắt lạnh lùng. Đó là một cái lườm, Wexford nghĩ, mà ẩn chứa bên trong là sự ghê tởm đối với Ross Samphire, sự ghê tởm đối với thể loại tranh ảnh ấy, sự đấu tranh cho nữ quyền và khinh miệt đầy nóng nảy đối với toàn bộ triết lý sống của Burden.
“Hẳn phải là định kiến, như lời anh nói”, anh bình luận. “Ai là Surrage?”
“Tên thời thiếu nữ của vợ anh ta. Tôi cho rằng việc đó nhằm trốn thuế. Cô ta không đóng vai trò tích cực gì trong những chuyện đó cả. Người em trai tên Rick. Anh ta sống ở Pomfret và mô tả công việc của anh ta là “thư ký công ty”. Nhưng những người này chẳng có mấy liên hệ với ngôi nhà nơi xác của Megan được tìm thấy.”
“Có thể”, Wexford nói, “nhưng họ lại có mối liên quan khá phức tạp đến một vài khía cạnh khác của vụ án. Nhìn theo hướng này mà xem. Họ đã ký hợp đồng trang trí nội thất cho những ngôi nhà ở dãy Victoria. Họ được nhà Marshalson thuê làm những công việc thực hiện theo thiết kế nội thất của mình và nhà Marshalson đã giới thiệu họ với nhà Hilland. Nhìn bề ngoài, hiện chưa có gì nguy hiểm trong tất cả chuyện này ngoại trừ mối liên hệ ba tầng với vụ án”.
Áp lực trong đầu Wexford dường như dịu lại một chút khi bầu trời tối sầm. Anh bước đến đồng hồ đo trên tường, tắt điều hòa và mở tung hai cánh cửa sổ. Hannah nhìn có vẻ sốc. Burden đi đến cửa sổ và hít một hơi thật sâu. Phía trên đường chân trời, hình dáng của những dãy núi đá phấn song song nhau, một cái cây phát sáng, thân cây cuốn chi chít đèn màu và các nhánh cây rực rỡ, dựng thẳng lên, sáng chói.
“Cuối cùng cũng có bão”, Wexford nói.
“Các vị, Surrage-Samphire”, Hannah nói khi dùng máy tính của Wexford, “có một trang web. Nó đây này”. Burden nhìn màn hình qua vai cô. “Ross rất tự hào về các chứng chỉ, bằng cấp và các thứ khác nữa. Rất nhiều bằng cấp của City and Guilds, đào tạo ở trường William Morris và một năm tu nghiệp ở Florence.”
“Rick thì rất ít được đề cập ở đây. Rất nhiều hình ảnh minh họa về chạm khắc gỗ, đúc thạch cao, tạc tượng và...”
Tiếng sấm vang lên, rền rĩ và dội lại, cắt ngang phần cuối câu nói của cô. Âm thanh nó tạo ra giống như các thùng dầu lăn khỏi khoang chở hàng của một chiếc xe tải rồi rơi vào tầng hầm một quán rượu. Wexford đứng bên cửa sổ khi gió bắt đầu thổi, trong tích tắc làn gió nhẹ nhàng đã chuyển biến thành gió mạnh dữ dội, cuốn phăng những chiếc lá trên cây.
“Có thông tin nào cho biết những người này ở đâu vào ngày Hai mươi tư tháng Sáu không?”
“Ross đang đi nghỉ mát ở miền Nam Tây Ban Nha cùng vợ và các con”, Burden nói. “Tôi không biết gì về Rick. Tôi vẫn chưa nói chuyện với anh ta.”
“Hẳn phải nóng chảy mỡ”, Wexford nói khi một tia chớp bất ngờ lóe ra từ những đường cong tối tăm của những dãy núi đá phấn. Mây dày đặc, màu tím, xám xịt và một đám màu trắng viền xám đã bắt đầu thả rơi những hạt mưa lớn tạo thành từng vết to như đồng xu trên mặt đường nhựa chỗ để xe. Rồi đột nhiên màn mây dường như muốn tan ra và rải mưa xuống. Wexford đóng cửa sổ lại khi nước mưa bắn tung tóe vào cả trong và ngoài khung cửa. “Bằng chứng ngoại phạm cho những thời điểm có liên quan sẽ phải xác minh lại. Việc loại trừ đối tượng sau khi thẩm vấn có thể sẽ là cả vấn đề.”
“Vâng, ngoài mối liên hệ ba tầng với vụ án khá là mong manh của anh ra, thì chúng ta chẳng có lý do gì để nghi ngờ họ cả. Anh cũng có thể nghi ngờ Jimmy Gawson vì đã có mối liên hệ ba tầng với gia đình Bartlow, thuê Megan, cho cô ta sống phía trên cửa hàng và quen biết bà của cô ta.”
“Có thể thế thật”, Wexford nói.
Burden tảng lờ anh đi. “Tôi đã hỏi Ross về ngày mùng Một tháng Chín. Anh ta nói rằng mình, Rick và một người làm việc cho anh ta tên là Colin Fry đã ở tòa nhà cũ của ngân hàng Westminster ở High Street này - anh có thể nhìn thấy nó từ cửa sổ - mở cửa từ tám giờ sáng đến bốn giờ chiều.”
Họ đều đang đứng ở cửa sổ nhưng những màn mưa đã ngăn họ nhìn thấy tòa nhà ngân hàng cũ kỹ ở góc phố Queen.
“Tất cả bọn họ đề có thể dễ dàng tiếp cận với gạch và các tảng bê tông. Chúng ta nên tìm hiểu nhiều hơn về Rick trước khi tìm thêm những người khác có liên quan đến dãy nhà Victoria.”
“Liệu bản thân Megan có liên quan gì đến dãy nhà đó không?”, Hannah hỏi.
“Có vẻ là ý tưởng hay”, Wexford nói, “khi hỏi Sandra Warner về điều đó. Và có lẽ, Lara Bartlow nữa. Ngẫu nhiên là, ông Bartlow cũng ở gần đó phải không?”.
“Ông ta sống ở Pauceley, anh bạn ạ. Ông ta đã tái giá và có con riêng. Tôi nghĩ cũng đáng để tới gặp ông ta đấy.”
Khi họ đến chân cầu thang, thật không thể nào bước ra khỏi cửa vì mưa đang tuôn xối xả. Đó là kiểu mưa hay có ở vùng nhiệt đới, xối thẳng từ trên xuống, giống như vòi mở hết công suất. Nếu bức màn mờ tối được treo ngay giữa cửa và sân trước, nó hẳn đã che khuất hoàn toàn những chiếc xe đang đỗ, những bức tường và con phố ngoài kia. Tất cả những gì có thể nhìn thấy được là các bóng đen và một loại ánh sáng lấp lánh kỳ dị khi cơn mưa xối xả dội thẳng xuống mặt đường nhựa, va chạm rồi bắn tung tóe. Tất cả mọi thứ đều trở nên đen kịt nhưng sáng bóng, màu sắc tan biến hết, ẩm ướt ngoài sức tưởng tượng khi những vũng nước nhỏ dần biến thành những cái hồ và một triệu hạt mưa lao vào rồi văng ra khỏi mặt nước. Trong suốt thời gian đó, những tia chớp, giờ là những đường ngoằn ngoèo đủ kiểu, vẫn chia cắt bầu trời, càng lúc càng gần hơn và thậm chí chuyển động ngay trên đầu khi tiếng sấm theo sau những dấu hiệu có thể nhìn thấy được chỉ một phần tỉ giây.
Donaldson bị mắc kẹt bên ngoài xe. Một quãng đường dài gần hai mươi mét vào tới cửa sẽ nhấn chìm một nửa người anh. Sĩ quan đang làm nhiệm vụ, Campbell, bước ra từ phía sau bàn làm việc và hai sĩ quan cảnh sát nữ xuất hiện từ một văn phòng, đứng bên những cánh cửa sổ lớn quan sát cơn bão. Khi Bal Bhattacharya ra khỏi thang máy và bước ngang qua sàn nhà lát gạch đen trắng để nhập hội, Wexford thấy Hannah quay đầu và ánh mặt họ gặp nhau, thấu hiểu ngay lập tức trong cái liếc nhìn đó. Miễn là bất cứ chuyện gì đang xảy ra đều không gây cản trở đến đội của anh...
Đi đón những thằng bé ở trường, Sylvia đã cho Mary Beaumont đi nhờ xe khi thấy bà ta đang đứng đợi xe buýt. “Hôm nay, chồng tôi đã đi xe”, Mary nói và bật cười,
“Naomi gọi đó là bạo lực gia đình”.
“Tôi hy vọng cô ta cũng bị thế”, và Sylvia cười theo, cảm thấy buồn hơn cho Mary khi người phụ nữ kia nói rằng bà ta hy vọng Sylvia nhận ra rằng bà ta đã không ghé thăm ngày hôm nay. “Bà và Naomi gặp nhau như nào?”
“Ồ, cô không biết à? Tại SOCC.” “SOCC là gì, Mary?”
“Nhóm Khắc phục Vô sinh tại Sussex1. Tôi làm chút việc ở đó. Tư vấn. Cô biết là mình có thể ghé qua chỗ tôi lúc nào cũng được. Nếu cô cần gì đó, hoặc nếu cô gặp vấn đề gì. Tôi sẽ cho cô số di động của tôi.”
1 Nguyên văn: The Sussex Overcomung Childlessness Circle (viết tắt là SOCC).
“Chà, cảm ơn nhưng họ vẫn trông chừng tôi tại trung tâm khám thai, bà biết đấy.” Khi những từ cuối cùng được thốt ra, Sylvia cảm thấy lạnh sống lưng. “Tôi không muốn bà nghĩ tôi không thấy biết ơn.”
“Chẳng có gì mà phải biết ơn cả. Thả tôi xuống ở ngã tư tới, được chứ?”
Nhưng đến ngã tư tiếp theo, mưa bắt đầu rơi, chỉ trong nửa phút đã biến thành một cơn mưa xối xả và Sylvia phải tìm chỗ đậu xe trên vạch kẻ đôi màu vàng. Chẳng ích gì cả, cô không thể lái xe đi tiếp. Cần gạt nước không giúp ích được gì, trong vài phút nữa, cả con đường này sẽ ngập trong nước. Dựa lưng vào ghế tài xế, Sylvia cảm thấy đứa bé cử động mạnh hơn trước đây. Lần đầu tiên cô có thể nhìn thấy chuyển động của nó. Mary cũng nhìn thấy và thông báo điều đó bằng một tràng cười.
“Thằng nhóc khỏe lắm đây, Sylvia.” “Nó là con gái.”
“Điều đó sẽ khiến Naomi thấy hài lòng. Họ sẽ phải giữ hai đứa con của cô ở trường cho đến khi tạnh mưa.”
“Dù có tạnh hay không thì vợ chồng bà có muốn tạt qua uống chút gì đó vào tầm sáu giờ không?”
Gia đình trung lưu rập khuôn là những gì Hannah thấy được ở nhà Bartlow - và do đó cô nhìn họ chán ghét nhưng cẩn thận không thể hiện ra ngoài. Nhà của họ, theo phong cách Pauceley khép kín, là một căn nhà song lập có ba phòng ngủ, một cây vân sam Na Uy (bị vứt bỏ từ Giáng sinh năm ngoái) trong khu vườn đằng trước và một cái chuông cửa mỗi lần rung lên là giống như chuông nhà thờ ngân vang.
Gần như chắc chắn nằm trong sự mong đợi của chuyến thăm này, phòng khách - bộ đồ gỗ ba mảnh, ti vi, một con chó sục2 nhỏ, một cậu nhóc và một cô nhóc đang ngồi ở bàn làm bài tập về nhà - rất gọn gàng trang nhã, vợ Gary Bartlow mặc áo choàng buổi chiều và trang điểm, còn bản thân Gary thì trông thật ngượng ngùng trong bộ đồ đi làm. Ông ta đã có cả một chặng đường dài kể từ khi kết hôn với Sandra Warner nhưng có lẽ ông ta còn muốn đi xa nhất có thể. Hannah nghĩ thật đáng buồn khi một người đàn ông, trong nỗ lực cải thiện chính mình, lại phải đi con đường này để đến mục tiêu đó - một cuộc hôn nhân thê lương khác (như cô đã chứng kiến), một gia đình tẻ nhạt khác, không nghi ngờ gì là ông ta đã thế chấp chính mình trong khi có thể được tự do, phiêu lưu và tràn đầy tham vọng. Trưởng giả chính là từ cô muốn nói, cô vốn thường nghĩ thật đáng tiếc khi nó đã hoàn toàn bị lỗi thời.
2 Loại chó săn nhỏ, chuyên sục hang bụi.
Để cho Hannah tiện nói chuyện, bà Bartlow đã lùa bọn trẻ, bài tập về nhà lẫn con chó ra khỏi phòng để một mình ông chồng ở lại với cô cảnh sát, và bà ta chắc chắn sẽ gọi cô như thế. Gary bắt đầu nói chuyện về Megan.
“Tôi vẫn luôn gặp những đứa con gái của mình”, ông ta nói. “Những đứa con gái lớn, tôi gọi chúng như vậy. Megan tội nghiệp - thật là khủng khiếp, đúng không?”
“Vâng, thưa ông. Rất khủng khiếp, ông Bartlow ạ.”
“Nó vừa mới tới đây trước đó không lâu, cô biết đấy. Vào thứ Bảy. Để xem nào, có thể là vào Hai mươi hai tháng Tám. Đó là ngày tổ chức Hội chợ Mùa hè Pauceley. Họ tổ chức trên những bãi cỏ ngập nước bên bờ sông. Meg đã đến xem. Keith thì đến Birmingham với em gái, tôi nghĩ vậy. Nó đã ăn trưa một lát cùng chúng tôi và rồi tất cả chúng tôi đều tới hội chợ. Tôi không nghĩ là mình sẽ chẳng bao giờ được gặp lại nó nữa.”
“Tôi không muốn khiến ông đau khổ hơn những gì ông đang phải chịu đựng, nhưng cô Megan có nói bất kỳ điều gì về chuyện mình mang thai không? Ông có biết điều đó không?”
Mặt ông ta cau có, sầu thảm và cam chịu. “Sau khi nó mất, tôi mới biết. Mẹ nó và tôi, chúng tôi đã nói chuyện. Chúng tôi không thường nói chuyện cho đến khi Meg bị... bị giết.”
“Meg có nói bất kỳ điều gì trong bữa ăn trưa hay tại hội chợ không? Ý tôi là, điều gì đó bất thường, bất kỳ chuyện gì ngoại trừ những vấn đề gia đình thông thường?”
“Tôi không thể nhớ được gì cả.”
“Vâng, nếu ông nhớ được, ông Bartlow, nếu ông nhớ được bất kỳ điều gì, hãy cho chúng tôi biết, được chứ?” Hannah lao trở vào cơn mưa xối xả. Chiếc xe đậu cách đó không đầy bốn mét nhưng khi cô mở được cửa bên ghế lái và ném mình vào trong, quần áo và tóc cô đã sũng nước. Tối nay, cô định sẽ đi chơi với Bal. Đi chơi, chứ không phải ở nhà với Bal. Bất cứ nơi nào họ định đến đều sẽ khiến họ ướt sũng thêm lần nữa - và cuối cùng sẽ không có chăn ấm nệm êm nào cả.
Cơn bão quét qua khắp thung lũng Kingsbrook. Một người đàn ông trên sân golf Sewingbury đã bị sét đánh và qua đời ở lỗ thứ mười bốn. Sông Brim bị vỡ bờ ngay đoạn chạy song song với đường Mill, nhưng nước không vào đến phòng bếp và phòng khách của ba căn nhà ở dãy Jewel. Những đường dây cáp điện trên không ở Brimhurst, Myfleet và tây Kingsmarkham, mà không bị hư hại do sét, đã bị gió mưa quật xuống mặt đất. Đèn trong tủ lạnh của Dora Wexford đã tắt, đá bắt đầu tan chảy trong ngăn lạnh, lò nướng không còn hoạt động nhưng bếp gas vẫn còn dùng được. Sylvia không có đá cho đồ uống khi nhà Beaumont hối hả đội ô đến lúc sáu giờ.