"Tôi là một thằng ngu”, Wexford nói. “Đáng nhẽ tôi phải biết từ mấy tuần trước chứ. Con gái rượu của tôi đang làm việc này và tôi chẳng hề nhận ra. Nếu như đó không phải là ma túy hay mại dâm, thì còn việc gì có thể đem lại hàng ngàn bảng như vậy ngoại trừ đẻ thuê chứ?” Anh ném xấp tài liệu in ra từ máy tính qua bàn làm việc tới chỗ Burden. “’Dự định làm cha mẹ’, ‘Đẻ thuê, câu trả lời cho giấc mơ của bạn’, ‘Mang thai chủ thể hoặc mang thai hộ’, ‘Đẻ thuê trực tiếp’. Nghe những cụm từ này này.”
“Đẻ thuê trực tiếp là khi trứng của người mẹ mang thai hộ và tinh trùng của người mong muốn làm cha được kết hợp với nhau. Quá trình này có thể diễn ra trong phòng khám của Trung tâm thụ tinh trong ống nghiệm (IVF1) nhưng các kỹ thuật thụ tinh nhân tạo thường được áp dụng tại nhà nhiều hơn. Các em bé là con cái về mặt sinh học của người mong muốn được làm cha và người mẹ mang thai hộ. Mang thai chủ thể sử dụng trứng của người mong muốn được làm mẹ kết hợp với tinh trùng của chồng hoặc tinh trùng được hiến tặng.
1 In vitro fertilisation.
Đứa trẻ được thụ thai bằng phương pháp này không có quan hệ sinh học với người mang thai... Vâng, vâng, tốt, chúng ta biết rồi. Có thể tôi dốt đặc cán mai nhưng tôi biết được những sự thật về cuộc sống trong nửa thế kỷ qua. Đây không phải kiểu mang thai hộ mà Amber và Megan đang thực hiện.”
Burden lướt qua xấp giấy, lắc đầu và đặt xuống. “Theo những gì được nói ở đây, mà tôi nghĩ rằng mình biết, đăng báo tìm người mang thai hộ ở quốc gia này là phạm pháp. Họ khuyên nên tới gặp một trung tâm đẻ thuê.”
“Tôi không nghĩ Megan và Amber đã làm thế, đúng không?” “Cô đang nói rằng họ không làm gì phi pháp đúng không?” “Tôi chắc chắn rằng việc họ đang làm là hoàn toàn phi pháp. Ngồi xuống và tôi sẽ kể cho mọi người nghe một câu chuyện. Một số chi tiết là do tôi tưởng tượng ra nhưng không nhiều lắm. Có lẽ mọi chuyện bắt đầu từ việc Megan đọc được một trong những câu chuyện trên báo về một người mang thai hộ không chịu từ bỏ đứa con mình sinh ra. Có lẽ cô ta cũng đọc được lời giới thiệu về việc đẻ thuê của người phụ nữ này thông qua Internet. Nhưng Megan không biết cách truy cập Internet. Tất cả những thiết bị trong nhà Prinsip - Bartlow đều có được từ những nguồn lợi nhuận bất chính. Cách tiếp cận máy vi tính duy nhất mà cô ta có được là thông qua một trong những tiệm cà phê Internet - nhưng không nhiều vì cô ta chưa bao giờ sử dụng máy vi tính trong đời. Em gái cô ta - Lara - thì có, nhưng hỏi em gái nghĩa là phải tâm sự mọi chuyện.”
“Sau đó cô ta đã gặp Amber”, Burden nói.
“Sau đó cô ta đã gặp Amber. Ở câu lạc bộ Bling-Bling, nơi Lara dẫn cô ta đến vào một buổi tối. Tôi không biết khi nào hoặc bằng cách nào chủ đề này được đưa ra nhưng tôi có thể thấy hai cô gái này có một điểm chung. Cả hai đều rất trẻ, Megan thì mười chín và Amber mười bảy, nhưng cả hai đều đã từng có con. Đó là ‘năng lực’ mà Megan đã nói với Lara rằng cô bé cần phải có. Còn gì hợp lý hơn khi Megan và Amber nói về điểm chung mà họ có lúc ngồi chung bàn trong câu lạc bộ? Hiện tôi không cho rằng hai cô gái đã nói chuyện mang thai hộ trong lần gặp mặt đầu tiên nhưng tôi tin họ đã hẹn gặp nhau lần nữa, có lẽ ở một quán cà phê nào đó và sau đấy là ở nhà Amber, nơi Amber có thể truy cập máy vi tính.”
“Cô đang nói rằng tại buổi gặp mặt cà phê, ví dụ thế, Megan đã vẽ ra kế hoạch cho cả hai người để chuẩn bị trở thành những người mang thai hộ? Không phải ‘chủ thể’ mà là ‘trực tiếp’ mang thai hộ?”
“Đúng vậy. Megan không có ý định đến một trung tâm IVF gần đó hay các trung tâm đẻ thuê. Đầu tiên họ phải tìm hiểu những gì có thể về chuyện ấy thông qua Internet, nhưng Megan không biết sử dụng còn Amber cũng không có nhiều kinh nghiệm, mặc dù có máy tính ở nhà. Mẹ kế của cô ta có thể sử dụng nó nhưng hỏi mẹ kế rõ ràng là không ổn. Mặt khác, John Brooks lại biết về máy tính, anh ta sẽ giúp cô ta. Chúng ta biết rằng Amber đã hỏi anh ta bởi vì Brooks nói với chúng ta thế.”
“Cái gì, hỏi Brooks cách truy cập một trang web đẻ thuê cho cô ta ư?”
“Có thể Amber đã hỏi anh ta cách tìm kiếm trang web đó và những gì tìm được đã khiến anh ta nảy sinh một ý tưởng rồi về nói với vợ mình, người vốn rất muốn có một đứa con. Anh ta không muốn ai biết chuyện ấy, đó là lý do anh ta đã nói dối Hannah. Nhưng quay trở lại với Amber và Megan. Họ có thể làm được nhiều hơn mà không cần gia nhập một trung tâm đẻ thuê bởi vì sẽ là phạm pháp khi đăng báo để tìm người đẻ thuê hoặc quảng cáo việc đẻ thuê ở quốc gia này. Nhưng sẽ lại hợp pháp nếu gia nhập một trung tâm và được giới thiệu đến những cặp đôi cần tìm một người mang thai hộ đứa con cho mình. Tôi nghĩ mình quen một người biết tất cả về các trung tâm đẻ thuê...”
Mùi hương từ bếp nấu của Sylvia là một trong những mùi dễ chịu nhất Wexford từng ngửi thấy. Mùi của đủ các loại thịt không lẫn đi đâu được ngay cả nếu Naomi Wyndham đã từng thừa nhận rằng nó không phù hợp cho phụ nữ mang thai, trẻ em và bất kỳ ai ngoại trừ bản thân anh, người cô ta nghĩ là quá thiếu hiểu biết trong lĩnh vực ẩm thực đến nỗi không thể cứu vãn được. Anh đang ngồi trong bếp của con gái mình với Dora, Naomi và Mary Beaumont, tác giả của món mà bà ta gọi là ra-gu thịt và đậu, thành phần gồm thịt ngỗng, thịt lợn, thịt xông khói, đậu và các loại thảo mộc.
“Tôi chỉ nên ăn rau thôi”, Naomi nói với một cái rùng mình giả tạo. “Nếu ăn thứ này, tôi sẽ phải suy nghĩ suốt ngày rằng nó sẽ tác động như thế nào đến động mạch chủ của mình.”
Mary cười. “Tôi đã nhìn thấy vài động mạch chủ, cưng ạ, cả bên trong lẫn bên ngoài”, bà ta nói, “và tôi tin rằng sẽ tốt hơn nếu mọi người không biết rằng họ có nó”.
“Thêm chút rượu nhé, bố”, Sylvia nói. “Mẹ có thể lái xe mà.”
“Chỉ một ly vang đỏ thôi đấy”, Wexford nói. “Naomi sẽ không phản đối vang đỏ đâu nhỉ. Kể cả bác sĩ Atkins cũng không phản đối cơ mà.” Naomi bắt đầu phản ứng một cách vô cùng kịch liệt về chế độ ăn kiêng Atkins khi anh ngắt lời cô ta. “Naomi, một phụ nữ hiểu biết” - Chúa tha tội cho ông ta! - “cô sẽ không ngại khi tôi hỏi cô điều này chứ? Khi cô và Neil quyết định tìm một người mang thai hộ, hai người có phải là thành viên của một tổ chức tranh đấu với... ờ, bệnh vô sinh không?”.
“Chúng tôi là thành viên của hai tổ chức. Babies for All và SOCC.”
“SOCC?”
Mary trả lời, “Nhóm Khắc phục Vô sinh tại Sussex. Họ đặt trụ sở chính tại đây. Tôi làm việc cho họ”.
“Bà là y tá, đúng không?”
“Hộ sinh, anh ạ. Tôi tình nguyện làm việc tại SOCC.” Naomi cười lanh lảnh. “Đăng báo tìm người mang thai hộ và quảng cáo bản thân là người mang thai hộ là trái pháp luật nhưng chẳng có gì ngăn được anh gặp gỡ và nói chuyện về bi kịch lớn lao của cuộc đời mình. Không gì cản được anh đưa ai đó tới Babies for All mà anh nghĩ cô ta có thể trở thành một người mang thai hộ chừng nào anh còn câu nệ khi nhắc đến cô ta.”
“Hoặc, tôi giả định, nếu cô ta cung cấp dịch vụ một cách riêng tư cho một cặp đôi trong số các thành viên của bà.”
“Dĩ nhiên.”
“Họ sẽ là những kẻ ngốc nếu họ không điều tra kỹ lưỡng trước khi làm bất cứ điều gì với cô ta”, Mary thẳng thắn nói.
Wexford trầm ngâm, “Nhưng người ta sẽ trở nên ngu ngốc hoặc rất liều lĩnh khi họ lâm vào bước đường cùng. Và thật khó để nghĩ ra còn có điều gì khác mà một người phụ nữ có thể đặc biệt cần hơn đứa con của chính cô ta”.
Trước sự ngạc nhiên của anh, Naomi nắm lấy tay anh và siết chặt nó. Anh nhìn cô ta, khó có thể tin rằng người phụ nữ này, người anh từng nghĩ là hời hợt và nông cạn, lại có thể có những xúc cảm sâu sắc đến vậy. Những giọt nước mắt lấp lánh trên khóe mắt cô ta và đọng lại ở đó, không rơi xuống.
Dora hít một hơi thật mạnh, “Chốt lại là, anh còn muốn biết gì nữa không? Anh đã quá quen với việc thẩm vấn, đến nỗi anh làm thế ở bất cứ chỗ nào anh tới”.
Anh nặn ra một nụ cười. “Tôi xin lỗi mọi người. Tôi sẽ im miệng lại. Chúng ta có thể dùng bữa chưa, Sylvia? Bố không thể chịu được việc phải ngửi cái mùi quyến rũ này thêm nữa đâu.”
Khi họ tiến vào tòa nhà ngân hàng cũ lúc chín giờ sáng ngày hôm sau, Ross Samphire đang ở đó một mình.
“Rick sẽ đến muộn một chút”, Ross nói.
Anh ta đang leo lên cái thang nhôm hình chữ A, gắn những đường gờ vào tâm của bông hồng trên trần nhà.
“Anh ta sẽ không bỏ chạy khi nhìn thấy tôi, phải không?”, Burden lạnh nhạt nói. “Tôi không muốn phải đuổi theo anh ta dọc cái phố High Street này lần nữa đâu.”
“Tôi có thể đảm bảo cậu ta sẽ không bỏ chạy nữa đâu. Cứ để đó cho tôi. Cậu ta sẽ đến đây bây giờ đấy.”
Giấc ngủ đêm qua không làm cho diện mạo của Rick Samphire khá khẩm hơn. Lần đầu thấy họ ở cùng nhau, Wexford thấy ngạc nhiên về việc hai người này có thể là anh em sinh đôi. Nhìn họ đứng cạnh nhau - Ross xuống thang, mỉm cười và nói, “Chào Rick. Cậu thế nào?” - họ trông giống những nhân vật trong loạt quảng cáo “trước” và “sau”.
Anh ta đã nói câu dài nhất từ trước đến giờ mà họ nghe được. “Nếu phải hầu chuyện hai vị, tôi muốn nói trước sự chứng kiến của anh trai tôi và tôi không muốn đi đến bất cứ đâu anh trai tôi không nghe được tôi nói gì và cả hai vị nói cái gì.”
Vẻ hài lòng thể hiện trên khuôn mặt Ross nhìn rất mắc cười. Anh ta cười và huých vào vai Rick một cái.
“Tôi không phản đối chuyện anh trai anh ở đây”, Wexford nói. “Đầu tiên, tôi muốn biết anh đã ở đâu vào buổi tối ngày Hai mươi tư tháng Sáu trong khoảng tám đến mười giờ tối.”
“Lúc đó, Ross đang đi nghỉ mát”, anh ta nói như thể tung tích của anh trai anh ta là mối quan tâm hàng đầu. “Tôi thì ở Mermaid với Norman.”
Anh ta nói không cần suy nghĩ, Wexford ghi nhớ điều này, không cần lưỡng lự khi cung cấp tên và địa chỉ trong bốn tháng qua.
“Ai là Norman?”
“Norman Arlen”, Rick lẩm bẩm. “Đúng vậy. Đó là địa chỉ nhà Arlen.”
Wexford đã biết trước sau gì Ross cũng sẽ cắt ngang. Nhưng không nghĩ lại sớm vậy. “Anh không cần phải nghiêm túc thế đâu. Mọi người đều biết nơi Norman sống. Ngôi nhà của anh ta rất nổi tiếng.”
“Không nổi tiếng trong giới của chúng tôi”, Burden nói. “Ồ, vâng. Đó là Tòa thị chính Pomfret.”
Không bằng chứng ngoại phạm nào khiến Wexford ấn tượng hơn việc một người chăm chỉ đi làm vào đêm ngày mùng Mười, rạng sáng ngày Mười một tháng Tám. Cúi đầu, lầm bầm, Rick nói anh ta đã ở cùng vợ cũ của mình, chăm sóc lũ trẻ.
“Đó là cách duy nhất để tôi được gặp lũ trẻ. Chăm sóc chúng. Cô ta và cái gã ở cùng cô ta đã đi chơi. Cô ta ở cùng hắn trong căn nhà của tôi. Cô ta có được nó sau khi ly hôn. Trông chừng bọn trẻ là cơ hội duy nhất để tôi được gặp chúng. Thời buổi này, người cha chẳng làm được gì cả. Tôi đang tham gia Hiệp hội Công lý cho những người cha.”
Đặt tay lên vai em trai mình, Ross cắt ngang, “Alison sống ở Myringham. Rick rất hiếm khi trông đám nhóc hộ cô ta. Đó không phải là tình huống lý tưởng nhưng anh có thể làm gì chứ?”.
“Không gì cả, trong trường hợp của anh”, Burden ngắt lời, “Tôi không hỏi anh. Nếu anh muốn ở lại cùng em trai mình thì làm ơn giữ yên lặng”. Ross trông có vẻ bị tổn thương hơn là bị xúc phạm. “Anh đã không còn ở cùng với bọn trẻ vào hai giờ sáng”, Burden nói với Rick. “Anh rời khỏi nhà vợ cũ lúc nào?”.
“Không phải nhà cô ta, mà là nhà tôi”, Rick nói, tỏ rõ anh ta không bao giờ có ý định để yên cho việc đối xử bất công với mình nhưng lại lo lắng về nó bất cứ lúc nào chủ đề ấy được đưa ra. “Đó là nhà của tôi, tôi đã mua thế chấp nó bằng số tiền mình kiếm được.”
“Anh rời đi lúc nào?”, Wexford gằn giọng nói.
Ross nhướng cặp mắt nâu của mình lên và nói theo cách của một luật sư đang bảo vệ nghi can, “Giờ chắc không cần dùng đến giọng đó chứ?”.
“Tôi sẽ dùng giọng nào tôi muốn. Tiếp tục nào. Mấy giờ anh rời đi?”
Ross tạm bằng lòng với một cái nhướng mắt. Vẫn lầm bầm, Rick nói, “Tầm mười một giờ. Bọn họ về thì tôi đi. Bọn trẻ đã ngủ rồi. Tôi không nói gì nhiều với cô ta và gã kia. Tôi ra ngoài và con xe mắc dịch của tôi chết máy”.
“Cậu biết là tôi sẽ mua cho cậu một con xe khác mà, Rick”, Ross nói.
Bực mình nhưng không thể hiện ra, Wexford nói bằng giọng mỉa mai, “Làm ơn đừng xen ngang nữa, anh Samphire. Nếu anh tái phạm, tôi sẽ phải yêu cầu em trai anh về đồn nói chuyện”.
Bất ngờ Rick bắt đầu nói mà không cần phải hỏi hay nhắc nhở. Nghe có vẻ những gì anh ta nói đã được học thuộc lòng hay ăn sâu vào trong đầu anh ta. Nếu mình không bị thuyết phục trước đó rằng gã này chính là người mình cần, Wexford nghĩ, thì chắc giờ mình đã tin thế rồi.
“Tôi đang trên đường đi ngang qua Pauceley. Đoạn đường A3923. Động cơ xe của tôi bị chết máy và không khởi động lại được nữa. Tôi đã xem qua nhưng không tìm ra được vấn đề nằm ở đâu. Tôi còn cách nhà mình hơn mười hai cây số. Tôi nghĩ mình sẽ phải để xe lại và đi bộ thôi.”
“Anh có phải là thành viên của AA2 không?”
2 AA: The Automobile Association (Hiệp hội ô tô).
“Nhìn tôi giống thế lắm à? Tôi còn không có điện thoại kìa. Tôi không đủ tiền mua điện thoại. Cô ta lột của tôi từng đồng đến nỗi tôi không còn đủ tiền mua những thứ như thế. Cô ta đã cướp đi mọi thứ tôi làm ra.”
Nhận thức được rằng chỉ có thể tiếp tục bằng cách mớm lời cho thằng cha này, Wexford hỏi anh ta có đồng ý rằng lúc đó là nửa đêm hay không. Rick gật đầu. “Có ai đi ngang qua chỗ anh không? Hẳn anh phải thấy các xe khác chứ? Có ai dừng lại không?”
“Cho phép tôi được nói, thưa ông”, Ross nói. “Được rồi. Anh nói đi.”
“Có một xe dừng lại lúc đó. Hắn bảo Rick có thể mượn điện thoại gọi nhờ. Tôi đã nói với cậu ta vào ngày hôm sau, rằng tại sao không gọi cho tôi và cậu ta nói rằng không muốn làm phiền tôi vào lúc đó.”
“Em trai anh có thể nói với tôi chuyện ấy cơ mà”, Wexford nói. “Tay lái xe đó tên gì?”
Với điệu bộ như thể đang ngẫm nghĩ, có lẽ học được từ mẩu chuyện hư cấu nào đó, Rick lẩm bẩm cái tên, “Steve - vâng, Stephen Lawson. Hắn vừa từ khách sạn Cheriton Forest về, hắn nói thế. Hắn bảo cho tôi đi nhờ xe nhưng chẳng ích gì cả. Hắn đang đi ngược chiều với tôi. Hắn đang định đến chỗ tôi mới rời đi”.
Cuối cùng cũng có vài thứ để xác minh. Nếu thực sự có Stephen Lawson, người đã từng ở khách sạn Cheriton Forest vào tối ngày mùng Mười tháng Tám, thì chắc sẽ dễ dàng tìm được hắn. “Thế nên anh đi bộ về Pomfret?”
“Tôi đã mất ba tiếng đi bộ. Tôi không còn khỏe như trước nữa.”
“Được rồi”, Burden nói. “Xe của anh giờ thành cái gì rồi? Nó có bị thu gom làm phế liệu ngày hôm sau không?”
“Rick gọi cho tôi và tôi đã nhờ một đội sửa chữa đem nó về nhà.”
“Được rồi, anh Samphire. Thế là đủ rồi”, Wexford nói. “Kể từ giờ phút này anh có thể nói gì tùy ý, chúng tôi sẽ về đồn cảnh sát.” Thấy Ross có ý định đi cùng, “Không phải anh. Nếu cần nói chuyện với anh, tôi sẽ đến một mình”.
Rick Samphire lê bước vào đồn cảnh sát Kingsmarkham như bước vào cánh cổng địa ngục. “Đừng hy vọng gì nữa, một khi ngươi đã bước chân vào đây” có lẽ đã được viết lên cánh cửa tự động mới lắp ở đây. Wexford dẫn anh ta vào căn phòng thẩm vấn ít dễ chịu hơn những phòng khác, với tường gạch quét vôi trắng, sàn lát nhựa dẻo và những kiểu nội thất nhìn như là bếp ăn thế kỷ XIX.
Ở đây họ tiếp tục cuộc thẩm vấn ban nãy.
“Tại sao lại đem xe tới nhà anh trai anh? Thay vì đến xưởng sửa chữa?”
“Chúng tôi có thợ sửa chữa riêng, nếu các vị muốn biết”, Rick nói.
“Dĩ nhiên là chúng tôi muốn biết. Đó là lý do tại sao anh ở đây. Anh đã làm gì vào buổi sáng ngày mùng Một tháng Chín?”
Rick dường như không thấy ngạc nhiên với câu hỏi đó. Nếu ngày hôm ấy không có ý nghĩa gì với anh ta, thì anh ta đã hỏi lại họ “Khi nào?” hay “Gì cơ?” chứ không giữ vẻ mặt buồn rầu và nói, “Tôi ở tòa nhà ngân hàng cũ. Cùng với Ross và Col”.
“Colin Fry phải không?” “Đúng.”
“Mấy giờ anh đến đó và rời đi lúc nào?”
“Tôi đến lúc tám giờ. Tám giờ sáng và tôi rời đi lúc bốn giờ chiều, Colin sẽ nói cho các vị biết. Anh ta là một gã tốt bụng, Colin ấy.”
“Giờ thì, anh Samphire”, Wexford nói, “kể cho chúng tôi nghe về Nhóm Khắc phục Vô sinh Sussex và những bà mẹ mang thai hộ, được chứ?”.
“Tôi không biết ông đang nói cái gì”, Rick nói. “Khắc phục cái gì cơ?”
“Nhóm Khắc phục Vô sinh Sussex hay gọi tắt là SOCC.” Đột nhiên đỏ mặt, mắt anh ta nheo lại, Rick cười phá lên, “Nếu ông muốn biết tôi nghĩ gì về chứng vô sinh, tôi sẽ nói cho ông nghe. Đó là một ý tưởng hay dã man. Tôi ước một cách chết tiệt rằng mình bị vô sinh. Tôi ước gì những đứa con của tôi chưa bao giờ được sinh ra”. Đột nhiên phát âm một cách rõ ràng, thậm chí tỏ ra có tài ăn nói, anh ta thốt lên với vẻ đắc thắng. “Tôi không muốn có con. Là cô ta muốn. Nhưng một khi chúng được sinh ra ông tự nhiên sẽ yêu thương chúng, ông không thể kiềm chế được, và ông phải trả tiền để nuôi chúng trong cả quãng đời khổ sở còn lại của ông.”
Đó không phải là ngày để đến Gooseberry Bush ăn trưa. Ánh nắng mặt trời tỏa sáng lấp lánh trên dòng sông Kingsbrook, sự ngọt ngào của Michaelmas lan tỏa trong không khí và chẳng có lấy một cơn gió thổi tung khăn ăn trên mặt bàn. Tất cả những gì có thể mô tả về ngày hôm đó là trời quang mây tạnh. Một màn sương mờ trắng, cảm giác lạnh lẽo, lững lờ trên mặt sông.
“Ngoài bữa sáng”, Burden nói, “thì đây là lần đâu tiên tôi với anh có bữa trưa đúng nghĩa kể từ đầu tháng Tám”.
Wexford chuyển thực đơn cho anh ta. “Và dường như chúng ta chẳng có gì để ăn mừng cả.”
Wexford uống một ngụm soda. “Tôi băn khoăn liệu có nhà hàng nào xứng đáng với đồng tiền kiếm được mà không phục vụ cá vược trong lúc chúng ta đang nói hay không. Phải có đến hàng ngàn con được tiêu thụ mỗi ngày. Khi tôi cảm thấy mình bị đối xử bất công hay chuyện gia đình trở nên khó khăn, tôi phải cảm ơn Chúa vì mình không phải cá vược.”
Cô phục vụ đóng và khóa cửa kính dẫn ra bờ sông, kết thúc một ngày tồi tệ. Wexford gọi món cho cả hai, nhìn danh sách rượu một cách thèm thuồng rồi đẩy nó ra xa.
“Việc tôi muốn làm vào chiều nay, Mike ạ, là nói chuyện với tay Ross Samphire thuê, Colin Fry. Xem xem liệu hắn có thực sự ở đó với hai người bọn họ vào ngày mùng Một tháng Chín không, và liệu chúng ta có thể biết nhiều hơn về hai anh em họ qua hắn hay không.”
“Ok, chúng ta sẽ làm thế”, Burden lơ đãng nói trong lúc đang nhìn chằm chằm một chiếc bàn phía xa, ở đó một người đàn ông tầm ba mươi và một chàng trai trẻ đang ngồi. Rồi Burden quay lại. “Anh có biết người kia là ai không, thằng cha mặc áo khoác da ấy?”
“Tôi nên biết sao?”
“Chắc không đâu. Tôi không nghĩ anh đã từng gặp hắn nhưng đó là John Brooks. Dãy nhà Jewel, nhớ chưa?”
“Biết thế. Có chuyện gì sao?”
“Tôi nhắm mắt cũng có thể nhìn thấy họ từ đây. Ước gì anh cũng thế. Không nghi ngờ gì gã trẻ tuổi đi cùng hắn là bạn trai. Không phải vì họ đang sờ soạng nhau - mặc dù Brooks khoác tay mình lên vai người kia khi họ vào bàn ăn - nhưng cái cách họ nhìn nhau thì không lẫn đi đâu được.”
Wexford thở dài. “Tôi có thể sắp mất bình tĩnh nhưng giúp tôi hiểu đi, Mike ạ. Tại sao lại không thể là bạn trai của hắn ta? Quan hệ đồng tính đã được pháp luật cho phép gần bốn mươi năm rồi.”
“Ý tôi không phải vậy”, Burden sốt ruột nói. “Brooks là gã đã chứng minh việc đi qua đêm của mình bằng cách nói với Hannah rằng hắn tới thăm bạn gái nhưng hóa ra đó lại là em gái hắn. Nhớ chưa?”
“Giờ anh nhắc tôi mới nhớ.”
“Chà, đó là lý do tại sao hắn lại nói mình đến thăm một người phụ nữ. Bởi vì hắn là người đồng tính và hắn không muốn vợ mình biết.”
Nụ cười của Wexford bỗng trở nên kín đáo. “Chúng ta có định làm gì với chuyện này không?”
“Hannah muốn hắn phải chịu tội vì đã làm lãng phí thời gian của cảnh sát - nhưng không”, Burden nói. “Tôi nghĩ tôi sẽ chỉ nói xin chào.”
Và khi họ đi ngang qua bàn của Brooks, thật sự anh ta đã nói vậy. Lúc ngoái nhìn lại, Wexford thấy mặt Brooks đỏ ửng lên. Bên ngoài, bầu trời đã chuyển sang xám xịt, những ngày này mặt trời dường như không thể ló dạng được nữa.
Burden hy vọng việc khám phá ra bí mật của Brooks sẽ làm Hannah thấy thích thú. Cô chắc chắn sẽ không thấy chán ghét? Chắc chắn vậy. Đầy bối rối, Burden gạt Hannah sang một bên và quay trở lại với cuộc điều tra gia thế của Ross Samphire.
Và Hannah, dĩ nhiên, không hề thấy chán ghét giống như anh đã nghĩ. Cơn phẫn nộ của cô xuất phát từ việc phát hiện ra rằng một gã đàn ông đồng tính tuổi trung niên, không phải một thiếu niên, có thể quá lỗi thời, quá yếu ớt và khiếp nhược, vì không chỉ là người đồng tính mà còn chủ động thu mình lại và run sợ dưới lớp vỏ bọc cũ kỹ, ngột ngạt lẫn giam lỏng tự do. Không phải vì hắn đã nói dối vợ - đàn ông thường làm vậy và những bà vợ cũng thế, một trong rất nhiều mặt trái của hôn nhân - mà vì hắn đã nói dối cô, nói dối cảnh sát. Vì chính lý do đó!
Bal đã đưa cô về ra mắt cha mẹ anh. Chỉ mới tối hôm thứ Bảy. Trên đường tới Hereford, nơi họ đang sống, cô đã tưởng tượng về họ, Rajiv, cha của anh, sẽ mặc bộ áo dài trắng mà đàn ông Ấn Độ hay mặc - cô không thể tha thứ cho bản thân vì không nhớ nổi tên gọi của nó - và mẹ anh, Parvinder, trong trang phục sari, mái tóc xám thắt búi sau đầu, cổ và tay đeo đầy trang sức. Nhưng khi hai người đến nơi, căn nhà hóa ra lại là nhà bằng đá trong một ngôi làng, cha anh mặc bộ quần áo bằng vải flanen màu xám và áo khoác có phéc mơ tuya, còn mẹ anh thì vận quần jean với áo len. Cô có chút thất vọng và càng thất vọng hơn khi bữa tối không có cà ri gà tại nhà mà là các món Ý trong một nhà hàng ở Hereford. Hannah sẽ thật sự hoàn toàn vỡ mộng nếu cô và Bal được chỉ định ngủ chung một phòng nhưng cô lại được sắp xếp ngủ trong căn phòng cuối nhà còn anh thì ngủ tại phòng khác. Cuối cùng, mọi thứ vẫn không thay đổi gì so với tình huống ở Kingsmarkham và có vẻ sẽ còn tiếp tục như vậy vô thời hạn.