Colin Fry sống cùng bạn gái trong một căn hộ bên trên tiệm giặt khô ở đường Glebe nhưng hiện anh ta đang không có ở nhà. Người bạn gái nói rằng Colin có một vài công việc bán thời gian để “tạm thời thay thế” khi anh ta không làm cho Ross Samphire. Cô ta không chắc Colin Fry ở đâu hôm nay nhưng cô ta cho họ hai địa chỉ ở Kingsmarkham. “Các ông có thể ghé qua thử xem”, cô ta nói. “Hôm nay anh ấy sẽ không làm thợ máy. Có thể anh ấy đang làm thợ cắt cỏ hoặc lau cửa sổ.”
Căn hộ thật đáng ngạc nhiên. Wexford tự nhủ rằng hẳn anh ta phải là một gã đua đòi thuộc tầng lớp trung lưu bởi vì anh đã mong đợi được thấy vài thứ giống như nơi ở của Keith Prinsip nhưng không hề có mấy thứ thiết bị hiện đại ấy. Nơi này làm anh liên tưởng đến căn phòng trong một khách sạn hạng trung. Không phải ở tầng lớp của khách sạn Vier Pferde, không đến hai sao, nhưng rất chỉnh tề. Thảm trải sàn màu cà phê nhạt. Những tấm thảm và rèm che có màu tối, đồ đạc được đánh bóng còn những bức tranh treo tường theo trường phái nghệ thuật Athena. Căn phòng gọn gàng và có vẻ kín đáo, không giống cô bạn gái, mặc dù trời nóng, vẫn vận quần đùi đỏ, áo phông trắng với dòng chữ in màu tía “This Bitch Bites” và đôi xăng đan cao gót cũng màu đỏ.
Tiễn họ ra ngoài, cô ta nói, “Nếu các ông không thể tìm thấy anh ấy, tầm sáu giờ anh ấy sẽ về và các ông có thể gặp được. Chúng tôi chỉ ra ngoài lúc bảy giờ, để chỗ này bỏ không”. Cô ta bắt gặp ánh mắt của Burden và nháy mắt.
“Đó là ý gì nhỉ?”, Burden nói lúc đi xuống cầu thang. “Chúa mới biết. Chắc chắn chẳng liên quan gì đến chuyện đang được nhắc tới.”
“Có lẽ không. Thường thì phụ nữ trẻ không hay nháy mắt với tôi.” Họ vào trong xe. “Thử suy đoán thông minh chút, sau trận mưa hôm qua thì anh ta không thể đang cắt cỏ, vì vậy anh ta sẽ đi lau cửa sổ.”
Đúng là vậy. Họ thấy anh ta ở một căn nhà trên phố Ladyhall. Anh ta đang ngồi trên bậu cửa sổ tầng ba, quay lưng lại với họ và đánh bóng khung cửa.
“Xét tới vấn đề sức khỏe và an toàn, mọi người sẽ không để lũ trẻ chơi xích đu nữa, tôi tự hỏi tại sao họ không cấm lau cửa sổ luôn đi. Anh Fry!”, Wexford nói.
“Tôi đây.” Anh ta không thèm quay lại. “Phòng Điều tra Kingsmarkham. Chúng ta có thể nói chuyện không?”
“Tôi sẽ xuống đó trong một phút nữa. Tôi sắp xong việc rồi.”
Ánh mặt trời yếu ớt le lói sau những đám mây dày đặc. Nó mang lại chút ấm áp và khiến sương mù bắt đầu tan dần đi. Wexford và Burden ngồi trong xe; Colin Fry xuất hiện từ phía cửa trước, mang theo một cái xô cùng một túi giẻ vụn. Anh ta có dáng người thấp gầy, chừng ba mươi tuổi, tóc đỏ và nước da hồng hào.
“Chúng ta có thể nói chuyện trong này”, Burden nói với ra.
Điều này hiển nhiên làm Fry khó mà chấp nhận được. Cái cảnh ngồi trong xe cảnh sát để nói chuyện có lẽ làm anh ta nhớ lại khoảng thời gian khi mình ít trong sạch hơn. Mặc kệ điều đó như thế nào, anh ta lắc đầu, nói “Không đời nào” và mời họ vào trong chiếc xe tải của mình. Trông nó như thể được dùng làm nhà kho - nơi tích tụ các loại rác và đồ bỏ đi không được phép có mặt trong những căn hộ trên đường Glebe: chai rỗng, vỏ bao thuốc lá, tạp chí, bao bì mang đi, túi nhựa và nhiều loại vải khác nhau như nỉ - lông cừu - ni lông các loại. Trong số này, Wexford để ý, có một cái áo lông cừu màu xám đậm có mũ trùm đầu.
“Ross là một gã tốt bụng”, Colin nói vậy, nhại lại giọng của Ross khi nói về bản thân anh ta. “Theo cái cách mà ông sẽ gọi là một gã rất thẳng thắn. Tôi đã làm việc cho anh ta năm năm và chưa bao giờ phải phàn nàn một câu. Ý tôi là, cái cách mà anh ta đối xử với em trai, các anh sẽ không tìm thấy nhiều gã làm được như thế đâu. Mua cho cậu ta căn nhà, các anh biết đấy. Cho cậu ta xe. Tặng cậu ta điện thoại và trả tiền thuê bao. Không có nhiều gã làm được thế đâu.”
“Anh sẽ tập trung vào hai vụ giết người, anh Fry ạ”, Wexford nói. “Amber Marshalson và Megan Bartlow. Anh có biết ai trong số hai cô gái đó không? Ross có biết không?”
Colin lắc đầu. “Chưa bao giờ nghe qua.”
“Kể chúng tôi nghe anh đã ở đâu vào sáng ngày mùng Một tháng Chín, trong khoảng từ chín đến mười giờ, được chứ?”
Giống như Rick, phản ứng của anh ta là bình tĩnh và nhanh nhảu. Không phải tự nhiên mà trả lời nhanh đến vậy. “Trong tòa nhà ngân hàng cũ cùng Ross và Rick.”
“Sao anh chắc thế?”
“Xem này, không thì thế nào nữa”, Colin nói. “Chúng tôi đến đó lúc tám giờ, tôi lên lầu còn Ross và Rick ở tầng dưới hoàn thiện cái trần. Tôi thì ở tầng trên sơn tường.”
“Không phải công việc mà anh có thể bỏ dở giữa chừng”, Wexford nhẹ nhàng nói.
Fry nhìn anh bối rối. “Đúng, nếu như làm đúng cách. Còn vấn đề gì nữa không bởi vì tôi có việc phải làm?”
Họ theo anh ta tới đường Glebe, đỗ xe và dõi theo anh ta tự mình đi vào sau một cánh cửa sơn đỏ kế bên cửa sổ của một tiệm giặt khô.
“Anh có để ý gì không?”, Burden nói. “Rick nói rằng anh ta không có điện thoại nhưng, theo lời Fry, Ross đã mua cho anh ta một cái. Đó là một nghi vấn nhỏ, dĩ nhiên rồi.”
“Nó chỉ ra rằng Rick đã nói dối.”
“Có hai điều nữa làm tôi thấy khá thú vị”, Burden nói. “Trước tiên là nhà của Fry. Có vẻ khá bí ẩn. Tại sao trông có vẻ như họ đang muốn tìm người mua nhà vậy? Có lẽ họ đang định bán nhà thật nhưng tôi không nghĩ vậy. Vì một lý do, tôi không tin căn nhà đó thuộc quyền sở hữu của họ. Họ đang thuê nó. Điều còn lại là cái áo lông cừu có mũ trùm đầu trong xe tải. Ồ, tôi biết thế giới này có hàng vạn chiếc áo lông cừu có mũ trùm đầu, đặc biệt là thời buổi này, nhưng thực sự tôi nghĩ chúng ta không nên bỏ qua.”
“Chắc chắn rồi”, Wexford nói. “Về căn hộ của Fry, tôi nghĩ họ đang điều hành một nhà chứa. Dĩ nhiên, đó không phải là phạm tội, nếu như căn nhà đó không có hơn một người phụ nữ; thì nó không phải là nhà chứa.”
“Gì cơ, ý anh là một cặp đôi thuê chỗ đó trong một tối hoặc một đêm?”
“Một đêm dài, tôi nghĩ vậy. Cô bạn gái nói rằng họ sẽ ra ngoài, để chỗ đó bỏ không, và nháy mắt với anh. Với anh, không phải với tôi. Có thể cô ta nghĩ anh có khả năng là một khách hàng. Liệu cái nháy mắt đó có ý nghĩa gì nữa?”
Giống như bao người khác tại Kingsmarkham và trong những ngôi làng, Burden đã thấy hình ảnh của Tòa thị chính Pomfret trên tạp chí Thời báo Chủ nhật. Con người trong ảnh thường trông tệ hơn thực tế (béo hơn, già hơn, lùn hơn) trong khi tòa nhà lại đẹp hơn. Lái xe tới cửa trước tòa nhà theo phong cách kiến trúc Palladio, Burden để ý rằng điều đó không đúng với trường hợp này. Trong ảnh đã trông rất ấn tượng; thực tế lại càng hoành tráng. Không thể giải thích được, vào ban ngày thì sáng sủa và đầy nắng, bầu trời xanh thẳm và ngôi nhà của Norman Arlen nổi bật lên như thể nó là một cung điện tại Ý hay một biệt thự trước thời Nội chiến ở Deep South. Hai cầu thang có lan can dẫn lên mặt tiền, tụ lại tại cửa chính có mái. Nghệ thuật tạc tượng của tòa nhà làm anh nhớ đến bức phù điêu của Parthenon anh từng nhìn thấy một lần khi đi du lịch. Anh tự nhủ với bản thân rằng một gã đàn ông có thể tươi cười bên ngoài nhưng thật ra lại là kẻ độc ác (như Wexford đã nói) vậy thì anh ta cũng có thể sở hữu một trong những căn hộ lộng lẫy nhất nước Anh nhưng thực tế là một kẻ lừa đảo.
Anh đã sống trong khu vực này suốt cả cuộc đời, dĩ nhiên anh từng nhìn thấy ngôi nhà này trước đây. Anh đã thấy nó từ khi một nam tước già sống ở đó, từ khi nó còn là ngôi nhà xám tồi tàn trên vùng đất cằn cỗi hoang vu. Theo báo chí, Norman Arlen đã dùng tiền mua lại và vẫn chưa trả xong. Tiền đó từ đâu ra? Người phóng viên viết mẩu tin kia đã mô tả anh ta là chủ một đại lý du lịch và ám chỉ anh ta còn có việc làm ăn khác nữa. Burden lên cầu thang bên tay trái, Sĩ quan Bhattacharya theo sau, giật mạnh dây chuông.
Burden cứ nghĩ sẽ có một quản gia, hay ít nhất là người hầu, nhưng hóa ra Norman Arlen lại tự ra mở cửa. Anh nhận ra anh ta qua bức ảnh trên tạp chí. Mặc dù không được thông báo trước về sự ghé thăm của họ, Arlen vẫn rất niềm nở, đặc biệt là với Bal, người tin rằng thói lịch sự kẻ cả đó cùng nụ cười luôn hướng về mình rõ ràng mang thái độ trung lập hơn là sự phân biệt chủng tộc. Anh ta dẫn họ qua đại sảnh lớn có trần hình cái trống cao đến hơn chín mét, vào căn phòng mà Burden nhận ra là loại phòng người ta vốn chỉ có thể mong được nhìn thấy vẻ bề ngoài của nó, điều này dường như là không tưởng nhưng Arlen lại đang gật đầu và mỉm cười với họ.
“Sự thật là tôi đã quen biết hai anh em nhà họ gần như cả cuộc đời. Thật tình mà nói, chúng tôi lớn lên cùng nhau, đi học cùng nhau ở Nam Luân Đôn.”
“Vì thế sẽ là bình thường khi anh gặp Rick và hai người các anh cùng đi nhậu.”
“Hoàn toàn bình thường.” Arlen ngừng lại và hình như đang tìm cách tốt nhất để diễn tả điều này. “Xem này, tôi sẽ thành thật với hai anh. Tôi sẽ hoàn toàn trung thực. Ross và tôi có một mối quan hệ hơn mức bình thường. Thực tế, tôi là cha đỡ đầu cho con gái Laura của anh ấy.”
“Vì thế anh đã ăn tối cùng anh ta ở nhà anh ta vào ngày mùng Mười tháng Tám?”
“Vâng, chính thế. Ross và tôi có rất nhiều chuyện để nói với nhau và tôi đã ở đó đến khuya. Hẳn phải quá nửa đêm tôi mới ra về.” Arlen đứng dậy, đi thẳng tới cái bàn đen mạ vàng, mở ngăn kéo ra như thể tìm kiếm tài liệu gì đó rồi đóng lại. Anh ta quay trở lại với nụ cười trên môi. “Trở lại với Rick. Sự thật là, nếu là người có nhân tính thì sẽ thấy cảm thông với Rick. Anh ta là một người khốn khổ, kém may mắn và, Chúa ơi, anh ta đã bị trừng phạt vì điều đó. Các anh biết ý tôi là gì rồi đấy.”
“Không rõ lắm, anh Arlen”, Burden nói. “Nếu anh đang nhắc đến cuộc lưu trú của anh ta như một khách mời của Nữ hoàng trong nhà tù Myringham và Brixton, thì tôi thực sự không biết vận rủi của anh ta từ đâu ra.”
Arlen đáp lại bằng một tràng cười sầu thảm. Anh ta quay sang Bal và nói, “Tiếp tục đi”.
“Anh có gặp anh ta”, Bal nhanh nhẹn nói, “tại quán rượu Mermaid ở Pomfret vào ngày Hai mươi bốn tháng Sáu trong khoảng từ tám đến chín giờ tối không?”.
“Có. Để tôi thuật lại chính xác từng chi tiết. Tôi đến nhà anh ta ở đường Potter. Lúc đó là vào khoảng tám giờ kém mười lăm. Thực tế là tôi muốn ra ngoài ăn tối cùng anh ta và tôi đã định chọn khách sạn Cheriton. Đi ăn ngoài cùng anh ta là việc tôi thường làm. Nhưng Rick tội nghiệp bị dọa cho phát sợ bởi vẻ hào nhoáng của khách sạn Cherinton, anh ta nói rằng mình không có quần áo, các anh có thể tưởng tượng ra thứ đó rồi đấy.”
“Một chiếc áo lông cừu màu xám có mũ trùm đầu, tôi nghĩ vậy”, Burden thêm vào.
Arlen mỉm cười ngập ngừng, dấu hiệu đầu tiên của sự khó chịu mong manh nhất.
“Vì thế anh đã tới quán Mermaid lúc tám giờ?”
“Chính xác.” Arlen đột ngột ngừng lại khi một phụ nữ trung niên mặc váy đen và đi một đôi giày “tinh tế” tiến vào phòng. “Các ông có muốn uống gì không? Trà? Nước khoáng? Hay nước cam?” Burden và Bal đồng thanh từ chối. “Không, cảm ơn Wendy, không phải bây giờ. Tôi đang dừng ở đâu nhỉ? À, vâng, thực tế là, tôi gọi cho quán Mermaid từ nhà của Rick và đặt một bàn dành cho hai người trong quán bia. Rick và tôi đã uống ở quán bar trước rồi mới dùng bữa, gần với bữa súp hơn bữa tối, tôi nghĩ các anh sẽ gọi điện đến đó. Thực tế là chúng tôi đã ở Mermaid.”
“Vì thế anh ta không ở cách rừng Yorstone đến mười sáu cây số?”
“Rừng Yorstone? Rừng Yorstone? À, ý các anh là chỗ đoạn đường cua nguy hiểm. Không, thật đấy, anh ấy ở cùng tôi trong quán Mermaid đến tận sau mười giờ.”
Thời gian mà người đàn ông - Rick? - đang đi bộ xuyên rừng Yorstone và thả tảng bê tông xuống cầu đã được xác minh. Burden sẽ kiểm tra lại với quán rượu nhưng anh không nghi ngờ việc Arlen đã ở đó cùng một người khác. Các nhân viên quán bia có thể nhớ được chuyện đó nhưng sau gần bốn tháng thì không thể nhớ được là ai. Và Arlen đã cẩn thận đến mức trả bằng tiền mặt. Anh đứng dậy và nói, “Tôi có thể sẽ muốn gặp lại anh sau, anh Arlen”, giọng đe dọa vô ích hơn là hy vọng.
“Lúc nào cũng hân hạnh, ngài thanh tra.”
Bài báo có đề cập đến một người bạn gái nhưng không có bất kỳ dấu hiệu của bất cứ ai khác trong nhà ngoài Arlen và người phụ nữ không nghi ngờ gì là quản gia kia. Arlen tiễn họ quay trở lại đại sảnh.
“Anh có để ý rằng anh ta đã nói ‘thực tế là’ rất nhiều lần không?”, Bal nói khi đã vào xe. “Chúng ta chỉ ở đó chưa đến mười phút và anh ta đã tám lần nhắc đến cụm ‘thực tế là’.”
“Tôi dám cá rằng đó là vì anh ta không biết nó có nghĩa là gì”, Burden ủ rũ nói.
“Còn một điều nữa. Tôi không chắc, nó có thể hơi khác - nhưng anh có để ý cái cách anh ta bước đến chỗ cái bàn mạ vàng và mở ngăn kéo không?”
“Tôi cũng nghĩ thế.”
“Khi chúng ta vào đó, có thứ gì đấy nằm trên mặt bàn nhưng sau khi anh ta mở ngăn kéo thì nó không còn nữa. Anh ta đã cất nó đi. Chắc tôi nhìn nhầm nhưng trông nó giống một khẩu súng.”
“Chúng ta sẽ không lấy được trát cho bằng chứng đó đâu”, Wexford nói. “Chúng ta không thể lục soát nhà một người bởi vì Bal nghĩ rằng có thể mình đã nhìn thấy một khẩu súng mà lại không chắc chắn.”
“Mặc dù chúng ta biết rằng nó có thể đã ở đó.”
“Đúng, chúng ta có thể biết. Và dĩ nhiên chúng ta sẽ biết. Giờ khi các bằng chứng ngoại phạm này càng ngày càng chặt chẽ và không thể công kích thì càng ít người chúng ta có thể tin tưởng được. Ấy thế mà, tại tòa án, mọi người sẽ phải tin họ, đơn giản vì lời khai của họ rất vững chắc, vì vậy chúng ta không thể buộc tội được. Chúng ta đều biết rằng trước cả khi bắt đầu, mọi sự cáo buộc đều sẽ thất bại. Không phải tự nhiên khi đưa ra được những nhân chứng, người sẽ thề rằng bạn có mặt ở đâu đó vào một thời điểm chính xác từ ba tháng trước, nhưng đấy là điều duy nhất thuyết phục được quan tòa. Bất cứ điều gì khác sẽ bị ném vào lửa.”
“Bal đã tới Mermaid”, Burden nói. “Họ biết Arlen và biết cả Rick Samphire. Họ đã từng thấy hai người đến đó cùng nhau. Nhưng dĩ nhiên họ không thể nhớ hai người có từng tới đó cùng nhau vào ngày Hai mươi tư tháng Sáu hay không và chẳng ai trong số họ nói không cả.”
Thậm chí bằng chứng ngoại phạm của Rick vào đêm mùng Mười tháng Tám còn khó tin và khó phủ nhận hơn. Anh ta đã rời khỏi nhà vợ cũ ở Myringham lúc mười một giờ mười lăm, thời điểm được xác minh bởi Alison Rowley (cô ta giới thiệu mình như vậy) và bạn trai cô ta. Wexford nghĩ họ là những nhân chứng đáng tin cậy, trong khi tự hỏi bản thân có phải lý do để anh nghĩ thế một phần là vì Alison đã bỏ Rick hay không. Hannah Goldsmith thích họ vì lối sống của họ và trong mắt cô nó đã chứng minh sự trung thực của họ. Sau đó, những khó khăn bắt đầu xuất hiện. Rick đã bịa ra chuyện chiếc xe của anh ta bị hỏng và cuộc gặp gỡ sau đó với một người lái xe. Wexford và đội của anh đã gặp phải vô vàn vấn đề khi truy tìm tay lái xe này, khi họ sắp sửa bỏ cuộc thì một người đàn ông trung niên với cái trán hói và một cặp kính lớn bước vào đồn cảnh sát, thông báo với sĩ quan túc trực ở đó rằng ông ta đã đi nghỉ mát hai tuần trước nên giờ mới nghe nói rằng cảnh sát đang tìm mình.
Ông ta cho biết tên là Stephen Lawson, địa chỉ ở đường Lady, Forby, và nghề nghiệp của ông ta là vận động tài trợ cho một tổ chức từ thiện có trụ sở ở Kingsmarkham. “Tôi đã ra trình diện từ vài tuần trước nếu biết các vị đang tìm mình”, ông ta nói. “Bất kỳ kiểu lẩn tránh nào đều làm tôi khó chịu. Tôi không thể ngủ hằng đêm nếu nghĩ mình đang trốn tránh trách nhiệm.”
“Tôi rất mừng khi nghe thấy điều đó”, Wexford nói, “nhưng chính xác ông đến đây làm gì?”.
“Tôi”, Lawson nói, đứng thẳng người, “là Stephen Lawson. Tôi là người lái xe đã dừng lại và mời một người đàn ông có xe bị hỏng đi nhờ. Vào ban đêm. Lúc một giờ sáng, đó là, ngày Mười một tháng Tám”.
“Được rồi. Trung sĩ Goldsmith sẽ lấy lời khai từ ông nếu ông vui lòng đi theo cô ấy.” Trong khi họ sắp rời khỏi văn phòng thì Wexford gọi với theo, “Ông biết rõ Rick Samphire, đúng không?”.
“Ai cơ?” Lawson quay đầu lại, khuôn mặt ông ta thể hiện một cái nhìn bối rối.
“Tôi đang trở về nhà ở Forby trên đường A3923 từ Myfleet”, lời khai của Lawson đã được bật, “nơi tôi đã dành cả buổi tối với bạn bè ở khách sạn Cheriton Forest, khi tôi đi ngang qua một chiếc xe đang đỗ mà rõ ràng đã hỏng. Người lái xe đó bật nắp ca-pô lên và đang xem xét bên trong. Đồng hồ trên bảng điều khiển cho thấy thời gian lúc đó là mười hai giờ ba mươi hai phút. Tôi đánh xe vào vệ cỏ và hỏi người tài xế có cần giúp gì không. Hình như anh ta không có điện thoại trong xe, chiếc xe hiệu Volvo màu xanh da trời, khoảng mười lăm năm tuổi. Tôi không thể nhớ chính xác biển số xe nhưng nó có các chữ cái VY và số 7”.
“Người lái xe nói anh ta đã cố khởi động lại xe hai mươi phút rồi. Có hai chiếc xe đi ngang qua nhưng không có cái nào chịu dừng lại. Tôi bảo là mình có thể gọi cho hiệp hội xe ô tô, AA, nhưng anh ta nói mình không phải thành viên của họ. Sau đó tôi tự mình nhìn qua chiếc xe và có thể nói rằng ắc quy đã hết điện nhưng không phải thợ máy thì sẽ không sửa được. Tôi hỏi có ai để có thể gọi điện xin trợ giúp hay không thì anh ta nói, ‘Anh trai tôi, nhưng đêm hôm thế này thì không tiện. Tôi sẽ không làm phiền anh ấy vào giờ này’.”
“Tôi đã không hỏi tên hay số điện thoại của anh trai anh ta. Anh ta nói mình tên là Richard nhưng lại không cho biết họ. Tôi mời anh ta đi nhờ xe nhưng vì anh ta đang đi về phía Pomfret còn tôi thì đi hướng ngược lại nên anh ta từ chối. Chỗ chúng tôi đang đứng cách Pomfret khoảng hơn mười hai cây số và anh ta nói chẳng sao đâu rồi bắt đầu đi bộ. Tôi nhìn anh ta đi khuất rồi lái xe về nhà. Tôi kiểm tra đồng hồ trong xe lần nữa khi khởi động xe và thấy lúc đó là mười hai giờ năm mươi hai phút.”
“Những người bạn ở khách sạn Cheriton Forest” hóa ra là một cặp đôi và một phụ nữ độc thân từ Birmingham đang đi nghỉ một tuần ở đó. Câu chuyện của họ có vài điểm thú vị. Sĩ quan Vine đã nói chuyện với họ, đầu tiên qua điện thoại, sau đó với người phụ nữ đồng hành với họ tại văn phòng cô ta ở Luân Đôn. Đúng thật là họ đã dành vài ngày ở Cheriton Forest nhưng họ không biết Stephen Lawson trước khi đến đó.
“Ông ta đã cho tôi đi nhờ”, người phụ nữ nói. “Tôi cũng có thể thật thà về điều này. Tôi đang ngồi đợi bạn trong quán bar thì ông ta đến ngồi bên cạnh, hỏi rằng mình có thể mời tôi một ly được không. Đó là vào khoảng tám giờ tối thứ Ba. Tôi không thấy có lý do để từ chối. Bạn tôi đã muộn nửa tiếng rồi. Chúng tôi tán gẫu một lúc, sau đó khi bạn tôi đến thì tất cả chúng tôi đi ăn tối.”
“Ông Lawson nhập hội với các cô à?”
“Không hẳn. Chúng tôi có một bàn cho ba người còn ông ta thì đi một mình. Đến khoảng giữa bữa ăn, tôi mới nói với bạn là có nên mời ông ta đi uống cà phê với chúng tôi hay không và chúng tôi đã mời. Chà, tôi mời. Tất cả chúng tôi mang cà phê ra sảnh ngồi.”
Vine hỏi cô ta họ đã nói về chuyện gì.
“Khu rừng, tôi nghĩ vậy, và vùng ngoại ô. Khung cảnh xung quanh đấy rất đẹp. Ông ta nói rằng mình sống ở một nơi gọi là Forby được xem là ngôi làng đẹp thứ năm ở Anh và tôi nói chỉ xếp thứ năm thì khủng khiếp thế nào và sau đó ông ta nói mình là người đi gây quỹ cho cộng đồng gửi thuốc men tới Uganda - à không, Kenya. Ông ta tiếp tục nói về nạn đói, bệnh tật, những người phụ nữ có cả tá con cái và rồi bỏ chúng ở những khu ổ chuột rách rưới như thế nào bởi vì họ không thể nuôi chúng nữa. Tôi không nghĩ bạn bè tôi thích chuyện đó lắm. Sau đấy, họ nói với tôi họ không thích ông ta và khi đồng hồ điểm mười rưỡi thì họ nói mình phải đi ngủ. Tôi nghĩ ông ta sẽ đi nhưng hóa ra lại không. Ông ta rủ tôi đến quán bar dù ông ta đã ghé vào và uống vài ly ở một quán bar khác trên đường.”
“Dù sao thì, tôi cũng đi. Chẳng có gì cả - chà, ý tôi là, ông ta chưa bao giờ đi quá giới hạn hay làm gì đó. Chúng tôi ngồi ở một bàn trong quán bar, tôi đã uống một ly rượu vang, còn ông ta uống một ly sinh tố cà chua mà ông ta gọi là Đức mẹ đồng trinh Maria bởi vì nó không có chút vodka nào. Ông ta tiếp tục nói về những phụ nữ Kenya và sự thống khổ như thế nào, vào khoảng mười một rưỡi thì ông ta nói mình phải về. Ông ta hỏi xin số điện thoại và tôi... chà, tôi đã cho ông ta một số giả vì tôi thực sự không muốn gặp lại ông ta nữa.”
“Sau đó tôi chào tạm biệt và về đi ngủ. Ông ta vẫn ở trong quán bar nhưng họ đóng cửa lúc nửa đêm do đó tôi nghĩ lúc ấy ông ta cũng rời đi.”
Lái xe gần năm cây số dọc theo con đường nhỏ không được phân làn xuyên qua rừng Cheriton, Wexford nhẩm tính, tiến vào đường A3923 tại Myfleet và đi về phía bắc, ông ta hẳn đã phải lái xe với tốc độ chậm rề bởi vì mười hai rưỡi đêm ông ta mới tới điểm mà Rick Samphire nói rằng xe mình bị hỏng. Wexford không hề nghi ngờ chuyện ông ta đã lái xe trên con đường này vào thời điểm đó. Những người bịa ra bằng chứng ngoại phạm này đã tính toán chi li. Biển số xe của Rick có chứa chữ cái V, Y và con số 7. Nghi ngờ phát sinh khi anh được yêu cầu phải tin rằng xe của Rick Samphire hoặc Rick Samphire đã ở đó. Công việc của Hannah và Bal là xác minh xem liệu chiếc xe có được đem đi sửa vào ngày hôm sau không.
“Nó được đem đến nhà của anh trai tôi và anh ấy đã nhờ Col tới mang nó đi”, Rick nói với Hannah như vậy. “Lấy một thanh móc vào ô tô tải và anh ta là một thợ máy khá giỏi.”
Không ai có thể xác minh chuyện Colin Fry có kéo chiếc
Volvo bị hỏng của Rick từ Pauceley tới Kingsmarkham hay không. “Dĩ nhiên anh ta sẽ nói là mình đã làm thế”, Hannah nói khi họ lái xe dọc theo đường Glebe. “Anh ta sẽ nói rằng mình phải sửa đầu nối trục khuỷu hay bộ phân phối hay cái gì đó bị hỏng ở những chiếc xe.”
“Em không biết à?” Bal nở một nụ cười đem lại cho cô cảm giác gần như bị chiếm hữu. “Anh nghĩ em là một chuyên gia. Anh nghĩ em giỏi mọi thứ em làm, Hannah ạ.”
“Anh nghĩ sai rồi”, cô sắc sảo nói. Dù có phải là nụ cười chiếm hữu hay không, cô càng ngày càng cảm thấy điên tiết với anh. “Không ai hoàn hảo cả.”
Chiếc xe tải trắng của Colin Fry đang đỗ bên ngoài tiệm giặt khô ở đường Glebe; Colin cùng bạn gái anh ta Emma đều đang ở nhà, ăn nốt phần thức ăn Thái lạnh ngắt được mua mang về cho bữa trưa. Thời tiết đang dần chuyển sang se se lạnh, Emma đang mặc quần rằn ri và áo len trắng bó sát. Hannah nghĩ Bal đã nhìn cô ta lâu hơn mức cần thiết. Mình cá là anh ấy muốn làm chuyện đó với cô ta ngay lập tức, cô tự nhủ. Anh ấy không cần phải tôn trọng cô ta hoặc nhiệt tình với cô ta như cái cách đã làm với mình. Cô hỏi Colin về xe của Rick bằng một giọng thô lỗ đến nỗi Bal phải liếc nhìn cô ngạc nhiên.
“Vâng, tôi đã lấy con xe ghẻ của anh ta từ chỗ Ross. Ngày nào á? Tôi có thể nói rõ từng chi tiết. Đó là ngày nóng kỷ lục nhất từ trước đến giờ. Họ đã nói trên ti vi như vậy, ngày nóng kỷ lục nhất từ trước đến giờ.”
“Anh có thể sửa được nó không, anh Fry?”
“Cần bình ắc quy mới. Tôi đã tới cửa hàng xe Volvo ở Kingsmarkham và lấy một cái cho anh ta. Đó là vào giữa trưa, phải không, Em?”
“Điều gì đã ngăn cản anh ta?”, Bal hỏi.
“Không phải anh ta. Ross trả tiền. Anh ấy luôn làm thế. Họ luôn nghĩ cho nhau, Ross và Rick. Ross muốn làm mọi thứ cho Rick và Rick thấy biết ơn, phải không, Em? Tôi sẽ nói điều đó với anh ta. Anh ta biết được ý nghĩa của lòng biết ơn đấy.”
Có hai sĩ quan cảnh sát đã gọi cho Colin Fry và Emma Sams ngày hôm đó. Đó là Sĩ quan Vine và Sĩ quan Fancourt và họ tự giới thiệu bản thân là Barry và Lynn, hỏi rằng mình có thể đặt căn hộ từ bảy giờ tối đến mười một giờ đêm hôm ấy được không. Hay bất kỳ buổi tối nào khác trong tuần.
“Tôi không biết các vị đang nói cái gì”, Colin Fry nói. “Chúng tôi có được thông tin từ ông Robinson”, Barry nói, “ông ta đã giới thiệu các bạn”.
“Không, làm gì có. Tôi không biết ai tên Robinson cả.” Fry đóng sầm cửa mạnh đến nỗi Lynn phải nhảy lùi lại sau. Nhưng đối với Wexford, phản ứng bất ngờ và sự phản kháng quyết liệt của anh ta thật đáng để hài lòng và anh cử Sĩ quan Coleman canh chừng nơi này.