Các hoạt động vận động thường xuyên, liên tục, có kế hoạch cụ thể và phù hợp với từng lứa tuổi luôn mang lại hiệu quả cao đối với trẻ em và học sinh. Độ tuổi từ 7 - 11 là thời điểm các em đang phát triển mạnh mẽ về thể chất, trung bình mỗi năm cao thêm 7 - 9 cm. Để đảm bảo sự phát triển bền vững và hiệu quả, cần lưu ý phân chia thời lượng tập luyện cho từng độ tuổi.

Chú ý độ tuổi lớp 3
Độ tuổi học sinh tiểu học thường được chia làm 2 giai đoạn.
- Giai đoạn 1: từ lớp 1 đến hết lớp 2 (7 đến 8 tuổi) thậm chí có thể đến hết học kì 1 của năm lớp 3.
- Giai đoạn 2: từ lớp 3 đến hết lớp 5 (9 đến 11 tuổi).
Trong đó, đặc biệt quan tâm đến độ tuổi lớp 3 để tính toán thời gian vận động cho phù hợp, vì ở độ tuổi này các em đang chuẩn bị chuyển sang một giai đoạn phát triển mới. Đó là lúc cơ quan vận động đã bắt đầu hoàn thiện, giúp trẻ có thể thực hiện các bài tập vận động có cường độ và khối lượng cũng như thời gian lâu hơn hẳn với độ tuổi lớp 1 và lớp 2. Ở độ tuổi lớp 3, có em nhanh chóng tiếp cận với giai đoạn 2 của sự phát triển thể chất, nhưng cũng có những em chậm hơn, đến giữa lớp 3 mới bắt đầu chuyển đổi. Vì vậy, cần quan sát và áp dụng lượng vận động, thời gian vận động phù hợp.
Lựa tuổi để tập
Thời gian vận động ngắn hay dài cũng chỉ có thể ước lượng một cách đại khái vì nếu trẻ em hoạt động trong thời gian dài nhưng khối lượng vận động ít, cường độ vận động nhỏ thì cũng chưa chắc đã hiệu quả bằng vận động trong thời gian ngắn với cường độ và khối lượng vận động phù hợp. Vì vậy người giáo viên, huấn luyện viên quan trọng nhất là phải căn cứ vào tình hình thực tiễn để xây dựng nội dung vận động và thời gian vận động phù hợp cho mỗi trẻ em và học sinh.
Trong từng độ tuổi, sự phân chia về thời gian vận động và lượng vận động cũng khác nhau. Giai đoạn 1, các em nữ có xu hướng phát triển nhanh hơn, có thể áp dụng các bài tập với lượng vận động và thời gian vận động cao hơn so với các em nam. Đến giai đoạn 2 khi tiến trình phát triển ở hai nhóm nam và nữ dần tiếp cận và cân bằng nhau, có thể xây dựng cho cả 2 nhóm với lượng vận động và thời gian vận động tương ứng.
Đối với giai đoạn 1 (ở độ tuổi lớp 1 và lớp 2), các bài tập vận động thiên về phát triển các tố chất khéo léo mềm dẻo và phát triển sức nhanh, vận động đơn giản. Thời lượng vận động có thể bằng với các lứa tuổi lớn hơn nhưng cường độ nên ở mức độ thấp hơn.
Đến giai đoạn 2 (lớp 3 đến lớp 5), chúng ta có thể bắt đầu cho các em tập các bài tập phát triển sức bền và sức mạnh. Tuy nhiên, thời gian và cường độ vận động nên vừa phải, các bài tập phát triển sức mạnh cũng không được cao để đảm bảo không ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ.

BẢNG THAM KHẢO THỜI LƯỢNG VẬN ĐỘNG


Giai đoạn 1: Lớp 1-2 (Có thể đến giữa lớp 3)

