Đầu tiên thì trời mưa to, tuôn thẳng xuống mặt đất như nước xối ra từ vòi xả hết cỡ, dường như để ngăn cản Damon. Ngay cả chiếc áo mưa bằng vải nhựa dày của anh cũng không thể chịu được quá mười phút. Ủng lội nước sẽ có ích, hay ít nhất cũng phải là ủng cao su. Theo quan điểm cá nhân của anh thì trong khi người da đen có vẻ chịu đựng được tốt hơn so với người da trắng dưới ánh nắng mặt trời, càng nóng càng tốt, thì mưa lại không hợp với họ. Mưa làm anh trông buồn tẻ và ủ rũ. Damon cảm thấy tự đắc về vẻ ngoài của mình - nhưng, anh để ý, là Thanh tra Burden của mình cũng vậy - và anh nghĩ chẳng có vấn đề gì miễn anh không thể hiện điều đó ra ngoài.
Anh mới chỉ hai mươi lăm tuổi nhưng thậm chí anh có thể nhớ được thời điểm khi một người da đen tuy đã được chấp nhận nhưng lại không bao giờ được coi là ưa nhìn trong mắt người da trắng. Rồi đến những năm tháng mà đàn ông và phụ nữ da đen đã đủ thu hút vì họ có những đặc điểm của người da trắng. Thời đó giờ đã trôi qua và những người Tây Phi thuần chủng được người da trắng rất yêu thích - trừ phi người da trắng đó là thành viên của BNP1 hay phe cánh hữu cực đoan. Damon nghĩ về điều này khi đang lảng vảng trong hẻm Glebe và cũng nghĩ rằng Kingsmarkham không tồi đến mức không thể ở được, đặc biệt là khi anh nhớ lại tuổi thơ của mình ở Deptford.
1 Britain National Party: Đảng Quốc gia Anh.
Suốt thời gian đó, anh để mắt đến những bậc thang sơn trắng hình zigzag ở đằng sau tòa nhà sơn đen trên đường Glebe. Khi nhắm mắt, anh thấy màu đen trên nền trắng. Anh thấy chúng trong giấc mơ hằng đêm, đen trên nền trắng hoặc trắng trên nền đen. Có vẻ như một biểu tượng hay một điềm báo nhưng anh không thể lý giải nó có nghĩa là gì đối với cuộc đời mình. Có thể là, chẳng có gì. Điều đó khiến anh bật cười với bản thân khi đi dọc xuống đường Glebe và quay trở lại. Anh biết nước mưa sẽ len lỏi vào trong ống giày và đúng thế thật. Anh cảm giác được nước óc ách giữa các ngón chân. Anh đã cởi giầy bên phải và dốc nước ra khi hai đối tượng xuất hiện trên bậc thang zigzag. Nhìn thấy bạn gái của Colin Fry làm anh tươi tỉnh hẳn lên. Cô ta mặc áo mưa màu trắng sáng bóng, chít eo và dài trên đầu gối khoảng hai mươi phân. Những đôi giày saggy mà tất cả các cô gái đang đi sẽ hợp hơn vào tối nay nhưng Emma lại đi đôi xăng đan hở ngón cao mười phân. Từ chỗ anh đứng, cách lối thoát hỏa hoạn khoảng bốn mươi lăm mét, Damon có thể nghe thấy tiếng kêu ré lên như phản đối thời tiết của cô ta khi bước xuống bậc thang và bám chặt lấy chiếc áo khoác có mũ trùm đầu của Colin.
Anh thấy hối tiếc vì không thể nán lại nhưng họ không được phép thấy anh. Anh lội lõm bõm qua con hẻm, khiến nước tràn đầy vào giầy lần nữa, tới chỗ chiếc xe và quăng mình vào trong. Có lẽ sẽ khôn ngoan hơn nếu cởi áo mưa ra trước vì hiện giờ chiếc xe dường như đã ngập nước, thấm vào thảm, làm cho ghế ngồi trơn tuột và nước nhỏ giọt từ tay lái. Chẳng có gì để làm ngoại trừ việc tháo đôi giày và tất ướt sũng của mình, rồi hối hận vì đã không mang theo một chiếc khăn.
Để an toàn, anh đã đậu xe của Bal ở gần cuối đường Glebe, khuất tầm nhìn của Colin từ cửa sổ. Điều đó cũng có nghĩa anh khó có thể thấy được cánh cửa trước sơn màu đỏ. Anh khởi động xe và lái đến gần chỗ đối diện tiệm giặt khô. Không có ai xung quanh. Đường Glebe - vốn thường vẫn tắc nghẹt bởi những hàng xe đậu nối tiếp nhau san sát - giờ này lại vắng tanh. Damon đã bắt đầu run rẩy. Hẳn là họ thỉnh thoảng vẫn ra ngoài, anh nghĩ, và không ai đến sử dụng căn hộ đó cả. Hy vọng đây là một đêm giống như thế. Anh đã đợi ở đấy một tiếng đồng hồ - không, phải là một tiếng rưỡi mới đúng. Nghĩ thì thật kinh khủng nhưng nó phải thế. Ngay khi anh đang tự vấn bản thân là liệu có quá lãng phí và hủy hoại môi trường khi để động cơ chạy nhằm bật máy sưởi hay không, thì một chiếc xe tấp vào và đỗ ngay cạnh anh. Một phụ nữ và một người đàn ông bước ra. Chỉ bằng những nét mảnh khảnh và tốc độ di chuyển của họ cũng đã nói với anh rằng họ còn trẻ, người phụ nữ kéo chiếc mũ trùm đầu của chiếc áo khoác độn qua đầu cô ta trước khi ra khỏi xe, còn người đàn ông - với áo mưa dài che kín từ đầu đến chân - liền bật chiếc ô lớn màu đen ngay lúc chân anh ta chạm vào vỉa hè. Nhưng họ đang hướng tới cánh cửa màu đỏ bên cạnh cửa sổ tiệm giặt khô. Damon thấy người đàn ông lục lọi trong áo mưa, lấy ra một chiếc chìa khóa và tra nó vào ổ. Cả hai người họ nhanh chóng bước vào trong và cánh cửa đóng lại phía sau họ.
Đây là vị khách thứ hai đến nhà Colin Fry mà anh nhìn thấy có chìa khóa. Chẳng phải Colin thật bất cẩn khi đưa chìa khóa nhà cho tất cả mọi người hay sao? Nhưng có lẽ không phải tất cả mọi người; Damon nghĩ khi anh lái xe về nhà, tắm nước nóng và thưởng thức một con gà tikka masala mua về. Nếu không phải bạn bè của hắn ta, có lẽ tất cả những người sử dụng căn hộ đó đều quen hắn ta, người hắn ta tin tưởng hay người được giới thiệu bởi những người hắn ta tin tưởng. Anh ghi điều đó vào bản báo cáo và sẽ quay lại vào tối hôm sau. Giờ hắn ta sẽ phải đi đâu đấy và chuyện này bắt đầu trở nên khá thú vị.
“Họ là một tổ chức hoàn toàn hợp pháp”, Mary bắt đầu nói, “hoặc đã từng thế. Cho đến giờ, theo tất cả những gì tôi biết, một nhân viên xã hội làm việc cho Ban công tác xã hội của Kingsmarkham đang điều hành nó và tôi cùng một cặp đôi nữa được đào tạo để tư vấn. Chúng tôi làm công việc này miễn phí. Cái chúng tôi làm chỉ là đưa ra lời khuyên. Chúng tôi làm dịch vụ tư vấn”.
Sylvia đi vào với rượu trên khay và những bát hạt điều cùng khoai tây chiên. Wexford vươn tay phải về phía bát hạt điều, mạnh mẽ lấy vài hạt như thể nó bị bao bọc bởi một hàng rào điện vô hình. “Lời khuyên kiểu nào?”
“Chà, anh bạn, mọi người được tư vấn về những lựa chọn họ có thể đưa ra. Có nghĩa là làm thế nào để bắt đầu trị liệu IVF - ồ, một trong những người tư vấn là chuyên gia về thảo dược và tư vấn những gì cần để thúc đẩy khả năng sinh sản.” Bà ta nhăn mặt. “Sau đó có kỹ thuật chữa bệnh bằng cách xoa bóp nhẹ nhàng dựa trên ‘ký ức tế bào’. Theo các bác sĩ, tế bào của chúng ta luôn mang những chấn thương trong quá khứ bên mình. Tưởng tượng xem một người phụ nữ rất muốn mang thai nhưng đã có một lần sinh nở khó khăn. Cô ta mang theo ký ức của lần sinh nở đó và nỗi sợ hãi phải lặp lại nó sẽ ngăn cản cô ta có thai. Ngớ ngẩn, thực sự là vậy, anh bạn ạ. Có những người cung cấp dẫn lưu bạch huyết và trực quan thôi miên”, Mary nói, “Một số người đặt một tinh thể khả năng sinh sản dưới gối của họ”.
Wexford nhướng mày.
“Vâng, tôi biết. Tôi chưa bao giờ quan tâm đến việc này. Sau đó, nếu không thành hoặc không thể mang thai hộ như những gì Sylvia đang làm, giúp đỡ một người bạn, hoặc chúng ta đưa họ trực tiếp tới một trung tâm như Babies for All. Nhận con nuôi, tất nhiên, và nuôi dưỡng. Chúng tôi khuyên họ nên gặp ai và như thế nào, đại loại vậy. Ồ, và chúng tôi tổ chức các buổi trị liệu nhóm. Đó là những cặp vợ chồng hoặc những người dự định làm cha mẹ đơn thân ngồi quây thành vòng tròn để thảo luận về vấn đề cá nhân và nói ra cảm nhận của họ. Chuyện đó có thể rất buồn, anh biết đấy, anh bạn ạ.”
“Có những người phụ nữ đến chỗ bà để cung cấp dịch vụ mang thai hộ không?”
“Có chứ, thường xuyên”, Mary nói. “Chúng tôi gửi họ tới các trung tâm. Babies for All hay Intended Parents. Tôi nghĩ là cô gái bị sát hại cũng đã đến đó.”
“Ý bà là Megan Bartlow?”
“Không, người kia cơ, cái cô mà nhìn dễ thương ấy. Khi tôi thấy ảnh cô ta trên ti vi, tôi nghĩ, thắc mắc liệu cô gái đó đã đến đây hay chưa. Tôi không dám thề nhưng tôi khá chắc chắn.”
“Bà đã giới thiệu cô ta đến một trung tâm?”
Mary thở dài. “Đầu tiên cô ta nói cô ta có dự định làm mẹ nhưng khi tới đó - lúc buổi trị liệu chưa bắt đầu - cô ta thông báo rằng mình muốn trở thành một người mang thai hộ và cô ta nói liên tục trước khi có ai đó ngăn cô ta lại. Cô ta đã nói chuyện với một vài người trước khi tôi nhận ra và tống cô ta ra ngoài.”
Một trong những người đó, Wexford nghĩ, hoặc có thể là nhiều hơn một cặp vợ chồng, đã bí mật tìm cô ta, sắp xếp một buổi gặp mặt với cô ta và vào tối ngày mùng Mười tháng Tám, cô ta đã đến nhà họ hoặc gặp người đàn ông ở một khách sạn và lấy mẫu tinh trùng từ ông ta. Ông ta cũng đã đưa cô ta một ngàn bảng, miễn phí và dễ dàng như chính cô ta vậy, cô ta đã nhét số tiền đó vào túi áo khoác và đi tới câu lạc bộ Bling-Bling. Dự định trả tiền hoa hồng cho Ross hay Rick Samphire chăng?
Anh hỏi Mary.
“Tôi chưa từng nghe nói về họ, anh bạn ạ. Tôi không chắc họ có liên hệ gì với SOCC hay không.”
“Tại sao bà nói là SOCC đã từng là một tổ chức hợp pháp?” “Tôi nói rằng giờ họ vẫn thế, theo những gì tôi biết.” “Nhưng ý bà ‘đã từng’ là gì?”
Mary làm một ngụm rượu như thể bà ta cần nó vậy. “Nếu anh buộc phải biết thì… tôi đã nghỉ việc.”
“Tôi nghĩ tôi phải biết, Mary ạ.”
“Chà, có vài chuyện xảy ra mà tôi không thích.”
“Tôi đã xem qua trang web của họ.” Nói ra những từ này, theo giọng điệu bình thường như thể anh đã xem trang web hằng giờ, đem đến cho Wexford niềm tự hào mà anh biết là vô lý. “Cái gì là ‘những hệ thống hoàn toàn mới để có được đứa con trong mơ của bạn’? Một số phương pháp sinh sản mà tôi không để ý chăng?”
“Tôi không biết nhưng đó là lý do tôi nghỉ việc. Tất cả những gì tôi biết là một trong những tư vấn viên của chúng tôi, một người đàn ông tên Quickwood, đã gửi những người phụ nữ muốn làm mẹ tới một đại lý du lịch ở Luân Đôn. Đó có thể chỉ là một lời giới thiệu về nhận con nuôi người nước ngoài, và chẳng có gì hơn, thế nhưng bằng cách nào đấy tôi không nghĩ rằng chỉ có vậy và đó là lý do khiến tôi không muốn làm việc cho SOCC nữa.”
“Tôi không nghĩ là mình hiểu được.”
“Tôi cũng không hiểu những gì bản thân mình nói nữa là”, Mary nói. “Tất cả những gì tôi biết là tại mội buổi hội thảo nhóm hỏi-và-trả lời tuần trước, một trong số những thành viên đã nói rằng cô ta định tới châu Phi cho cái mà cô ta gọi là ‘gói sinh sản’. Nairobi, tôi nghĩ cô ta đã nói thế. Vì thế cô ta sẽ đem một đứa trẻ về cùng. Sau đó nhân viên xã hội của chúng tôi đã hỏi cô ta rằng Ban công tác xã hội Kingsmarkham đã thực hiện đánh giá hay chưa - họ gọi nó là nghiên cứu tại nhà, xem xét gia thế và tình trạng của những bậc cha mẹ sẵn sàng nhận nuôi có phù hợp với đứa trẻ hay không. Thậm chí còn, chà, nghiêm ngặt hơn nữa khi nhận con nuôi người nước ngoài và nó luôn là một quy trình rất mất thời gian. Dù sao thì, người phụ nữ này nói rằng không cần thiết bởi vì đó sẽ là con đẻ của cô ta. Cô ta sẽ sinh nở ở châu Phi. Tôi đã khám cho cô ta rất kỹ và cô ta rõ ràng không có thai, nhưng cô ta đã nói rằng mình sẽ đến châu Phi trong hai tuần nữa.”
“Chà, Quickwood, một nhân viên xã hội, đã nói rằng người phụ nữ này rõ ràng tâm lý không bình thường. Chồng cô ta đã bỏ rơi cô ta và cô ta đang có tâm trạng tồi tệ. Chúng tôi chẳng phải lo lắng gì vì cô ta sẽ không được phép đem đứa bé ra khỏi châu Phi, chứ đừng nói là đem đến đây. Có thể cô ta chỉ nghĩ vậy thôi, anh ta đã nói thế. Nhưng tôi không biết, Reg ạ, tôi không thích điều này. Tôi đã nói chuyện với cô ta lần nữa và cô ta bảo rằng cô ta biết chuyện đó sẽ ổn và hợp pháp bởi vì một người phụ nữ cô ta biết ở Myringham đã làm một “gói sinh sản” và quay lại với đứa bé mà cô kia đã sinh một tuần sau khi đến Nairobi. Sau đó tôi đã hỏi cô ta rằng có phải bạn cô ta là người da trắng đúng không và cô ta trả lời đúng, rồi tôi hỏi đứa bé da đen đúng không và cô ta trả lời dĩ nhiên vậy. Những đứa bé được sinh ra ở châu Phi đều da đen. Và rồi cô ta nói rằng cô ta nghĩ tôi là một người phân biệt chủng tộc. Tôi đã kể cho Ken Quickwood. Anh ta nói là chuyện đó chẳng liên quan gì đến chúng tôi cả, nhưng người phụ nữ kia là một trong số các thành viên của chúng tôi và cô ta đã kể với mọi người về chuyện này. Đó là lý do tôi nghỉ việc.”
“Chuyện này phải giữ bí mật đúng không”, Wexford hỏi, “hay bà có thể nói cho tôi tên người phụ nữ đó?”.
“Tôi phải làm thế, đúng không, Reg? Nói ra hết thì cũng chẳng sao cả. Cô ta tên là Gwenda Brooks và cô ta sống ở số hai dãy nhà Jewel, Brimhurst.”
Trong tích tắc anh không biết người này là ai. Sau đó anh nhớ lại cuộc gặp gỡ giữa anh và Burden với John Brooks cùng người tình trẻ của anh ta ở nhà hàng. Đó là vợ anh ta, người vợ bị vô sinh của anh ta.
“Người phụ nữ ở Myringham cô ta biết là ai?”
“Tôi không biết. Tôi đã kể cho anh nghe tất cả những gì mình biết rồi.”
Giống như là đi hưởng tuần trăng mật vậy. Một cặp vợ chồng mới cưới đã ở bên nhau, có lẽ sống cùng nhau hàng tháng trời, nhưng giờ cuộc hôn nhân đó có lẽ không còn như nó đã từng trong quá khứ, khi một người chồng xấu hổ nhưng đầy tự hào vì được đi du lịch lần đầu tiên với cô dâu trinh nữ của mình. Phía trước họ là đêm tân hôn, một đêm tân hôn thực sự, mà họ sẽ lần đầu tiên làm tình với nhau.
Đó là tình huống của cô và Bal. Họ ngồi cạnh nhau, im lặng, trong xe của Damon Coleman, giống như cảm giác của cô dâu và chú rể vậy, nhưng tệ hơn vì xã hội và những phong tục đã thay đổi rồi. Cô thấy bực Bal vì điều đó. Đây là tất cả những gì anh tạo ra. Cái gì đã khiến anh nảy ra ý tưởng đi du lịch vào cuối tuần để làm tình với cô? Anh đã tạo ra một tình huống giả tạo, gần như một nghi lễ, nghiêm túc và quan trọng, vượt ra thứ mà đáng lẽ ra nên là kết quả tự nhiên của một nguyên nhân nào đó. Cả cô và anh sẽ cảm thấy hạnh phúc biết bao nếu họ lên giường cùng nhau (một lối nói giảm nói tránh mà cô thường coi khinh) hai tháng trước và ngủ cùng nhau từ đó đến giờ. Cô chắc rằng, từ sự im lặng kéo dài và chối từ tức khắc bất cứ cuộc trò chuyện nào của anh, anh cũng đang lo lắng như cô. Họ lẽ ra phải đang nói chuyện và cười đùa, hồi tưởng về những gì xảy ra gần đây, bị kích thích về sự thoải mái trước viễn cảnh lấy phòng ở Maid’s Head và thấy mình ở trong phòng cùng nhau.
Thay vì làm những thứ này thì - “Chúng ta cách Taunton bao xa rồi nhỉ?”.
Hannah đang thăm dò. “Có thể là mười lăm dặm.” “Chúng ta còn khá nhiều thời gian cho bữa tối.” Bữa tối! “Vâng”, cô nói.
Anh đánh xe vào một trạm nghỉ để bơm xăng. Càng về chiều trời càng xám xịt và tối hơn, một tiếng đồng hồ của ngày cuối tuần đã trôi qua, buổi tối đã đến. Buổi tối đến dù mới chỉ sáu rưỡi. Không phải một buổi tối lãng mạn, với ánh trăng và các vì tinh tú bao phủ bầu trời quang đãng, mà là bóng tối dày đặc xám xịt với màn sương đang bắt đầu che khuất con đường phía trước cùng sự nặng nề ẩm thấp trong không khí. Bal vẫn im lặng khi lái xe. Một vài phút trước và thậm chí anh - cô tự mình nảy ra ý nghĩ đó, “thậm chí anh”, như thể trở nên u mê, tất cả sự nhạy cảm biến mất - dường như nhận thấy có cả sự lúng túng.
“Có chuyện gì à, Hannah?”
Cô không trả lời và anh lặp lại câu hỏi. “Trực giác của anh nói thế à?”, cô nói.
Đúng là đàn ông, như mẹ cô có thể đã nói, “Anh phải làm gì bây giờ?”, anh nói.
Cô đi đến một quyết định. Nếu cô không làm gì, nếu cô mặc kệ nó và để buổi tối diễn ra một cách tự nhiên, cô biết tình hình sẽ càng thêm tồi tệ. Một hoặc cả hai người họ sẽ cảm thấy vô cùng ê chề và không đủ tình yêu dành cho nhau để làm mọi việc theo đúng cách của nó. Nhưng khi cô thoáng nhìn lại mối quan hệ của họ, cô không thể hiểu tại sao mình có thể hành động khác lạ đến vậy. Bước đi nào mà cô đã tạo ra hay đã bước đưa họ tới đây, chỉ bên ngoài Taunton, trong một suy nghĩ khác? Chẳng có gì cả. Cô càng không thích điều này thì càng đổ lỗi cho anh. Anh đã cố gắng sống theo một đạo lý lỗi thời trong một thời đại không muốn cũng không hiểu nổi nó.
“Không tốt rồi, Bal ạ”, cô nói. “Có thể đây là lỗi của em” - cô biết là không phải - “nhưng việc này không hiệu quả. Em xin lỗi”.
“Em đang nói gì thế, Hannah?”
“Chúng ta đã để mặc chuyện này quá lâu. Anh có cảm thấy thế không? Anh có hiểu không? Loại chuyện này nên tự nhiên và không ép buộc. Em đã nói với anh nhưng anh không chịu nghe. Phải thật nghiêm túc và hiểu rõ về nhau và… đại loại thế. Giờ thì quá muộn rồi.”
Anh đánh xe vào một điểm dừng. “Em muốn làm gì thế? Ở lại đây trong phòng riêng á? Chúng ta có thể làm thế. Anh đã luôn nói rằng sự chậm trễ là phương thức khôn ngoan nhất.”
“Đúng, và nhìn xem chúng ta đến đâu rồi. Anh đi tiếp đi. Thả em ở Taunton và em sẽ về bằng tàu hỏa. Taunton nằm trên đường tàu chính, phải không?”
“Đừng ngốc nghếch thế”, anh nói, mặt anh tối đen lại như bầu trời ngoài kia. “Dĩ nhiên chúng ta sẽ cùng về.”
Và anh đã làm thế. Im lặng, không nói gì, nhưng thỉnh thoảng lại tạo ra một âm thanh khe khẽ giống như tiếng càu nhàu bị dồn nén.
“Em cần phải đi vệ sinh”, cô nói khi đến địa phận Tây Sussex. Họ ngồi uống cà phê, nhớ ra rằng họ chưa ăn tối và cả hai cố gắng ăn một miếng bánh thịt lợn cùng cà chua.
“Anh nghĩ em mất trí rồi”, Bal nói. Cô nhún vai.
“Chuyện này dường như kết thúc rồi, phải không em?” “Chưa từng có bắt đầu để kết thúc anh ạ”, cô nói.
Anh nhìn rất bảnh, kể cả khi đang mệt mỏi và chán nản. Thật là lãng phí. Và cô rất thích anh, cô sẽ nhớ anh, vấn đề chỉ là cô sẽ không phải nhớ bởi vì anh luôn ở đó. Có thể cô sẽ xin thuyên chuyển công tác - nhưng tại sao? Cô không phải người sai. Anh vẫn lái xe trong im lặng.
Đường xá dần vắng vẻ, đặc biệt là về hướng đông này. Như thường lệ, những người tài xế cố gắng đi quá tốc độ, hơn tám mươi và dưới chín mươi. Bal, dĩ nhiên, cố định tốc độ ở mức bảy mươi, không hề lo lắng khi máy bắn tốc độ lóe lên, nhằm vào những chiếc xe chạy với vận tốc tám mươi bảy trên làn đường cao tốc.
Họ không nói chuyện tiếp cho đến khi đi qua biển báo ghi “Chào mừng tới Kingsmarkham, Thị trấn Lịch sử”. Bal đi vòng quanh bùng binh thay vì rẽ trái và Hannah nói, “Anh đi sai đường rồi”.
Anh bật ra một tiếng cười gay gắt, không chút hài hước.
“Một trong hai chúng ta, chắc chắn rồi.”
Chưa bao giờ anh nói từ “chúng ta” theo cách này, cô nghĩ. Anh quay xe vào đường Orchard và phanh rất gấp bên ngoài căn hộ của cô. Cô quay sang nhìn anh nhưng anh không nhìn lại. Tay anh vẫn đặt trên vô lăng, nắm chặt.
Khi ra khỏi xe, cô nói lần nữa, “Em xin lỗi”.
Damon không bao giờ có thể hiểu được dự báo thời tiết trên ti vi và radio có ý gì khi họ nói rằng cơn mưa sẽ di chuyển dần về phía bắc (hoặc phía nam hoặc phía đông) để nhường chỗ cho nắng và những cơn mưa rải rác. Mưa rải rác cũng là mưa, phải không nhỉ? Khi còn là một đứa trẻ, những người hàng xóm da trắng từng quát tháo sau lưng anh, bảo anh quay lại nơi anh từng thuộc về. Vì được sinh ra ở Luân Đôn, anh không biết đó có thể là nơi nào cho đến một ngày anh quay lại và hỏi người phụ nữ. Anh đã hỏi bà ta rất lịch sự.
“Một nơi nóng bức”, bà ta nói. “Đủ nóng để đốt cháy cậu đấy, khỉ đột ạ.”
Nhưng bà ta không bao giờ quát tháo sau lưng anh nữa. Damon nghĩ trời sẽ không bao giờ mưa ở một nơi nóng bức và anh thích cái ý định đến đó. Anh nhớ lại điều này khi quay trở lại hẻm Glebe, xem xét lối thoát hỏa hoạn hình zigzag và thắc mắc liệu một trong những cơn mưa rải rác đó khi nào sẽ đến. Đó là một đêm không trăng không sao.
Bầu trời có lẽ quang đãng hoặc bị mây che phủ hoàn toàn, ta chẳng thể biết được. Để phòng ngừa, anh mặc lại áo mưa và cảm thấy rất nóng. Nóng đủ để đốt cháy anh, khỉ đột ạ, Damon tự mỉm cười. Bà già tội nghiệp mà tất cả hàng xóm đều biết bà ta nửa điên nửa khùng và có thể sẽ phải hầu tòa vào thời đại này vì nói điều mà bà ta đã nói với anh. Thật là một thế giới vui nhộn.
Bởi vì anh đang dùng xe của Bal và, dù sao đi nữa, đỗ xe ít nhiều ngoài tầm nhìn, Colin Fry và Emma có thể quyết định quay trở lại dùng lối vào đằng trước. Anh chẳng thể làm gì đối với chuyện đó cả. Anh không thể ở hai nơi cùng một lúc. Một hạt mưa rơi trúng mũi anh và khi anh đưa tay lên vuốt nó đi thì họ xuất hiện từ cánh cửa bên trên lối thoát hỏa hoạn. Anh không chần chừ mà chạy ngay ra khỏi con hẻm, tới đường Glebe và chui vào xe. Việc dọn dẹp sạch sẽ bên trong xe đầu tiên vào sáng nay thật thông minh nhưng nó vẫn ẩm ướt. Anh lái xe đi khoảng mười một mét dọc theo đường Glebe và tấp vào một trong những chỗ trống còn lại.
Nếu một vị khách đến căn hộ bây giờ, anh sẽ để xe ở đâu đây?
Dọc theo con phố tiếp theo, rõ ràng là thế, nếu không anh phải lên xe buýt, chờ người đàn ông đi bộ tới tiệm giặt khô và tra chìa khóa vào ổ trên cánh cửa màu đỏ. Anh ta là một người cao ráo, đeo một chiếc thắt lưng nhìn có vẻ sang trọng hiệu Burberry và anh ta bật ô lên. Nhưng khi cánh cửa mở ra, anh ta nhất thiết phải gập nó lại và khi anh ta bước vào trong, giũ ô ở bậc cửa, Damon thấy được mặt anh ta dưới ánh đèn đường. Anh nhận ra khuôn mặt đó. Anh đã nhìn thấy nó ở đâu đó trước kia nhưng không thể nhận ra đấy là ai.
Im nào, anh nguyền rủa. Anh phải nhớ ra được chủ nhân khuôn mặt này là ai. Anh đã nhìn thấy người này ở đâu nhỉ? Anh đã nghĩ đến mọi nơi mình ghé qua gần đây, tất cả những người anh đã từng nói chuyện...
Con phố không còn vắng vẻ nữa. Một phụ nữ đang đi tới từ phố High Street cuối đường Glebe. Bà ta đeo cái kính râm rất không phù hợp với thời tiết này, đặc biệt khi bà ta mặc áo mưa đen dài đến đầu gối và cầm chiếc ô lớn loại cho đàn ông. Phải chăng bà ta cũng định tới căn hộ của Colin Fry?
Hình như là thế. Cơn mưa đã ngớt trước khi bà ta đến nơi và bà ta cụp ô xuống. Nhìn ngó xung quanh, trái rồi phải, bà ta tháo kính râm cài vào chiếc khăn đang quấn quanh cổ. Damon chưa từng thấy bà ta. Tất cả những gì anh có thể nói về bà ta là bà ta tầm bốn mươi tuổi hoặc trẻ hơn. Nhưng quả thực khó mà nói như vậy khi họ buộc tóc ra đằng sau, kéo căng da dưới mắt và nâng má. Anh quay trở lại chỗ mà người ta đặt tên cho nó là “Nâng cơ mặt Croydon”.
Bà ta đi tới cánh cửa cạnh tiệm giặt khô nhưng trước khi chạm vào chuông cửa, nó đã mở ra và bà ta bước nhanh vào trong.