53% phụ huynh không biết con thừa cân, béo phì
Tưởng con bụ bẫm, nào ngờ béo phì
Mang bầu mới hơn 7 tháng, chị Thủy đã trở dạ. Bé Na bị sinh thiếu tháng, lúc chào đời nặng chưa đầy 2kg, nhìn bé xíu xiu. Xót con, chị Thủy tâm niệm sẽ tẩm bổ thật nhiều cho bé để bù đắp lại.
Nghĩ là làm, chị Thủy cho bé Na ăn dặm rất sớm. Bé Na được 4 tháng tuổi, chị đã cho con ăn bột. Lúc 3 tuổi, bé Na cao đủ chuẩn – 95cm, nhưng đã nặng 22kg – như một đứa trẻ lên 7. Ai gặp cũng khen bé bụ bẫm, khen chị Thủy khéo nuôi con khiến chị rất mãn nguyện.
Lớn chút nữa, bé Na mê các món ăn nhanh và bánh kẹo, chị Thủy đều chiều theo. Bé đòi ăn lúc nào là chị cho ăn lúc đó, bất kể giờ giấc. Bạn thân chị có lúc cảnh báo chị nên “hãm” bé Na trong việc ăn uống để tránh béo phì nhưng chị Thủy bỏ ngoài tai. Chị nghĩ con mình chỉ bụ bẫm, lớn chút nữa, con cao lên là… vừa.
Trước năm học mới, chị Thủy đưa bé Na đi khám dinh dưỡng để chuẩn bị vào lớp 1. Mới 6 tuổi, bé Na cao 125cm và nặng gần 50kg. Với chỉ số BMI 31,25, bác sĩ kết luận bé Na béo phì cấp độ 3.
Chị Thủy chỉ là một trong số rất nhiều phụ huynh ngộ nhận về cân nặng của con mình. Kết quả Tổng điều tra Dinh dưỡng toàn quốc năm 2019-2020 của Bộ Y tế ghi nhận tỷ lệ thừa cân, béo phì ở trẻ tăng nhanh, song có đến 53% phụ huynh không biết con mình thừa cân, béo phì.
Những cảnh báo của bác sĩ về hậu quả của thừa cân, béo phì khiến chị Thủy choáng váng. Với sự tư vấn của bác sĩ, chị quyết tâm thay đổi tình hình.
Đầu tiên, chị sắp xếp thời gian để nấu bữa sáng ở nhà và cho bé Na ăn đúng giờ, không để con ngủ nướng và bỏ bữa sáng như trước. Các món ăn trong bữa cơm chủ yếu chế biến kiểu luộc, hấp; tăng cường rau xanh và được trình bày đẹp, hấp dẫn để giúp con thấy vui mắt, ngon miệng.
Đặc biệt, chị Thủy “rủ” bé Na đi bộ và tập yoga cùng mình, nhằm giúp con tiêu hao năng lượng. “Tôi đã hiểu rằng nếu con cân bằng được năng lượng nạp vào và năng lượng tiêu hao thông qua các hoạt động thể lực thì sẽ tránh được nguy cơ thừa cân, béo phì”, chị Thủy kể. Vì vậy, mỗi tháng chị vẫn cho con ăn món yêu thích như gà rán, xúc xích một đến hai lần đồng thời tăng cường vận động. “Hai mẹ con đi bộ dưới sân khu chung cư vào buổi sáng và tập yoga tại nhà vào buổi tối. Tôi hứa vừa đi bộ vừa kể chuyện cho con nghe nên bé rất hào hứng”, chị Thủy cho biết.
Thế nào là thừa cân, béo phì?
• Thừa cân là tình trạng cân nặng vượt quá ngưỡng phù hợp so với chiều cao.
• Béo phì là tình trạng tích lũy mỡ thái quá và không bình thường một cách cục bộ hoặc toàn thể dẫn đến những ảnh hưởng xấu cho sức khỏe.
• Thừa cân, béo phì ở trẻ em gây nhiều hậu quả xấu tới sức khỏe như đái tháo đường tuýp 2, rối loạn chuyển hóa lipid máu và tăng huyết áp. Khi trưởng thành những trẻ này có nguy cơ cao mắc bệnh béo phì, các bệnh mạn tính không lây và hội chứng chuyển hóa. Một số nghiên cứu cho thấy có đến 30% trẻ béo phì sẽ trở thành người béo phì khi trưởng thành, kèm theo đó là các bệnh mạn tính không lây như tim mạch, huyết áp, đái tháo đường và ung thư...
Thực trạng thừa cân, béo phì ở trẻ em Việt Nam
• Tình trạng thừa cân, béo phì của trẻ em có xu hướng tăng nhanh trong giai đoạn gần đây. Theo kết quả Tổng điều tra dinh dưỡng 2019-2020, tỷ lệ thừa cân, béo phì tăng từ 8,5% năm 2010 lên 19,0% năm 2020. Trong một thập kỷ qua, tỷ lệ thừa cân, béo phì đã tăng lên hơn 2 lần, trong đó tỷ lệ này của khu vực thành thị là 26,8%, nông thôn là 18,3% và miền núi là 6,9%.

Yếu tố nguy cơ thừa cân, béo phì
1. Yếu tố di truyền
• Một số nghiên cứu đã xác định vai trò của các yếu tố di truyền đối với nguy cơ của bệnh béo phì, có sự tương tác giữa các yếu tố nguy cơ từ môi trường sống và các yếu tố di truyền (gen).
• Nghiên cứu mối liên quan giữa gen và lối sống trên trẻ em 6-11 tuổi của thành phố Hà Nội cho thấy một số gen (FTO và UCP2) có liên quan đến béo phì và các yếu tố kinh tế, xã hội, thói quen ăn uống.
2. Mất cân đối giữa năng lượng ăn vào và năng lượng tiêu hao
• Mất cân đối giữa năng lượng ăn vào và năng lượng tiêu hao: Ăn thừa năng lượng so với nhu cầu và hoạt động thể lực của trẻ là nguyên nhân chính yếu nhất của thừa cân, béo phì. Một số nghiên cứu cho thấy chế độ ăn ở nhà và ở trường tại một số khu vực thành thị hiện nay không cân đối, hợp lý, vượt quá nhu cầu khuyến nghị về năng lượng và chất đạm nhưng lại bị thiếu vi chất do trẻ không thích ăn rau, ăn các món ăn có nguồn gốc từ thủy hải sản. Cho dù là ăn các thực phẩm lành mạnh nhưng nếu ăn nhiều hơn nhu cầu của cơ thể thì cũng có thể gây thừa cân, béo phì.
• Xu hướng tăng tiêu thụ thức ăn nhanh, thức ăn chế biến sẵn. Các thức ăn này có nhiều chất béo, năng lượng cao nhưng nghèo dinh dưỡng, làm tăng nguy cơ thừa cân, béo phì.
• Xu hướng tăng tiêu thụ các thức ăn có nhiều đường như bánh, kẹo, nước ngọt, trà sữa,... cũng làm tăng nguy cơ thừa cân, béo phì.
• Thói quen ăn uống không lành mạnh, ăn nhanh, ăn nhiều, ăn vặt.
• Phân bổ bữa ăn không hợp lý trong ngày.
• Nhịn ăn sáng cũng làm tăng nguy cơ thừa cân, béo phì.
• Ăn quá nhiều vào bữa chiều và bữa tối khi cơ thể không cần nhiều năng lượng cho các hoạt động thể lực.
3. Thiếu hoạt động thể lực
• Điều tra sức khỏe học sinh toàn cầu của Tổ chức Y tế thế giới năm 2019 cho thấy chỉ có 18,2% trẻ em 13-15 tuổi có hoạt động thể lực ít nhất 60 phút/ngày ≥ 5 ngày/tuần. Trong khi đó, tỷ lệ trẻ em 13-15 tuổi thời gian dành cho hoạt động tĩnh tại ≥ 3 giờ/ngày cao gần gấp đôi (35%).
• Hai yếu tố góp phần quan trọng làm giảm hoạt động thể lực của trẻ em thành thị là trẻ không có không gian để hoạt động thể lực (đi bộ, khu vui chơi công cộng) và quá nhiều chương trình giải trí trên tivi và mạng xã hội làm trẻ ngồi xem thụ động, ngay cả trẻ nhỏ.
• Một số nghiên cứu cho thấy béo phì liên quan với lối sống tĩnh tại. Thời gian xem tivi và chơi game từ 3 tiếng trở lên trong một ngày làm tăng nguy cơ thừa cân, béo phì.
4. Tâm lý thích trẻ bụ bẫm của người Việt Nam, đặc biệt thế hệ ông bà
• Nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng quốc gia năm 2017-2018 về hình ảnh cơ thể trên 600 bà mẹ có con học tiểu học tại thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và Hải Phòng cho thấy đa phần các bà mẹ thích hình ảnh trẻ có BMI cao hơn BMI trung bình. Bà mẹ có nhận định sai khi đánh giá tình trạng dinh dưỡng của con: đa số bà mẹ có con có tình trạng dinh dưỡng bình thường nhận định con mình vẫn đang thiếu cân, thừa cân bị nhận định thành bình thường, béo phì được nhận định thành thừa cân. Có 27% bà mẹ có con bị béo phì nhưng chỉ có 2% nhận định đúng.
• Do xu hướng thích trẻ béo khỏe, bụ bẫm nên trẻ em khu vực thành phố và nông thôn hiện nay có xu hướng bị ông bà và bố mẹ ép ăn uống từ nhỏ, dẫn đến cân nặng tăng dần, cho đến khi trẻ bị thừa cân béo phì thì trẻ lại càng thèm ăn hơn, thích ăn nhiều hơn. Trẻ càng béo thì việc kiểm soát cân nặng sẽ càng khó khăn hơn.

Phòng chống thừa cân, béo phì
1. Dinh dưỡng lành mạnh
• Đảm bảo chế độ ăn đa dạng, lành mạnh, giàu vi chất dinh dưỡng cho trẻ ở nhà và ở trường. Bữa ăn chính có trên 10 loại thực phẩm (2-3 loại thực phẩm cung cấp chất đạm; 3-5 loại rau củ); ăn đa dạng, cân đối theo các tầng của Tháp dinh dưỡng, đặc biệt cần đảm bảo đủ lượng rau củ quả. Lựa chọn thực phẩm lành mạnh, giàu dinh dưỡng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho bữa ăn hàng ngày.
• Hạn chế thực phẩm chế biến sẵn, thực phẩm có nhiều đường, nhiều chất béo. Không ăn thường xuyên các đồ ăn nhanh, đồ chiên rán nhiều dầu mỡ như gà chiên, khoai tây chiên, xúc xích. Hạn chế bánh ngọt, bánh kẹo, nước ngọt có ga và không có ga,...
• Không ăn quá nhanh. Nhai kỹ, hạn chế ăn vặt. Luôn có ý thức chọn các phần ăn nhỏ.
• Nên sử dụng sữa tươi không đường hoặc ít đường. Với những trẻ bị béo phì nên sử dụng sữa tươi tách béo, không đường.
2. Phân bố bữa ăn hợp lý
• Phân bố bữa ăn hợp lý trong ngày giữa ở nhà và ở trường: Ăn nhiều hơn vào bữa sáng và bữa trưa, ăn ít hơn vào bữa tối. Bữa phụ sáng và chiều nên sử dụng sữa và chế phẩm sữa. Không ăn muộn vào buổi tối, không ăn uống bữa phụ trước khi đi ngủ.
3. Tăng cường hoạt động thể lực, vận động mọi nơi mọi lúc
• Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo trẻ em, thanh thiếu niên nên vận động ít nhất 60 phút mỗi ngày, hạn chế thời gian ngồi tĩnh tại dưới 2 giờ mỗi ngày.
4. Xây dựng nếp sống năng động và lành mạnh
• Không uống rượu bia, hút thuốc lá, hạn chế sử dụng các thực phẩm không lành mạnh.
• Tăng cường hoạt động thể lực.
• Cha mẹ đồng hành với nhà trường trong giáo dục dinh dưỡng và giúp trẻ hình thành các thói quen ăn uống lành mạnh, nếp sống năng động, tích cực, tốt cho sức khỏe.