Người quản lý nhấc máy. Sự hứng thú của Wexford đã chìm nghỉm, cơn phấn khích giảm xuống và anh biết rằng bằng cách nào đó, ở một nơi nào đó, những tấm bưu thiếp đã dẫn anh lạc lối. Frau Stadler nhanh chóng kiểm tra danh sách khách hàng trên máy tính, xem lại một lần nữa khi anh yêu cầu, nhưng chẳng thể tìm thấy dữ liệu về một cô Megan Bartlow và một cô Amber Marshalson nào đó đã ở đây vào tháng Năm hay vào bất kỳ thời gian nào khác, dù đi riêng hay chung. Anh hỏi cô ta liệu có thể đăng ký phòng khách sạn bằng tên giả hay không. Frau Stadler dường như rất sốc với câu hỏi này. “Chúng tôi yêu cầu hộ chiếu của khách hàng và giữ chúng mười hai tiếng đồng hồ. Nếu một khách hàng có hộ chiếu giả...” Cô ta bỏ lửng vế sau của câu nói.
“Một tấm thiệp được gửi đi từ khách sạn của cô tới Anh vào ngày Hai mươi hai tháng Năm”, Wexford nói. “Liệu có khách hàng ở nơi nào đó đến khách sạn để mua một tấm thiệp ở quầy lễ tân không? Điều đó có thể xảy ra chứ?”
“Chúng tôi không thích điều này. Chúng tôi - ý là gì nhỉ? - phản đối điều này. Nhưng nó vẫn xảy ra như thường.
Đặc biệt là khi có nhiều khách ở quầy lễ tân và nhân viên thì quá bận rộn. Có thể một trong những quý cô mà ông vừa đề cập đã vào khách sạn, có lẽ uống trà hoặc gặp bạn ở quầy bar và rồi mua tấm thiệp. Chúng tôi không thể ngăn chặn việc này.”
Wexford có thể tưởng tượng việc đó dễ dàng đến thế nào. Kỹ năng Internet của anh vẫn còn trong giai đoạn trứng nước - chúng có thể không bao giờ tiến xa hơn được giai đoạn đó - và nỗ lực đầu tiên của anh trong việc tìm kiếm danh mục khách sạn ở Frankfurt bằng cách nào đó lại khiến anh vớ được một danh sách các phim về Frankenstein. Nhưng cuối cùng anh cũng có được cái mình muốn. Die Vier Pferde (rõ ràng được đặt tên theo Bốn kỵ sĩ trong sách Khải huyền1 khi nó hoặc tiền thân của nó là một quán trọ thời trung cổ) được phong tặng bốn sao và được mô tả là “thoải mái với một vài dãy phòng sang trọng, món ăn tuyệt vời được trao tặng một sao trong series Hướng dẫn của Michelin cùng không gian vườn ngay bên trong khách sạn đầy dễ chịu. Rõ ràng, đó không phải là loại khách sạn mà Megan và Amber sẽ sử dụng. Có thể họ đã ở một nhà trọ ở Đức và đã tới Die Vier Pferde, chính xác như những gì Ingrid Stadler gợi ý, mua một hoặc nhiều tấm thiệp sau khi ngồi uống ở quầy bar. Giới trẻ thường hay thích làm thế, giả vờ “cho vui” rằng họ đang ở một khách sạn bốn sao, trong khi thực tế họ đang phải san sẻ phòng trong một nhà trọ chật chội với phòng tắm ở cuối lối đi. Không có chi tiết nào giúp giải thích được lý do tại sao họ lại đến Frankfurt.
1 Quyển sau cùng trong Tân ước, tương truyền là do Thánh Gioan biên soạn, chủ yếu đưa ra những lời tiên tri về Ngày Phán xét cuối cùng.
Đuổi theo một gã đàn ông đã bỏ chạy khi phát hiện ra bạn là cảnh sát là một việc dĩ nhiên. Burden đã làm vậy từ khi mười tám tuổi. Thỉnh thoảng anh bắt được mục tiêu mà mình truy đuổi và thỉnh thoảng thì không. Ngày hôm nay sẽ thuộc loại thứ hai. Rick Samphire đã có khởi đầu tốt và mặc dù trông có vẻ yếu ớt nhưng anh ta đã xoay xở để biến mất vào đâu đó bên ngoài những cánh cửa tạm được lắp đặt tại tòa nhà ngân hàng cũ kỹ. Burden đã cật lực chạy trở lên cầu thang cẩm thạch và thấy Ross đã bình tĩnh quay lại với công việc cùng những tấm ván lót tường.
“Cái đó để làm gì vậy?”, Burden hỏi.
Ưu ái dành tặng anh một nụ cười quyến rũ mà dường như là hàng-có-sẵn, Ross đặt dụng cụ xuống. Anh ta nói một cách kiên nhẫn, “Anh phải hiểu rằng em trai tôi... chà, không phải tâm lý không bình thường, tôi sẽ không nói là bất thường. Cậu ta không bị bệnh tâm thần nhưng cậu ta đã rất lo lắng. Cậu ta đã phải chịu đựng quá nhiều”.
“Ồ, thế hả?”
“Mọi người đối xử với cậu ta rất tệ. Đối với cậu ta, mất con đã rất đau khổ rồi, đặc biệt là khi cậu ta nghĩ rằng mình chưa làm được gì để xứng đáng với nó.”
“Vì thế anh ta đã bỏ chạy khi nhìn thấy cảnh sát?”
“Vâng, thực sự đúng vậy đấy. Đó là điều cậu ta sẽ làm.
Đằng nào anh cũng biết vì thế tốt nhất tôi nên kể cho anh. Cậu ta có vài tiền án tiền sự. Cậu ta đã từng ngồi tù. Nhưng cậu ta hoàn toàn vô hại. Tôi không ngại nói với anh rằng tôi thấy mình có nhiệm vụ phải chăm sóc cậu ta cả đời. Chúng tôi là anh em sinh đôi, anh biết mà. Thành thực mà nói, cậu ta không có khả năng đảm nhận công việc thư ký của công ty, cậu ta không phải là nhân viên kế toán thật sự, nhưng… chẹp, như tôi đã nói, tôi chăm lo cho cậu ta. Tôi nghĩ anh sẽ cho tôi là thằng ngốc nếu tôi nói rằng mình yêu quý cậu ta.”
Đón nhận điều đó bằng nụ cười ngọt ngào buồn bã, khóe mắt xanh nheo lại, hàng lông mày sắc nét màu đen nhướng lên, Burden không có ý định nói những gì mình nghĩ về tình cảm anh em hay đại loại thế. “Sinh đôi, đúng không? Hai người trông không giống anh em lắm. Không giống nhau mấy.”
“Chúng tôi đã từng rất giống nhau.”
Giọng Ross khá buồn, nhưng Burden cảm thấy dường như anh ta muốn được bảo rằng mình và em trai nhìn khác nhau. Công bằng mà nói, chẳng ai muốn trông giống Rick Samphire cả. “Anh ta sống ở đâu?”
“Đường Potter, Pomfret. Đừng làm khó cậu ta nhé. Cậu ta vô hại.”
Nhưng Rick vẫn chưa về nhà lúc Wexford và Burden đến đường Potter. Đó là một con phố có nhiều nhà cửa chạy song song tới nơi Paula Vincent sống. Số hai mươi sáu là một ngôi nhà gỗ một tầng đặt giữa một căn biệt thự nhỏ xây bằng gạch đỏ và một dãy những căn hộ từ thập niên 30 được xây dựng có mục đích với khung cửa sổ kim loại và cửa ra vào đón nắng. Ngôi nhà gỗ một tầng của Rick trông ảm đạm và buồn thảm đến chán nản, nước sơn bong tróc, mái nhà thấp rơi mất vài viên ngói, con đường bê tông nứt vỡ. Không có cây cối mọc gần đó. Bức tường phía trước đã bị dỡ bỏ và khu vườn trước kia giờ được đổ bê tông lên trên để làm chỗ đỗ xe.
Khoảng mười phút sau, họ nhìn thấy một chiếc Volvo màu xanh rẽ từ góc đường Pomfret High Road, chạy thẳng vào khu vườn được lát bê tông. Người đàn ông mà Burden đã đuổi theo xuống xe, không nhìn về hướng họ, bước lên lối đi, vai anh ta khom xuống và cúi đầu tránh mưa. Anh ta đi bộ như thể một người đã thôi phản kháng và biết được giờ là lúc để từ bỏ hy vọng. Sau khi bước vào cửa trước và đóng nó sau lưng mà không thèm nhìn lại, Wexford cùng Burden xuống xe rồi băng qua đường. Họ tới được nửa chừng vỉa hè khi Rick Samphire mở cửa và đứng cúi đầu đợi họ. Có lẽ anh ta đang chờ được triệu tập thi hành án tử của riêng mình.
Bên trong ngôi nhà, Wexford sau đó đã nói rằng nếu phải sống trong đấy, anh sẽ tự tử mất. Căn phòng nhỏ ở phía sau mà Rick đưa họ vào được trang bị một cái ti vi, một ghế sofa cũ được bọc trong lớp nhung màu đỏ bẩn thỉu và rách rưới, một ghế đẩu dùng cho nhà bếp cùng một chiếc ghế nhựa. Cửa sổ không có rèm che, sàn nhà để trần không trải thảm hoặc mền. Một cuốn lịch, vẽ những bức tranh ảm đạm về thuyền buồm, treo trên một bức tường, không có bất kỳ tranh ảnh nào khác.
Nhưng những gì họ nhìn thấy bên ngoài căn phòng, trong một hành lang nhỏ hẹp chạy từ cửa trước ra đằng sau ngôi nhà nhỏ, lại đem đến cho họ hy vọng rằng mình đã đến đúng chỗ và gặp đúng người. Phía cuối hành lang, trên một trong những chiếc sừng cong của cây treo quần áo, là chiếc áo lông cừu màu xám có mũ trùm đầu.
Nếu Rick Samphire có nhìn thấy họ đánh mắt về phía cái áo thì anh ta cũng không tỏ vẻ gì cả. Khuôn mặt xấu hổ của anh ta không biểu lộ một sự thay đổi nào. Ánh mắt anh ta như đã chết. Wexford và Burden ngồi xuống, rồi sau chút lưỡng lự, Rick cũng ngồi xuống, trên mép chiếc ghế đẩu, đôi tay yếu ớt đặt giữa hai đầu gối. Wexford bắt đầu hỏi anh ta có biết Amber Marshalson không và cho anh ta xem ảnh của cô ta, rồi làm tương tự với trường hợp của Megan Bartlow.
Câu trả lời không bình thường: “Tôi không biết”.
“Anh không biết họ, anh Samphire, hay anh không biết là mình có biết họ không.”
“Tôi không biết”, Rick nói lần nữa. “Tôi không biết là mình có biết họ hay không. Có thể tôi đã từng gặp họ. Tôi không thể nhớ ra. Trí nhớ của tôi không được tốt. Vợ cũ của tôi đã hủy hoại trí nhớ của tôi.”
Quyết định không theo đuổi chuyện này nữa, Burden hỏi anh ta có biết khu rừng Yorstone không.
“Ở đâu cơ?” Tâm trạng ủ rũ của Rick đã thay đổi. Anh ta bất ngờ có chút cảnh giác, ý thức, rõ ràng anh ta phải cẩn thận hơn với những gì mình nói, phải khôn ngoan.
“Rừng Yorstone. Nó nằm ở phía nam của đoạn đường từ Kingsmarkham tới Lewes, khoảng giữa Stringfield và Pomfret Monachorum. Anh đã tới đó bao giờ chưa?”
“Tôi không vào rừng”, Samphire nói. “Tại sao tôi phải làm thế?”
“Tôi không biết, anh Samphire. Anh nói xem.”
Wexford hỏi anh ta, “Anh có ở trong rừng Yorstone vào buổi tối ngày Hai mươi tư tháng Sáu hay không? Anh có đậu xe trong rừng và đi bộ thẳng tới cầu Yorstone, mang theo ba lô đựng một tảng bê tông làm hung khí hay không?”.
“Đựng gì?”
“Một tảng bê tông.”
“Tôi chưa từng tới đó. Chưa hề.”
“Khi anh ở trong rừng Yorstone và một lần nữa xuất hiện ở đường Mill, Brimhurst, anh có mặc cái áo lông cừu xám có mũ trùm đầu kia không?”
Im lặng. Sau đó, Rick nói với giọng dữ tợn chậm rãi, “Tôi không muốn nói chuyện với các vị. Tôi đã gặp quá đủ rắc rối với pháp luật rồi. Pháp luật luôn gây phiền toái cho tôi: lấy mất của tôi nhà cửa, tiền bạc và cả những đứa con.”
“Anh Samphire”, Wexford nói, “chúng tôi muốn biết anh đã ở đâu vào tối ngày Hai mươi tư tháng Sáu, đêm mùng Mười tháng Tám và rạng sáng ngày mùng Một tháng Chín. Điều này rất quan trọng. Có lẽ anh sẽ nghĩ về nó và nói cho chúng tôi khi chúng tôi quay lại vào ngày mai”.
“Tôi sẽ không ở đây. Mai tôi sẽ tới tòa nhà ngân hàng cũ.”
“Chúng tôi sẽ gặp anh ở đó”, Burden nói. “Lúc chín giờ.” Chiếc Volvo màu xanh trên sàn bê tông là một chiếc xe cũ, có lẽ đã được mười lăm năm, nước sơn đã mất đi độ bóng từ lâu và trở nên sần sùi. Trên thân nó đầy những vết xước, có vết đã cũ, có vết không quá cũ, và có vết rõ ràng là rất mới. Họ đi xung quanh nó, xem xét những vết trầy xước trước khi rời đi.
Toàn bộ đội của anh đã có mặt trong văn phòng, Wexford thông báo cho họ về đối tượng Rick Samphire. “Anh trai của hắn đã tình nguyện cho chúng ta biết hắn từng có tiền án tiền sự. Để làm gì thì chúng ta không biết. Tôi không biết hắn có giết hai cô gái không. Cho đến giờ, tôi không nghĩ ra được hắn đã ở đâu vào những thời điểm có liên quan. Có lẽ hắn có thể đưa ra được những bằng chứng ngoại phạm thuyết phục và có thể không. Chúng ta không cần phải tìm kiếm động cơ, các cậu biết đấy, nhưng tôi nghĩ tất cả chúng ta nên đưa ra vài lý do cho những vụ giết người không có mục đích rõ ràng và thiếu suy nghĩ như thế này. Những gì tôi không hề mong muốn là khiến lực lượng cảnh sát bị mang tiếng bắt giữ và đưa ra xét xử những người mà bằng chứng chống lại họ thiếu độ tin cậy và những người mà chúng ta chẳng hiểu mấy về họ. Đừng bận tâm những gì tờ Người đưa tin nói về chúng ta. Chúng ta có thể coi như không nhìn, không nghe thấy gì hết. Vì uy tín của lực lượng, chúng ta không bắt giữ một người mà sẽ phải thả đi sau ba mươi sáu tiếng đồng hồ bởi chứng cứ không đủ thuyết phục và hắn, với chút trợ giúp từ bạn bè, có thể tạo ra được những bằng chứng ngoại phạm vững chắc.”
Burden nói, “Xe của hắn có những vết trầy xước có thể là do các nhánh cây thấp trong rừng Yorstone quệt vào và hắn mặc một cái áo lông cừu có mũ trùm đầu. Vì thế, có lẽ, chúng ta cần cử ít nhất một trăm người đến khu vực đó”.
Hannah giơ tay. “Chúng ta nghĩ động cơ có gì đó liên quan đến việc lừa Amber và Megan đến đấy, đúng không thưa ngài?”
“Tôi không biết đó có phải là một dạng lừa đảo hay không, Hannah ạ. Nó thậm chí có thể là hợp pháp. Nhưng, vâng, tôi tin cả hai cô gái đều bị giết vì lý do ấy.”
“Về tội trạng của Rick Samphire, thưa sếp”, Bary Vine nói, “tôi đã báo cáo xong, nhưng có thể sẽ hữu ích cho mọi người ở đây nếu biết được hắn bị kết án về tội gì. Hắn bị bắt vì hành hung vợ, Alison, một lần. Hắn đấm vỡ quai hàm và đá gãy hai xương sườn cô ta. Hắn còn có thêm một tiền án khác vì đã hành hung một người đàn ông bên ngoài quán rượu ở Myringham”.
Cảm ơn anh ta, Wexford nói, “Tôi muốn tất cả các cậu đi điều tra gia thế nhà Samphire. Không chỉ Rick mà cả Ross nữa. Cho đến giờ, tất cả những gì chúng ta đã có là ‘ai cũng tự nói tốt về bản thân’ và tôi không tin rằng có kẻ nào lại có thể trong sạch và tuyệt vời đến thế”. Anh liếc nhìn về phía Burden. “Không, Mike ạ, tôi không thể nói tôi đồng ý với anh rằng treo một bức tranh khỏa thân khá táo bạo trong phòng khách là hoàn toàn vi phạm đạo đức.”
Vine và Trung sĩ Coleman cười phá lên và Burden sẵn lòng nhập hội.
“Và giờ ai đó có thể vui lòng mở giúp tôi trang web của Surrage-Samphire trên máy tính và đọc lên tất cả những thông tin chúng ta có thể lấy được từ đấy không. Đây không phải là cách tồi để bắt đầu đâu.”
Wexford đứng sau Bal và khi anh ta tắt chương trình mình đang nghiên cứu, Wexford yêu cầu anh ta mở trang web của Samphire lên màn hình. Bal đang gõ “www” thì bị Wexford ngăn lại, “Anh không đánh vần được từ khi nào thế Bal?”.
Bal nhìn lên, đôi tay anh để sẵn sàng trên các phím. “Tôi đâu có gõ sai, thưa sếp?”
Wexford không trả lời. Anh nhìn chằm chằm vào lỗi chính tả của Bal. “Tôi nghĩ có lẽ anh đã đánh rất đúng. Đừng thay đổi bất cứ thứ gì nhưng hãy thêm vào một chữ A, một chữ C và một chữ Y, được chứ?”
Hoang mang, Bal làm theo.
“Xin chúc mừng.” Wexford vỗ nhẹ vào vai anh. “Bằng việc không thể đánh vần, anh đã giải quyết được điều bí ẩn làm tôi khó chịu suốt hai tháng qua. Giờ in mọi thứ mà anh có thể tìm thấy với cụm từ ‘Đẻ mướn’, được không? Mọi thứ được cung cấp ấy.”