Buổi sáng trời vẫn tối, tối đến mức cần bật đèn lên - nhưng đèn cũng không có mà bật. Wexford quên béng về sự cố mất điện khi ra khỏi giường và không bật được bình nóng lạnh. Vậy là cũng không có nước nóng. Anh chưa từng phải tắm nước lạnh kể từ khi đi nghỉ mát ở Tây Ban Nha vài năm trước đó. Tắm nước lạnh thời ấy rất được ưa thích nhưng giờ thì rất khác. Khi các tia nước đầu tiên phun vào vai, anh đã nghĩ chúng có thể giết chết mình.
Dora vẫn còn ngái ngủ nhưng khá hào hứng. Anh tự hỏi bản thân tại sao anh phải pha trà và đem đến cho cô khi cô đối xử với anh như thể anh đã phản bội cô vậy. Bởi vì anh đã từ chối không về phe cô để phản đối con gái họ? Anh sẽ không làm thế. Để cho cô thấy bị phớt lờ là như thế nào. Và sau đó anh tự nhủ bản thân không thể ngốc nghếch thế được. Đó là cách khiến những cuộc hôn nhân đổ vỡ. Đây mới chỉ là những bước khởi đầu. Anh đi xuống nhà, đặt một nồi nước lên bếp gas, cho hai gói trà vào hai cái cốc và bật bếp. “Anh hy vọng còn đủ gas trong bình”, anh nói to.
Nồi nước xem chừng phải mất rất nhiều thời gian mới có thể sôi được. Anh mang hai cái cốc đến bên cô. Cô đang ngồi ở một bên giường và khóc.
“Chuyện gì vậy?”
“Đứa bé”, cô nói. “Em không thể chịu đựng nổi. Em không thể chịu được cảnh sẽ không bao giờ được gặp cháu ngoại mình. Không phải bởi vì nó đã chết - điều đó thật kinh khủng, em biết - và không phải bởi vì mẹ nó không có khả năng nuôi nó, mà chỉ bởi vì một ý nghĩ ngu ngốc. Một trong những ý nghĩ tồi tệ nhất trên đời mà chúng ta phải sống cùng với nó.”
Anh vòng tay qua người cô nhưng cô cứng người lại và đẩy anh ra.
“Chúng ta sẽ không bao giờ được gặp nó - thằng bé hay con bé ấy. Nhưng chúng ta biết nó sống gần đây, chỉ cách có vài dặm. Đến lúc đó, em có thể ra ngoài đi chợ, nhìn thấy nó nhưng không biết đấy là nó. Em có thể cứ tìm kiếm các đường nét của nó trong những đứa trẻ em gặp. Tại sao anh không đặt mình ở vị trí của em mà xem xét chứ? Tại sao anh lại đứng về phía nó?”
“Bởi vì anh đã thay đổi, anh dám nói vậy.”
“Những người đã lập gia đình đều giống nhau cả.” “Anh e rằng điều đó quá duy tâm. Chúng ta phải chấp nhận thay đổi thôi. Chúng ta không thể làm thế sao? Anh không thích thế nhiều hơn em chút nào đâu, em biết mà. Anh chỉ không thấy có tác dụng khi làm điều gì đó lúc này. Chúng ta không thể tách bản thân ra khỏi con gái của chúng ta và nghĩ rằng, chà, chúng ta sẽ gửi nó đến Coventry một thời gian rồi sau đó cả nhà sẽ đoàn tụ. Bởi vì nó sẽ không bao giờ đi mất. Như em nói ấy, thằng bé hoặc con bé sẽ sống rất gần chúng ta. Bản thân Sylvia cũng sẽ bị ảnh hưởng, bất kể nó nói gì. Nó sẽ cần đến chúng ta bởi vì, nếu em tiếp tục nghĩ thế này, nó sẽ không còn ai bên cạnh nữa.”
Cùng một loại gạch, thậm chí có thể là cùng một viên gạch, đã được dùng làm hung khí giết cả Megan lẫn Amber. Một trong một triệu viên giống thế, như tay chuyên gia về gạch đã nói. Thực tế là, không có viên nào ở vùng lân cận của dãy nhà Victoria cả bởi vì gạch không được dùng trong việc tái tạo và nâng cấp khu vực này. Nhưng có thể tìm thấy chúng, Wexford phản biện một cách cay đắng, ở hầu hết các công trình xây dựng khác trong quận; trong nước. William Fish hoặc một trong hai người đàn ông làm việc cho anh ta, hay Ross Samphire, em trai anh ta hoặc người trợ lý đã làm việc với anh ta tại nhà của Hilland, bất kỳ ai trong số họ cũng có thể nhặt một viên gạch trong chu vi vài mét xung quanh nhà.
Trên sườn các ngọn đồi phía sau thị trấn, những ánh đèn dần hiện lên trong những căn nhà đã từng bị bóng tối bao phủ cả chiều hôm trước. Đèn trong nhà họ cũng sẽ được bật lên và anh sẽ có thể tắm nước nóng vào buổi sáng hôm sau. Anh đã cho rằng Samphire có mối liên hệ ba tầng với vụ án này nhưng liệu có phải là bốn tầng không đây? Surrage- Samphire làm việc tại studio của nhà Marshalson. Họ đã hoàn thành việc đánh giá trang trí cho nhà Hilland. Họ cũng đã định tiến hành công việc tại ngôi nhà, nơi xác Megan được tìm thấy. Và Ross Samphire đã gặp Amber. Anh ta không chỉ gặp cô ta, mà trong lần cuối cùng cô ta đến nhà Hilland, anh ta đã nói chuyện với Vivien Hilland. Anh ta đã nói chuyện với bà ta khi Amber và Brand đến. Vì vậy, có tận tới bốn mối liên hệ, mặc dù tất cả chúng đều mong manh.
Anh gọi cho Hannah và khi cô nhấc máy, anh liền nói, “Tôi đang chuẩn bị ghé qua nhà Sandra Warner và tôi muốn cô đi cùng”.
“Vâng, thưa ngài.” “Chúng ta sẽ đi bộ.”
Chắc chắn cô sẽ thích đi cùng Baljinder hơn anh. Đó là điều tự nhiên. Họ bước đi trong im lặng và anh nghĩ về con gái cùng đám cháu trai của mình. Giống như Dora, anh bắt đầu tự hỏi liệu mọi chuyện có thể trở lại ổn thỏa một lần nữa trong gia đình mất đi một thành viên, liệu những người khác, mẹ, ông bà, ngay cả anh chị em họ, có bao giờ quên được, tha thứ được hay không. Lần đầu tiên anh tự hỏi gia đình Sandra Warner sẽ như thế nào khi Megan cho con mình làm con nuôi người khác. Theo Lara, cô ta đã thẳng thừng nói về chuyện đó, như thể từ bỏ đứa trẻ này rõ ràng là một việc làm khôn ngoan và sáng suốt đến nỗi chẳng cần phải cân nhắc. Cô ta có thực sự cảm thấy như vậy hay đơn thuần chỉ giả bộ dũng cảm? Và bản thân Megan thì sao? Cô ta thực sự là người như thế nào? Sylvia của anh sẽ ra sao khi phải trao đứa bé mình vừa sinh vào vòng tay của Naomi Wyndham?
Anh đã không nói gì trong ít nhất mười phút và Hannah là người lên tiếng trước, hỏi anh với một giọng nhỏ nhẹ khác thường rằng họ đến gặp bà Warner để làm gì.
“Samphire”, anh nói. “Bà ta có biết anh ta không? Cái thai của Megan, liệu bà ta có thể cho chúng ta chút manh mối nào không? Tôi đang cố đây”, anh nói thêm khá cay đắng, “bởi vì, thành thật mà nói, trung sĩ ạ, tôi không biết phải làm gì nữa. Chúng ta không biết gì trừ việc Ross Samphire đã ký hợp đồng làm việc ở dãy nhà Victoria và chuyện anh ta đã từng gặp Amber một lần. Đó là tất cả”.
Họ đi lên cầu thang bê tông trong những căn hộ ở Muriel Campden Estate và đi theo lối đi qua năm cánh cửa để đến chỗ Sandra Warner. Lara đã đến trường. Lee Warner đang ngồi gần cái ti vi, vai ông ta khom xuống và đầu ông ta đẩy về phía trước như một con rùa trong vỏ của nó. Đồ ăn sáng, tuy nhiên, đã bị dọn đi hết, và Sandra đã thay chiếc áo choàng của mình bằng một bộ áo gió màu hoa cà. Lee không buồn để ý đến hai nhân viên cảnh sát. Trước thái độ của ông ta, họ có thể sẽ không vào nhà, nhưng việc Sandra rất vui mừng khi thấy họ đến và hài lòng trước chuyến viếng thăm mà bà ta xem như để chia buồn đã khiến Wexford thấy ngạc nhiên.
“Các vị thật tử tế. Chúng tôi đánh giá cao điều này, phải không Lee?” Không có câu trả lời từ người đang xem ti vi. “Đúng như Lara của tôi nói, cảnh sát đang trở nên hòa đồng và thân thiện hơn.”
“Và có lẽ bà sẽ cho chúng tôi chút thời gian chứ, thưa bà Warner”, Wexford nói. “Tôi có một vài câu hỏi dành cho bà.” “Tôi không phiền đâu”, Sandra ân cần nói. “Ông muốn biết điều gì đây?”
“Căn nhà số bốn trong dãy Victoria”, Hannah bắt đầu. “Tôi rất xin lỗi vì phải nhắc đến nơi thi thể con gái bà đã được tìm thấy.”
Sandra trả lời khá vui vẻ. “Không sao đâu.”
“Megan có biết căn nhà đó không? Cô ta đã từng nói về nó chưa? Hay đã từng đến đó chưa?”
“Con bé chưa bao giờ nói với tôi những điều đó. Thật buồn cười khi cô hỏi vậy bởi vì Lara của tôi chỉ mới nói với tôi ngày hôm qua là, ‘Meg chưa bao giờ nhắc đến chỗ đó, đúng không?’, con bé đã nói vậy. Điều gì có thể khiến con bé đến đó chứ?”
“Khi bị sát hại”, Hannah nói, “Megan đã mang thai được khoảng mười bốn tuần”.
“Chừng đó cơ à?”
“Vâng, khoảng mười bốn tuần. Điều này có nghĩa là việc thụ thai đã xảy ra vào khoảng tuần cuối cùng của tháng Năm.”
“Đúng vậy”, Sandra ngập ngừng nói.
Wexford nói, “Megan đã có mặt ở Frankfurt, Đức từ Hai mươi hai đến Hai mươi lăm tháng Năm. Bà có biết gì về việc cô ta có thể đã gặp gỡ cha đứa trẻ trong suốt cuối tuần đó không?”.
“Chà chà, nó chưa bao giờ nói. Nghe này, nó sẽ không nói đâu. Vì nó còn đang ở với Keith. Ý tôi là, giống như đã kết hôn thực sự, đúng chứ?”
“Cô ta có bao giờ đề cập đến cái tên Samphire với bà không?” Trước khi Sandra kịp trả lời, Lee đã quay đầu ra và cáu kỉnh nói, “Các vị có thể sang phòng khác được không? Tôi không phải đang xem phim, mà là giải bóng đá đấy”.
“Chúng em sẽ ra phòng bếp, cưng ạ.” Sandra quay sang Wexford. “Tôi sẽ pha trà cho hai vị. Tôi chắc đây ít nhất cũng là việc mình có thể làm.”
Phòng bếp hầu như không đủ lớn để chứa được ba người. Wexford đứng dựa vào cái tủ lạnh mà cánh cửa đã bị kẹt cứng bởi các tấm bưu thiếp được đính lên bằng nam châm hình gấu Teddy và vịt. Hannah phải ngồi ở một chiếc ghế đẩu và Sandra, trong khi đợi nước sôi, thì tựa mình lên một góc máy giặt.
“Samphire”, Wexford nói, cố gắng nhắc bà ta nhớ lại. “Tôi chưa bao giờ nghe thấy cái tên đó.” “Cô ta có bao giờ nói chuyện về một người tên Ross không?”
“Không, nó chưa bao giờ nói với tôi.”
Cốc trà được chuyển qua cho Wexford. Vươn ra đón lấy nó từ tay Sandra, tay anh quệt phải cánh cửa tủ lạnh và làm bong một tấm bưu thiếp lẫn cục nam châm hình gấu Teddy. Quỳ xuống bằng cả tay và đầu gối ở cái chốn không-quá-sạch- sẽ này không phải là sở thích của anh nhưng anh vẫn làm, nhặt tấm thiệp bị rơi lên và trong lúc làm vậy, anh thấy một tấm khác nằm hơi sâu bên dưới cái tủ lạnh. Tấm này có lẽ cũng đã bị bong ra như thế vài tuần trước.
Đột nhiên anh nhận ra đó là gì. Tấm thiệp chụp một căn nhà với mái đỏ dốc đứng, cửa chớp màu xanh lá cây, dấu hiệu cho thấy đó là khách sạn Die Vier Pferde trên bức ảnh bốn con ngựa màu nâu với bờm vàng đang kéo một cỗ xe ngựa. Ngày ghi trên tấm thiệp là Hai mươi hai tháng Năm. Đó là ngày trước khi Sandra tái hôn và Megan đã gửi nó tới bà Sandra Lapper. Bằng nét chữ chẳng ra hàng lối và đôi tay run rẩy, cô ta đã viết, Ước gì mẹ có mặt ở đây. Ánh nắng thật tuyệt. Yêu quý, Meg.
“Đây là tấm thiệp Megan đã gửi cho bà từ Đức, thưa bà Warner.”
“Ồ, để tôi coi nào. Đúng nó rồi. Tôi thắc mắc nó đã rơi đâu chứ. Chữ viết thật buồn cười, phải không?” Bà ta xem xét kỹ lưỡng văn tự kiểu Gothic trong cái tên của khách sạn được in lên con dấu nhà trọ lỗi thời. “Giống chữ Trung Quốc hơn. Tuy nhiên họ đọc được nó à?”
“Tôi có thể giữ nó không?”
“Ồ, tôi không biết. Đây là di vật cuối cùng của con bé mà tôi có được. Tốt nhất để tôi treo nó lên. Tôi sẽ cảm thấy thật buồn cười nếu để các vị giữ nó.”
Không lâu sau đó, họ rời đi. Wexford lên văn phòng của mình, anh để ý rằng thời điểm này tại các quốc gia ở lục địa châu Âu là mười một giờ sáng, sớm hơn một tiếng so với ở đây, và hỏi Tổng đài Điện thoại Quốc tế số điện thoại của khách sạn Die Vier Pferde ở Frankfurt.
Tòa nhà ở Kingsmarkham High Street vốn từng là trụ sở của Ngân hàng Westminster được xây dựng khi các ngân hàng còn là các dinh thự lớn, bằng gạch đỏ hoặc vữa trắng cùng những cánh cửa đôi bằng gỗ sồi; cửa sổ dài trang nghiêm; bên trong, trần nhà cao và được trang trí, ván lót tường làm từ các loại gỗ cứng nhiệt đới còn sàn được lát đá cẩm thạch. Giống như dãy nhà Victoria ở Stowerton, nó được cải tạo thành những khu căn hộ hạng sang và công việc chuyển đổi vừa mới được hoàn thiện. Burden tìm thấy Ross Samphire đang ở trong căn hộ của chính mình. Anh ta đang đặt những chi tiết cuối cùng lên ván lót tường trong sảnh của căn hộ tầng mái, cùng một kiểu thiết kế ở nhà Hilland.
Wexford nhận thấy khi chạm trán trong tư gia nhà Hilland, Ross là một người đàn ông điển trai với đôi mắt xanh và các đường nét cổ điển. Nếu ở đó, anh sẽ bị choáng bởi vẻ mặt rất giống Michelangelo’s David, chỉ khác là David ở tầm tuổi trung trung niên. Rõ ràng Burden không bao giờ có kiểu so sánh này. Ross đặt dụng cụ anh ta đang cầm xuống, đi lại phía Wexford và bắt tay. Họ đã từng gặp nhau tại nhà Ross và không có gì sai khi làm thế này cả; chắc chắn là anh ta rất thân thiện và sẵn sàng hợp tác. Nhưng với Burden, nó vẫn có vẻ như người đàn ông này đang muốn tự đặt mình ngang hàng với cảnh sát, thể hiện rằng anh ta theo phe cảnh sát, như Wexford có thể đã nói - Burden thường nghe anh nói - Samphire đang chống lại thế giới.
“Tôi thực sự không thể nói với anh rằng liệu mình đã từng gặp Amber Marshalson hay chưa, Thanh tra Burden ạ”, Ross nói, sử dụng tác phong và tên họ như một người ngang hàng, gần giống một người bạn. “Có thể tôi đã gặp rồi. Đơn giản là tôi không nhớ.”
“Cô ta là một cô gái rất xinh xắn.”
“À, hiện giờ, thưa Thanh tra, tôi là một người đàn ông đang có một gia đình hạnh phúc. Tôi không còn để mắt đến các cô gái kể từ khi kết hôn. Anh có biết tôi nói gì với bản thân mình không? Tôi nói là, con tôi sẽ nghĩ gì về tôi nếu chúng thấy tôi ngắm những cô gái khác?”
Burden nói về bức tranh khỏa thân trên tường phòng khách nhà anh ta. “Để tôi giúp anh nhớ lại nhé. Tôi nghĩ anh đã gặp Amber tại nhà bà Hilland vào tháng Bảy. Cô ta đến cùng đứa con trai nhỏ của mình.”
Cử chỉ mà Ross thể hiện ra nhìn như đang đóng kịch, hất đầu ra sau, đưa tay vỗ trán rồi đấm vào không khí bằng chính cánh tay đó. “Tôi nhớ rồi, tôi nhớ rồi”, anh ta la lên.
“Chúa ơi, tôi đã quên hết mọi thứ.”
Quả là một màn kịch, Burden nghĩ. “Anh sống ở đâu, anh Samphire?” Câu hỏi làm anh ta ngạc nhiên. “Đại lộ Pauceley. Sao thế?” “Có lẽ anh cũng sẽ nhớ được rằng mình đã từng gặp
Megan Bartlow. Khi cô ta tới thăm cha cô ta ở Pauceley, cô ta có thói quen đi bộ tới điểm xe buýt dọc theo Đại lộ Pauceley.” Ross không trả lời câu này, chỉ lắc đầu. Có lẽ anh ta nghĩ mình không thể chịu trách nhiệm cho bất kỳ ai đi bộ qua nhà mình trong suốt những năm qua. Burden hỏi anh ta Colin Fry có ở trong tòa nhà không, và được trả lời là không. Fry còn làm nhiều việc khác ngoài trợ giúp Ross. Tiếng bước chân vang lên trên cầu thang. Đó là chiếc cầu thang lớn của ngân hàng, làm từ đá cẩm thạch với lan can bằng sắt rèn, mà giờ được dùng để phục vụ tất cả các hộ dân, những tiếng bước chân vang vọng trên nền đá. Một biểu hiện kỳ lạ hiện lên trên mặt Ross. Nếu phải định nghĩa vẻ mặt đó - và Wexford giỏi làm việc này hơn - anh sẽ gọi nó là “chu đáo”. Có lẽ “chu đáo” sẽ tốt hơn hoặc thậm chí là “bảo bọc”. Nhưng Ross không thể hiện cảm giác của anh ta theo những từ này. Một người đàn ông đi vào phòng, mang theo một cuốn sách tờ rời lớn.
Gần như không thể tin được, người đàn ông này chính là anh em sinh đôi của Ross. Đây là Rick Samphire, chính xác bằng tuổi Ross đến từng giờ. Bề ngoài, anh ta không giống Ross y đúc. Rick trông có vẻ rách rưới, tóc thưa dần có vài sợi màu xám, khuôn mặt hằn nếp nhăn, má hóp và đôi mắt lờ đờ. Chỉ có thói quay sang Burden khi đang nói chuyện với Ross của anh ta là giống hệt với anh trai mình.
Ross nhẹ nhàng nói, đặt tay lên vai gã đàn ông kia, “Mọi thứ sẽ ổn thôi, Rick. Không phải lo lắng gì cả, nhưng quý ông này là một sĩ quan cảnh sát, Thanh tra Burden”.
Rick Samphire nhìn Burden với nỗi kinh hoàng hiện dần lên khuôn mặt của mình, giống như những nhân vật trong phim khi đối mặt với một con quái thú cách xa cả chục cây số. Anh ta hất bàn tay của Ross ra, chạy về phía cửa và lao xuống cầu thang. Không đợi nghe lời giải thích hay xin lỗi từ Ross, Burden đuổi theo Rick.