Thư tay là những thứ bất thường trong thời đại này. Wexford cảm thấy tiếc cho điều đó, mặc dù anh phải thừa nhận rằng thư điện tử nhanh và dễ dàng hơn, thậm chí gọi điện thoại còn tiện hơn nữa. Nếu bưu điện có đưa đến thứ gì khác thì chỉ là hóa đơn, tờ bướm quảng cáo và danh mục sản phẩm. Vì thế, một bức thư màu kem có dán phong bì đề địa chỉ nhận là “sĩ quan chỉ huy” với một bàn tay lớn chỉ về phía trước cùng một con tem Đức, là điều đáng ngạc nhiên. Nó bắt đầu bằng “Gửi ngài” và lối viết tiếng Anh thì hoàn hảo như cách nói tiếng Anh của Ingrid Stadler vậy.
Gửi ngài,
Như ngài đã thấy từ tiêu đề của bức thư này, tôi sống ở ngoại ô thành phố Frankfurt của nước Đức. Tôi sẽ có công chuyện đến đất nước của ngài vào thứ Hai, mùng Mười tháng Mười và rất muốn được diện kiến ngài để trao đổi một vấn đề nghiêm trọng. Xin ngài thứ lỗi cho tôi, tôi không muốn nói chi tiết trong một bức thư. Liệu ngài có rảnh rỗi vào thứ Ba ngày Mười một tháng Mười, hoặc thứ Tư ngày Mười hai tháng Mười vào lúc ba hoặc bốn giờ chiều hay không?
Tôi có đính kèm địa chỉ hòm thư điện tử và số điện thoại của mình.
Trân trọng,
Rainer Konig-Hensel
“Nếu tôi không quá nhầm lẫn”, Wexford nói, “thì tay này là một trong những kẻ xui xẻo đã thuê Amber và Megan làm những bà mẹ mang thai hộ. Có thể là Megan. Ông ta thậm chí có thể là cha của đứa trẻ mà cô ta đang mang khi bị giết”.
Burden lấy bức thư từ tay anh và đọc lại. “Có thể là một trong những người cha, ý anh là vậy à?”
“Ít nhất ông ta sẽ nói cho chúng ta nghe thỏa thuận ở đây là gì và ông ta trả cô gái bao nhiêu, tôi nghĩ có khả năng ông ta sẽ nói cho chúng ta nghe nhà Samphire và đám tay sai của họ đến từ đâu. Có thể chính Ross đã sắp đặt toàn bộ vụ này. Bọn chúng có liên quan ở một mắt xích nào đó và cho đến giờ chúng ta vẫn chưa tìm được gì.”
Là người da đen khiến cho việc bám đuôi một ai đó hay theo dõi một căn nhà trở nên khó khăn hơn đối với Sĩ quan Vine hay Sĩ quan Archbold chẳng hạn. Dù sao đi nữa, Damon Coleman nghĩ, tại Kingsmarkham, nơi chỉ một vài năm trước đây bất cứ ai gốc Phi cũng trông thật nổi bật như hạt đậu đỏ duy nhất trong một gói đậu tây. Giờ số lượng của họ đã tăng gấp bốn lần, người da đen đã không còn là con quái vật bị nhìn chằm chằm trên phố nữa. Nhưng anh ta vẫn bị săm soi nhiều hơn một gã thanh niên da trắng, và trớ trêu thay, một nhân viên thi hành pháp luật da đen như anh ta lại bị nhìn bằng ánh mắt nghi ngờ hơn là một kẻ côn đồ da trắng. Khá nhiều người, đặc biệt là người cao tuổi, đã kết luận rằng việc anh ta đứng bâng quơ đâu đó, ngó qua cửa sổ các cửa hàng, đi bộ xung quanh tòa nhà hoặc ngồi trên ghế lái trong xe mình, là đang lảng vảng xung quanh với ý định phạm tội. Sở hữu óc hài hước, Damon đã bày ra những trò tiêu khiển đáng kể nhằm thoát khỏi những ánh mắt lãnh cảm từ họ nhưng thực sự vẫn e ngại một trong số họ có thể sẽ đi kêu cảnh sát.
Anh ta đang trông chừng tiệm giặt khô mà Colin đã ở trong căn hộ bên trên đấy vài tối liền. Thời gian vẫn trôi đi và bóng tối đã bắt đầu buông xuống lúc sáu giờ. Sau đó những ánh đèn đường thậm chí còn làm anh ta lộ diện rõ hơn. Ngồi trong xe có thể là phương án an toàn nhất nhưng sự hiện diện rõ rành rành của chiếc xe ở đây từ đêm này qua đêm khác sẽ gây nghi ngờ. Colin Fry và người tình bé nhỏ, bạn gái hắn ta, nhìn chằm chằm qua cửa sổ bên ghế hành khách khi họ đi qua hai đêm trước, sau đó anh ta đã mượn xe của Bal và để xe mình lại. Buổi tối đặc biệt hôm đó, lần đầu tiên anh ta thấy Colin và Emma ra ngoài, mặc dù anh ta không thấy ai đi vào kể từ khi đến đây lúc năm giờ bốn mươi lăm phút, anh ta rất hy vọng sẽ trông thấy một cặp đôi đi vào lúc mười một giờ.
Nhưng Colin và cô gái đã quay lại rất lâu trước thời điểm đó trong trạng thái say xỉn và chim chuột nhau, anh ta liền bỏ không quan sát nữa cho đến ngày hôm sau.
Không ai đi vào tối hôm đó, cũng chẳng có con kiến nào đi ra. Theo như anh ta biết là vậy. Nhưng lúc bảy giờ, sau khi thấy một người đàn ông tầm ba mươi lăm tuổi đứng trước cánh cửa màu đỏ và mười phút sau, một phụ nữ khá trẻ tới đứng cùng gã kia, anh ta đã để xe của Bal lại nơi nó đang đỗ và đi kiểm tra phía sau tòa nhà. Từ con đường song song, phía sau dãy cửa hàng nhỏ được che chắn bởi những cây cao, sum sê cành lá nhưng Damon đã phát hiện ra một con hẻm không chạy thẳng ra đường chính. Đi được nửa đường, anh ta có thể nhìn thấy mặt sau của tiệm giặt khô và căn hộ bên trên, hiện ra trong ánh đèn đường tăm tối một lối thoát hỏa hoạn bằng sắt chạy theo đường zigzag từ tầng trên xuống sân sau và một đường dẫn đến chính con hẻm này.
Vậy là Colin và Emma đã phát hiện ra anh ta từ đêm hôm trước, có lẽ không hoàn toàn xác định được anh ta là ai và đang làm gì, họ đã thận trọng trốn đi bằng đường này thay vì ra ngoài phố. Anh ta không thể ở hai nơi cùng một lúc nhưng anh ta có thể ở yên trong con hẻm và, một khi nhìn thấy Colin và Emma khởi hành, anh ta sẽ quay trở lại đường Glebe trong vòng hai phút, thừa thời gian để xem đôi này đi đâu. Nhưng liệu có phải cặp đôi “mượn” căn hộ đã sử dụng lối thoát hỏa hoạn hay không?
Rõ ràng là họ đã làm thế. Bằng không thì đêm tiếp theo sẽ chẳng ai có thể ra vào căn hộ cả. Sau một giờ chờ đợi vô ích trong con hẻm, Damon quay trở lại xe lúc bảy giờ ba mươi rồi liếc mắt nhìn lên ô cửa sổ đang sáng đèn của căn hộ phía trên và thấy Colin Fry đang ngó xuống. Nhưng không phải về phía xe của Bal. Hắn ta xem xét kỹ lưỡng con phố để tìm kiếm chiếc xe của Damon mà từ kiểu dáng, màu sắc lẫn biển số hắn hẳn đã ghi nhớ rất rõ, hoặc tìm kiếm chính Damon có thể đang nấp sau một cánh cửa nào đó. Dù chắc chắn hài lòng vì không thấy Damon ở đó và con đường ven giờ đang khá vắng vẻ, hắn dường như vẫn không có ý định ra ngoài tối nay. Damon lưu lại thêm một tiếng nữa và chỉ quay về nhà lúc gần chín giờ.
Ngày mai, anh ta nghĩ, mình sẽ đậu xe của Bal xa hết mức có thể trong khi vẫn tiếp tục theo dõi căn hộ.
“Đầu tiên là ma túy, giờ là mang thai hộ cho ai đó”, George Marshalson nói. “Đối với tôi, con bé là đứa trẻ vô tội và các vị đang biến nó thành một con quái vật.”
Tối nay, ông ta là người duy nhất trông Brand. Diana, ông ta nói, đã đến thăm em gái ở Myfleet. Bà ta đã đặt thằng bé lên giường trước khi rời đi và nói rằng nó đang ngủ nhưng George chắc chắn rằng ông ta đã nghe thấy thằng bé khóc toáng lên rồi lần mò lên trên lầu để kiểm tra khi Wexford và Trung sĩ Goldsmith tới. Khi ông ta đang nói, một tiếng khóc lớn vang lên trên lầu và George miễn cưỡng đứng dậy. Ông ta đến bên cánh cửa và nghe ngóng, biểu hiện trên khuôn mặt ông ta lúc này là bực tức và khi tiếng khóc im bặt, ông ta quay trở lại cái ghế được trang trí cầu kỳ theo phong cách phương Đông rồi ngồi xuống.
“Tôi muốn hỏi liệu con gái ông có từng đề cập đến việc mang thai hộ với ông chưa, ông Marshalson”, Hannah hỏi. “Như một khái niệm, ý tôi là vậy. Không phải việc mà cô ta định làm.”
“Tôi không nhớ lắm”, George nói. “Chà, để tôi xem lại. Tôi chắc chắn sẽ nhớ bất kỳ đề nghị nào con bé có thể đã đưa ra về việc mang một đứa trẻ nữa về căn nhà này.”
“Ý tưởng đó không phải là giữ đứa trẻ cho riêng mình cô ta, thưa ông Marshalson”, Wexford nói, cố gắng giữ giọng trung lập.
“Ý tưởng đó, theo như anh nói, thật là lố bịch.”
Wexford chuyển sự chú ý của ông ta sang anh em nhà Samphire. “Ông có nói với tôi từ lần trước rằng chúng ta sẽ nói về vấn đề này, thưa ông, rằng ông nghi ngờ những người này đã từng liên lạc với Amber. Ông có thể hoàn toàn chắc chắn về điều đó không?”
“Tôi không thể biết con bé đã làm những gì và gặp những ai khi nó không ở nhà, phải không? Rất rõ ràng là tôi không thể. Nếu tôi kiểm soát được chuyện đó thì những điều tồi tệ đã không xảy ra. Có thể con bé biết Ross Samphire hoặc người kia - tên hắn là gì ấy nhỉ? Rick, phải không? - có thể con bé biết hắn. Tôi không rõ. Con bé chẳng gặp ai trong số họ khi có sự hiện diện của tôi.”
“Tôi sẽ nói với ông điều mình đang nghĩ, thưa ông Marshalson, và những gì tôi hy vọng có thể được xác minh trong tuần này.” Khi Konig-Hensel đến và mọi việc được tiết lộ? “Con gái ông và Megan Bartlow đã cùng nhau quan tâm đến một loại, ờm, công việc là trở thành những bà mẹ mang thai hộ. Điều này có thể hoàn toàn hợp pháp.” Anh chắc chắn nó không phải.
“Hợp pháp”, George nói, “nhưng vô đạo đức”.
“Đó là vấn đề gây tranh cãi. Họ có thể đã tự thân khởi đầu chuyện này nhưng dường như họ đã rơi vào tay của kẻ nào đó - chúng ta cứ gọi hắn là kẻ cầm đầu của họ.”
“Anh nói cứ như thể hắn là một tay ma cô.”
“Chúng tôi nghĩ tên này có thể là một trong hai anh em nhà Samphire hoặc cả hai tên đó”, Hannah nói, nhận được cái cau mày từ Wexford, “nhưng như Chánh thanh tra Wexford đã nói, chúng tôi hy vọng sẽ sớm thu thập được bằng chứng về việc này. Trong lúc đó, ông có bất cứ quan điểm nào không?”.
“Tất cả những gì tôi biết về Surrage-Samphire là họ làm công việc trang trí nội thất cho chúng tôi, hoàn toàn thỏa mãn và tôi không có lăn tăn gì nếu thuê họ lần nữa. Vợ tôi cũng sẽ nói thế. Có thể bà ấy còn gặp họ nhiều hơn tôi.”
Ông ta đứng bật dậy, vỗ tay vào thắt lưng với một tiếng rên khẽ khi tiếng khóc lại vang lên trên lầu, lần này thì dai dẳng.
“Tôi sẽ đi xem thằng bé thế nào”, ông ta nói. “Tôi không nghĩ mình biết được có chuyện gì không. Nhưng để nó khóc thế cũng chẳng ích gì. Điều đó chỉ gây thêm rắc rối sau này và chúng tôi không muốn phải thức dậy lúc nửa đêm.”
Tụ tập ăn uống với bạn bè tại Savesbury vào buổi tối hôm sau, Hannah ngồi bên cạnh người đàn ông duy nhất mà cô thấy thực sự hấp dẫn kể từ khi gặp Bal. Cô biết anh ta sẽ mời cô ra ngoài chơi và anh ta đã làm thế. Dĩ nhiên cô nói không - và đã phải hối tiếc suốt quãng đường về nhà, nghĩ mình thật ngớ ngẩn khi cứ chung tình với người đàn ông mà trong mắt tất cả mọi người chẳng hơn một người bạn.
Thu đã sang và bầu trời trở nên âm u, anh đã mời cô đi chơi vào cuối tuần, tới một khách sạn trong một ngôi làng ở Somerset. “Cuối tuần nào đây? Tuần đầu tiên cả hai được nghỉ cùng lúc từ chiều tối thứ Sáu cho đến tận sáng thứ Hai ư?”
Vậy đó sẽ là cuối tuần sau nữa. Lần đầu tiên trong nhiều tháng trời, cả hai người họ sẽ không phải đi làm từ thứ Sáu cho đến sáng thứ Hai. Họ có thể lái xe về đến vùng quê vừa kịp giờ ăn tối ngày thứ Sáu. Trong lúc dùng bữa tại khách sạn Cheriton Forest, anh đề nghị đi uống chút gì đó trước bữa tối ở quầy bar nơi Stephen Lawson đã lấy lòng những du khách đến từ Birmingham.
Hannah bị chán nản và mệt mỏi vì phải ngồi ở quầy bar và mặt đối mặt với Bal suốt bữa tối. Bữa ăn vô cùng tốn kém và cô đã khăng khăng được trả phần của mình. Chỉ một trong hai người được uống nhiều hơn một ly vang nhỏ. Tới thời điểm này, họ đã đến mọi nhà hàng tương đối tử tế ở Kingsmarkham, Pomfret và Myfleet, cũng như vài chỗ sang trọng khác. Ước gì họ có thể ở nhà và tự mình nấu ăn, tự mình chơi nhạc, tự rót đồ uống và làm nhiều thứ khác nữa mà họ thích - nhưng nếu vậy, chuyện “không thể tránh khỏi” sẽ xảy ra sau đó, trong khi mục tiêu của Bal lại là đợi cho đến lúc tình cảm đã chín muồi. Cho đến khi họ thực sự hiểu về nhau. Hannah cảm thấy như mình đã biết tất cả về Bal: từ lúc mới sinh ra, thời thơ ấu, những năm tháng dậy thì, thời đi học, quá trình thi tuyển vào cảnh sát, gia đình, anh chị em và cha mẹ. Sở thích, thiên hướng, loại nhạc yêu thích và những chủ đề mà anh hay đọc. Và rằng anh cũng biết tất cả về cô.
“Nghe tuyệt nhỉ”, cô đáp lại lời mời của anh cho cuối tuần tiếp theo. Nhưng cái cách anh xúc tiến mối quan hệ của họ - nếu đúng là vậy - lại làm cô khó chịu đến nỗi không thể hỏi thẳng là có phải chuyến đi chơi đã được tính toán trước hay không. Cô chỉ có thể trả lời, “Ý anh là ở lại qua đêm?”, và giống như những thiếu nữ của ngày xửa ngày xưa, đỏ mặt khi anh cười và nói dĩ nhiên rồi, “ý anh là vậy”.
Không lâu sau đó, anh chở cô về, tặng cô một nụ hôn trong sáng và thậm chí còn không lên nhà.
Ông ta hoàn toàn không giống với hình mẫu người Đức lý tưởng mà những người Anh thông thái vẫn luôn nghĩ, tóc vàng, vạm vỡ và to lớn với quả đầu cạo trọc và tròn lông lốc.
Rainer Konig Hensel có chiều cao tầm thước, gầy, với những đường nét khắc khổ, mắt xám và làn da màu ô liu. Ông ta vận một bộ đồ bảnh bao mà Burden rất thích (nhưng hôm nay không mặc) bằng vải tuýt màu than xám rất bền. Wexford nhận thấy những điều này trong khi đang buồn bã tự thổ lộ với bản thân rằng nếu anh sở hữu một bộ đồ như vậy thì nó sẽ biến thành một đống giẻ rách nhăn nhúm chỉ trong vòng vài ngày.
Họ bắt tay nhau và Konig-Hensel lấy chiếc ghế từ bên kia bàn cho Wexford. Nếu cảm thấy ngượng ngùng, thì ông ta đã che giấu nó thật tốt đằng sau vẻ nghiêm nghị, gần như là cứng nhắc. Ông ta là loại người có vẻ mặt vô cảm, Wexford nghĩ, bất kể ông ta đang cảm thấy như thế nào. Nếu có thể nói điều gì đó, thì cách nói năng của ông ta thể hiện sự nhấn nhá rõ rệt hơn chữ viết tay và có lẽ hơi quá chính xác cũng như quá nhiều cụm từ “anh biết đấy” được thốt ra.
“Vợ tôi và tôi”, ông ta bắt đầu, “không thể có con. Chính xác thì, vợ tôi không thể. Điều trị ung thư khi chưa đến hai mươi tuổi đã khiến cô ấy bị vô sinh. Cô ấy biết điều này và tôi cũng biết khi chúng tôi kết hôn mười năm trước”. Ông ta ngừng lại và hướng ánh mắt bình tĩnh vô cảm của mình về phía Wexford.
“Cứ nói tiếp đi, ông Konig-Hensel.”
“Điều này không làm tôi lo lắng, anh biết đấy. Đây không phải là vấn đề. Thường thì không, anh biết đấy, với cánh đàn ông. Nhưng Sabine bắt đầu mong mỏi có một đứa con và chúng tôi phát hiện ra khả năng thụ tinh trong ống nghiệm nhưng trong trường hợp của chúng tôi điều này cũng là không thể. Sau đó chúng tôi nghe nói đến mang thai hộ. Đứa trẻ sẽ là con tôi nhưng không phải con vợ tôi, anh biết đấy. Để giản lược bớt câu chuyện dài dòng này, Chánh thanh tra, chúng tôi đã tham gia một nhóm chúng tôi nghe nói đến ở Frankfurt và nói chuyện với những người khác có chung cảnh ngộ với mình. Chúng tôi còn tham khảo trên mạng và đã tìm thấy trang web của Babies for All. Chúng tôi đăng ký và sau một thời gian, tên của những người mang thai hộ phù hợp được gửi đến cho chúng tôi. Anh có đang nghe không đấy?”
“Có”, Wexford nói.
“Nhưng chúng tôi không thích ai cả, anh biết đấy, cũng không quan tâm đến lời tư vấn được đưa ra cho mình. Tôi phải giải thích rằng vợ tôi đã khiếp hãi về việc thảo luận những vấn đề này với những người được gọi là chuyên gia, tâm sự về đời tư của cô ấy và những vấn đề cá nhân khác. Còn nữa, Babies for All cảnh báo những người đăng ký rằng tìm một người mang thai hộ phù hợp có thể mất vài tháng hay thậm chí vài năm. Vợ tôi hiện đã bốn mươi hai và tôi lớn hơn cô ấy sáu tuổi. Chúng tôi cảm thấy không thể đợi lâu hơn được nữa, anh biết đấy. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn đăng ký với Babies for All, anh biết đấy, vì chuyện đó dường như không có hại gì cả và vào một ngày cuối tháng Tư, chúng tôi nhận được email từ một quý cô tên Megan Bartlow.”
“Ồ”, Wexford nói.
“Anh nói, Chánh thanh tra ạ, như thể anh biết tôi đang định nói gì vậy.”
“Tôi biết. Nhưng ông nói tiếp đi.”
Konig-Hensel không dịch chuyển cái ghế từ lúc ngồi đến giờ nhưng giờ ông ta di chuyển nó một chút và rướn người về phía trước. “Email đó nói rằng cô Bartlow kia không có tên trong danh sách, anh biết đấy, danh sách của Babies for All nhưng cô ta đã tiếp cận được danh sách của những người mong muốn làm cha mẹ. Cô ta và bạn cô ta, một cô tên Amber Marshalson, rất sẵn lòng làm người mang thai hộ…”
“Xin lỗi, ông Konig-Hensel, nhưng ông có tình cờ mang theo bản sao email đó không?”
“Tôi có đem theo đây.”
Đó là lỗi đầu tiên1 trong thứ tiếng Anh hoàn hảo của ông ta. Từ trong cặp, ông ta lấy ra đưa cho Wexford một tờ giấy in. Có thể dưới tên của Megan, Wexford nghĩ, nhưng Amber đã viết nó và gửi tin nhắn văn bản mà không sử dụng chữ viết hoa.
1 Ở đây, đáng lẽ phải nói “I have taken it along with me” (Tôi có đem theo đây), thì Konig-Hensel đã nói sai thành “I have taken it with me”.
bạn tôi cô amber marshalson và tôi rất sẵn lòng trở thành những người mang thai hộ. chúng tôi muốn làm điều này cho những cặp vợ chồng không thể tự mình có con. nếu ông thấy hứng thú với lời đề nghị của chúng tôi thì ông sẽ không phải đợi hay cần được cân nhắc hoặc tư vấn và quá trình sẽ không mất hàng tháng trời. chúng tôi sẽ đến chỗ ông ở frankfurt trong vài tuần tới. chúng tôi còn trẻ, phù hợp, có sức khỏe tốt và mỗi người trong chúng tôi đều đã từng sinh con trước kia. xin hãy trả lời qua thư tay vì chúng tôi không có kết nối internet. megan bartlow, số 235 phố high street, kingsmarkham, đông sussex kml 3d1.
Và họ mê tít chuyện này? Konig-Hensel dường như đọc được suy nghĩ của anh. “Tôi nghi ngờ từ đầu, anh biết đấy, nhưng vợ tôi lại thấy rất hạnh phúc. ‘Chúng ta còn gì để mất nữa?’, cô ấy liên tục nói thế. Nhóm của chúng tôi ở Frankfurt đã nói rằng rất nhiều vụ mang thai hộ được dàn xếp riêng.
‘Họ đều đã có con’, cô ấy cứ nói với tôi thế. ‘Chúng ta biết họ có thể làm vậy’, và rồi cô ấy nói, rất buồn bã, ‘Họ không giống em, họ có thể có con’.”
“Ông đã hồi âm?”
“Ồ, vâng. Sau khoảng một tuần tôi đã hỏi thêm thông tin. Cô Bartlow đó gửi cho tôi bản sao về những tài liệu có liên quan đến việc sinh đẻ của họ - giấy khai sinh, vậy đấy. Cô ta gửi cho tôi bức ảnh chụp cô ta và cô Marshalson, cả hai đều dễ thương. ‘Chúng ta còn gì để mất đâu?’, vợ tôi nói. Vì thế tôi đã làm theo lời cô ấy yêu cầu và mời họ đến Frankfurt, tất cả chi phí chúng tôi lo, dĩ nhiên rồi.”
“Ông phải trả cho Megan Bartlow bao nhiêu?”
“Hai ngàn bảng trả trước và hai ngàn nữa khi chúng tôi... nhận được đứa bé.”
“Cô ta đến vào cuối tháng Năm và Amber Marshalson đi cùng cô ta?”
“Trước đó tôi đã thảo luận vấn đề này với nhóm tôi vừa kể với anh, một cặp vợ chồng nói rằng họ cũng rất hứng thú, anh biết đấy, và muốn gặp các cô gái trẻ này.”
Wexford thở dài, nhưng không thành tiếng. “Để tôi đoán xem”, anh nói. “Họ đến. Ông trả tiền cho họ ở một khách sạn giá vừa phải. Theo tôi nghĩ, không phải ở khách sạn Die Vier Pferde?”
“Không, không đâu. Ở khách sạn Jagerhof. Không phải một khách sạn bốn sao. Điều đó không cần thiết; và còn - tôi tin lời anh nói - hơn cả mong đợi; tôi đã đặt một phòng ở khách sạn Die Vier Pferde cho một đêm.” Ông ta lưỡng lự và làn da nhợt nhạt có chút ửng đỏ. “Để, ờ, giao dịch được diễn ra, anh biết đấy. Sau khi cô Bartlow và cô Marshalson rời đi, vợ tôi và tôi ở lại ăn tối rồi ngủ tại đó.”
Anh có thể tưởng tượng ra việc này. Đối với người đàn ông sợ vợ này, đưa vợ đến đó, ở lại chốn xa xỉ và dành cả đêm với nhau, sẽ giảm thiểu phần nào những thứ dơ dáy và ngớ ngẩn gây ra bởi chuyện này. Và đây cũng là một phương pháp ăn mừng? Thậm chí điều này còn giúp bà ta có ảo tưởng về đứa trẻ sau này sẽ là của mình và chồng. “Vụ ‘giao dịch’ mà ông nói có nghĩa là cung cấp một mẫu tinh trùng?”
“Vâng. Bạn tôi, ông Dieter Weinstock, đã cung cấp một mẫu cho cô Marshalson ở khách sạn Jagerhof.”
“Và ông chưa từng nhận được tin tức từ họ lần nào nữa?” “Không hoàn toàn. Chúng tôi có nhận được. Những bức email được gửi tới, nói cho chúng tôi biết cả hai trường hợp đều đã được thụ thai và sau đó vào tháng Bảy có một tin báo đến là cả hai đều khỏe mạnh, những cái thai đang phát triển bình thường. Vợ tôi rất hạnh phúc. Cô Bartlow gửi thư tới vào ngày mùng Một tháng Chín nói rằng mình vẫn khỏe và một tháng nữa sẽ liên lạc lại. Cô ta hứa sẽ gửi ảnh chụp mình khi, ờ, có thể thấy rõ cái thai. Sau một tháng chúng tôi không nghe được tin tức gì nữa, cho đến khi bạn tôi ngài Weinstock tới Anh ba tuần trước, anh biết đấy. Trên chuyến bay, người ta đưa ông ấy một tờ báo Anh và trong đó có một bài viết, chỉ vỏn vẹn vài dòng, nói rằng cảnh sát vẫn chưa tìm thấy tên sát thủ sát hại cô Amber Marshalson.”
“Tôi không nghĩ mình đã từng cảm thấy căm ghét những nạn nhân của các vụ giết người nhiều như đối với hai người này”, Wexford nói khi anh và Burden ngồi uống bia trong căn phòng nhỏ ấm cúng ở chỗ họ hay lui tới, quán Olive and Dove cũ kỹ. “Tôi cảm thấy căm ghét và tôi biết là không nên. Nhưng nếu anh nghe người đàn ông đó...”
Burden nhún vai. “Tôi hy vọng anh nói với ông ta rằng ông ta đã quá ngu ngốc.”
“Dĩ nhiên tôi đã nói thế - nhưng nhẹ nhàng thôi. Hình như ông ta nghĩ toàn bộ vụ giao dịch ít quan trọng đối với Weinstock hơn là với ông ta và vợ ông ta, và ông ta thấy thoải mái khi biết rằng ít nhất Megan đã có thai. Amber, dĩ nhiên là không. Liệu cô ta có thực sự cố gắng để trứng thụ thai với tinh trùng của Weinstock cả tin hay là thải hồi nó đi mà không ai biết. Tôi không nói với Konig-Hensel rằng rất có thể đứa con Megan đang mang không phải con ông ta. Tại sao phải làm mọi việc tồi tệ hơn cho ông ta làm gì? Đứa trẻ của Megan có thể là con của Prinsip hay của một thành viên trong SOCC. Tôi chắc rằng hai người đó đã liên lạc với họ. Hãy nhớ rằng Amber có hàng ngàn bảng trong túi áo khoác. Trước khi đến Bling-Bling, tôi nghĩ chắc chắn cô ta đã xuất hiện ở vài phòng khách sạn - thậm chí có thể là ở đây - và nhận lấy một lọ chất lỏng kỳ diệu khác.”
Burden nhăn mặt. “Khi anh nghĩ đến điều đó, họ có thể đã đánh lừa cả tá vợ chồng giống thế này.”
“Gần như cả tá, Mike ạ. Hãy hy vọng rằng không có quá nhiều người đã tuyệt vọng vì rơi vào cái bẫy của họ. Có thể là ba hoặc bốn.”
“Điều tôi muốn biết là Rick Samphire đóng vai trò gì trong chuyện này?”
“George Marshalson nói rằng hắn giống một tay ma cô mối lái và có thể có liên quan gì đó. Bất cứ khi nào những cô gái ngốc nghếch muốn kiếm tiền một cách dễ dàng, thì sẽ có những thằng cha vô lương tâm sẵn sàng gom họ lại và đưa họ vào tròng.”
“Ngoại trừ việc này nhìn như thể Megan và Amber đã tự đưa họ vào tròng ấy.”
“Hắn có thể bơm ý tưởng đó vào đầu Megan trước. Hoặc rất có thể Ross đã làm thế. Hắn có thể tìm kiếm tất cả thông tin về gia thế cho họ. Sự tồn tại của Nhóm Khắc phục Vô sinh Sussex, ví dụ thế. Chúng ta không biết làm thế nào Megan biết được mấy chuyện về mang thai hộ. Suy đoán của tôi về việc cô ta đã đọc được một vụ trên báo chỉ là một ý kiến. Có thể hắn đã nói với cô ta.”
Burden đến quầy rượu nhỏ ấm cúng và mua thêm hai ly lớn nữa. Người phục vụ quầy bar khăng khăng đem đến tận bàn cho họ, có lẽ là để có cơ hội mời một bát đầy hạt điều mọng nước và đặc biệt lớn. Wexford đã rên rỉ khi anh ta nhìn thấy và cố tỏ ra phớt lờ chúng.
“Anh sẽ phải mang chúng trả lại nếu không đến đó lấy đồ uống.”
“Tôi biết. Anh có thể ăn những gì mình muốn trong đống này rồi đặt chúng đâu đó ngoài tầm mắt được không?”
Burden ăn một hạt, sau đó mang cái bát ra bậu cửa sổ và giấu nó đằng sau tấm rèm. “Ở đó. Thoát khỏi sự cám dỗ. Giả thuyết của anh không hiệu quả rồi, Reg. Anh giả định rằng Megan biết Rick Samphire, biết hắn đủ rõ để tham gia vào một vụ lừa đảo cùng hắn. Nhưng chúng ta đã xác minh được rằng hắn giết cô ta bởi vì cô ta đã nhận ra vài tuần sau đó rằng hắn là người mà mình đã nhìn thấy ở trong rừng Yorstone. Nếu hắn là tòng phạm của cô ta, theo lời Marshalson, và là tay dắt mối của cô ta, thì cô ta hẳn đã nhận ngay ra hắn khi nhìn thấy hắn trong rừng chứ.”
“Có lẽ vậy”, Wexford nói.
“Cái gì, cô ta thấy hắn, biết hắn, dĩ nhiên hắn cũng biết cô ta nhưng lại cứ để cô ta đi dù biết cô ta đã nhận ra mối liên quan giữa mình và tai nạn của Amber sao?”
“Hãy nhớ, Amber lúc đó chưa chết. Cô ta thậm chí còn không bị thương. Khi vụ tai nạn được lên báo, chẳng có thông tin gì liên quan đến Amber cả. Chỉ đề cập đến nhà Ambrose. Tại sao Megan lại nghi ngờ Rick Samphire đã thả tảng bê tông đó xuống cầu chỉ bởi vì cô ta đã thấy hắn trong rừng Yorstone? Có thể cô ta không nhớ ngày mình nhìn thấy hắn hoặc thời điểm tai nạn xảy ra. Nhưng khi Amber bị giết và mối liên quan của cô gái với vụ việc tảng bê tông rơi xuống vỡ lở, thì rất đáng để xâu chuỗi lại. Megan biết Rick. Cô ta dễ dàng tiếp cận hắn, một mình gặp hắn ở nơi hẹn trước, đó là căn nhà số bốn dãy Victoria. Rất có thể cô ta đã gặp hắn ở đó trước đấy để thảo luận chi tiết về lần mang thai hộ tiếp theo hoặc để giao cho hắn phần hoa hồng trong số tiền họ lấy được từ những ‘người mong muốn làm cha mẹ’ xui xẻo.”
“Vậy anh đang nói”, Burden nói, “rằng Rick đã giết Megan bởi vì cô ta tống tiền hắn. Nhưng tại sao hắn lại giết Amber? Tôi xin lỗi nếu đây là một sự so sánh khập khiễng, nhưng chẳng phải cô ta đang là con gà đẻ trứng vàng hay sao?”.
Wexford tra số của SOCC trong danh bạ nhưng không thấy. Mặc dù sự hữu ích nó có thể mang tới, Internet vẫn luôn là nguồn cuối cùng anh nghĩ đến. Đầy miễn cưỡng, anh nhập SOCC vào và, trước sự ngạc nhiên của anh, một dòng chữ “Con Cò Cũng Có Thể Đến Với Bạn” hiển thị trên màn hình. Lần đầu tiên anh thành công trong việc gọi lên chính xác thứ mình muốn từ cái máy trời đánh thánh vật này. Hẳn phải vì lúc đó anh đang thoải mái với nó - hay thất vọng về nó.
Bên trên cụm từ viết tắt là hình ảnh một con cò đang mang một đứa bé sơ sinh trong túi vải. “Nhóm Khắc phục Vô sinh Sussex”, anh đọc tiếp:
... thực sự có thể giúp bạn trở thành cha mẹ. Chúng tôi đưa ra những lời tư vấn, hoạt động nhóm, liệu pháp tâm lý và sự giúp đỡ vô cùng thực tế. Không chỉ các thành viên được tiếp xúc với cách trị liệu IVF mà còn được giới thiệu với các tổ chức nhận con nuôi, các trung tâm mang thai hộ và những hệ thống hoàn toàn mới để có được đứa con trong mơ của bạn. Không cần phải nói, mọi thứ đều hoàn toàn hợp pháp và công khai.
Bạn có thể tham gia ngay hôm nay bằng cách đơn giản là điền tên và địa chỉ email của bạn vào trang hai. Không cần thanh toán chi phí nào cho đến khi bạn tham gia một trong những chương trình của chúng tôi.
Giờ click vào “Đi tiếp”.
Wexford click vào ô “Đi tiếp” và trang hai hiện ra một mẫu đơn để điền vào, xung quanh là ảnh của những phụ nữ mang thai hộ đang trong trạng thái ngây ngất và những bà mẹ hạnh phúc với những đứa con của mình.
“Tôi thắc mắc cái ‘những hệ thống hoàn toàn mới để có được đứa con trong mơ của bạn’ là gì?”, Burden nói khi bước đến sau lưng anh.
“Không thể có nghĩa là mang thai hộ bởi vì họ đã đề cập đến nó rồi.”
“Cũng không phải IVF bởi vì họ cũng đã đề cập đến.” “Hôm nọ, tôi nói rằng mình đã biết được những sự thật về cuộc sống trong bốn mươi năm nay nhưng thi thoảng tôi vẫn còn nghi hoặc về điều đó. Có thể có vài bí mật hay ho liên quan tới chuyện sinh đẻ tôi chưa bao giờ nghe.” Wexford lắc đầu, không tin tưởng nhiều hơn là nghi ngờ. “Địa chỉ và số điện thoại của họ ghi bên dưới bức ảnh xúc động về một phụ nữ to béo với hai đứa con sinh đôi: Số 167 phố High Street, Kingsmarkham.”
Đi tới đi lui phía bên kia phố High Street, Wexford xác định trụ sở của SOCC phải ở đâu đó trong tòa nhà có nhiều cửa hàng này bao gồm Gew-Gaws ở số 163, mà bên trên là căn hộ Megan Bartlow đã sống. Nhưng số 161 là một cửa hàng bán rượu chai, số 165 là tiệm làm đầu, 167 - đáng ra phải là SOCC - lại là một cửa hàng bán đồ ăn cho thú cưng, 169 là một hãng thông tấn và 171 là bác sĩ nhãn khoa. Anh cũng đã thử gọi điện theo số trên trang web nhưng sau mười lần đổ chuông thì nghe được tiếng trả lời tự động.
Anh băng qua phần đường dành cho người đi bộ, kiểm tra tất cả các cửa hàng phía trước và những cánh cửa bên cạnh dẫn đến một hành lang và lên những căn hộ phía trên. Prinsip và Bartlow vẫn đang ở đó, không có thay đổi gì sau cái chết của Megan cả. Những bảng tên được đặt trên chuông cửa bên cạnh những cánh cửa khác, một số cái không còn đọc được nữa. Anh đẩy cánh cửa của Gew-Gaws và chuông của Jimmy Gawson vang lên. Jimmy đang đứng giữa cửa hàng, bên cạnh một cái bàn, sắp xếp một kim tự tháp được làm từ các thanh chocolate gói trong giấy có in hình cờ liên bang và được bao quanh bởi các mô hình vòng quay Luân Đôn cao mười centimet. Tựa vào cạnh của một cái gạt tàn, có lẽ được thiết kế giống với Đài phun nước Diana ở Hyde Park, là chiếc ống hít của anh ta.
Khi nhìn thấy Wexford, anh ta đặt nó vào miệng và hít mạnh vài hơi. “Chà, anh bạn”, anh ta nói, “nếu những thứ này được phát minh khi tôi còn trẻ, tôi sẽ đâm đầu vào chúng thay vì những điếu thuốc lá chết tiệt kia. Tôi có thể giúp gì anh đây, Reggie?”.
“Anh có từng nghe nói đến SOCC chưa? Nhóm Khắc phục Vô sinh Sussex, tên đầy đủ của nó đấy.”
“Cách đây một nhà”, Jimmy nói. “Họ chẳng bao giờ bận tâm che đậy tấm bảng với cái tên-mà-anh-gọi-như-thế, vì vậy những chữ cái đã trôi theo mưa rồi. Tầng hai. Họ có hai phòng đằng sau.”
“Cảm ơn. Một sự giúp đỡ tuyệt vời.”
“Tôi không chắc đâu, anh bạn.” Jimmy nhét một nhúm lá cỏ tươi vào ống hít, chuyển thanh chocolate trên cùng sang trái một tí xíu và quay người lại. “Không có ai đến đó cho đến tối và không thường xuyên lắm. Anh nên gọi điện và để lại tin nhắn.”
“Tôi đã làm vậy.”
“Họ sẽ liên lạc lại với anh. Cứ cho họ thời gian. Anh đã biết tin bà Grace Morgan già cả tội nghiệp đã qua đời chưa? Đã tới ngôi nhà gỗ của người tiều phu trên trời rồi. Keith tự mình đến và bảo tôi thế. Không phải anh ta hay bất kỳ ai trong số họ từng tới gần bà ấy.”
Mặc dù Jimmy Gawson nói thế, Wexford vẫn thử rung chuông cửa tầng hai số 167. Không có ai trả lời và khi đã quay về đồn cảnh sát cũng chẳng có tin nhắn nào được gửi cho anh từ SOCC cả. Trời bắt đầu đổ mưa. Vậy là Grace Morgan đã mất. Giờ không còn ai sống trong căn nhà gỗ đó và ngồi rình những con lửng chạy ra khỏi rừng lúc trời chạng vạng nữa. Đứa cháu gái còn lại của bà ta sẽ không phải đương đầu với những nỗi khủng khiếp của khu rừng để đến thăm bà nữa, hoặc con gái bà ta không cần phải mời bà tới nhà mỗi năm một lần nữa.
Cháu gái và con gái… Họ khiến anh nghĩ về bản thân mình. Anh cũng có con cháu và có thể một trong số chúng cũng sẽ như thế. Quá trình liên tưởng đó quả thực buồn cười, anh nghĩ, khi tâm trí trôi dạt từ những đứa con gái nói chung đến Sylvia nói riêng, từ Sylvia đến đứa bé nó sẽ sinh ra trong chưa đầy hai tháng nữa, từ chuyện sinh con đến những người đỡ đẻ, đến nữ hộ sinh - Mary Beaumont là một nữ hộ sinh. Bà ta đã từng nói rằng mình làm việc cho SOCC phải không nhỉ? Lần đó, anh đã không để ý lắm... Liệu bà ta có biết gì không?
Anh nhấc điện thoại lên và gọi vào số của Sylvia. “Mary?”, Sylvia hỏi. “Bà ta đang ở đây. Tại sao bố không đến và nói chuyện với bà ta?”