• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Cánh buồm đỏ thắm
  3. Trang 4

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 3
  • 4
  • 5
  • More pages
  • 10
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 3
  • 4
  • 5
  • More pages
  • 10
  • Sau

Chương 1Lời tiên tri

L

ongren làm thủy thủ trên tàu Orion - con tàu xù xì, mạnh mẽ chở được tới ba trăm tấn - đã mười năm nay. Anh gắn bó với con tàu còn thắm thiết hơn cả đứa con gắn bó với mẹ. Vậy mà cuối cùng, anh cũng phải rời bỏ con tàu.

Chuyện xảy ra như thế này. Vào một lần hiếm hoi về thăm nhà, anh không thấy Mary, vợ anh, đứng trên bậu cửa đằng xa, đưa tay vẫy vẫy rồi chạy muốn đứt hơi về phía anh như mọi khi. Anh chỉ thấy bà cụ hàng xóm thẫn thờ đứng bên chiếc nôi, món đồ mới hiện diện trong ngôi nhà nhỏ của anh.

“Tôi đã chăm con bé ba tháng nay rồi, cậu hàng xóm ạ.” Bà nói. “Lại nhìn con gái cậu đi.”

Chết lặng vì đau khổ, Longren cúi xuống đứa bé tám tháng tuổi đang chăm chú quan sát bộ râu dài của anh. Rồi anh ngồi xuống, mắt dán xuống nền nhà, tay vân vê bộ râu đã ướt sũng vì nước mưa.

“Mary mất khi nào vậy ạ?” Anh hỏi.

Bà cụ hàng xóm kể lại câu chuyện buồn, thỉnh thoảng lại ngừng để nựng đứa nhỏ và quả quyết với anh rằng Mary giờ đã ở trên Thiên đường. Khi Longren đã tỏ tường câu chuyện, Thiên đường đối với anh chẳng sáng sủa hơn cái nhà chứa củi là mấy, và nếu cả ba người nhà anh được sum vầy bên nhau lúc này, ánh lửa của ngọn đèn dầu kia cũng đã đủ là một niềm vui không gì sánh nổi đối với người thiếu phụ đã về nơi chín suối.

Chừng ba tháng trước, người mẹ trẻ gặp cơn túng thiếu bất ngờ. Một nửa số tiền Longren để lại cho Mary, cô phải chi hết vào việc chữa trị sau lần sinh khó và chăm sóc đứa bé mới ra đời; chưa hết, món tiền nhỏ nhưng cần thiết còn lại cũng bị mất nốt, Mary buộc phải tới chỗ Menners để vay. Menners là chủ quán rượu, lại có cả một tiệm tạp hóa nhỏ. Có thể coi hắn là một người giàu có. Mary tới nhà hắn lúc sáu giờ tối. Gần bảy giờ, bà hàng xóm gặp cô trên đường đến Liss. Mary khóc sướt mướt và buồn bã kể với bà rằng, cô phải vào thị trấn để đem cầm chiếc nhẫn cưới. Rồi cô nói thêm, Menners đồng ý cho cô mượn tiền nhưng với điều kiện cô phải yêu hắn. Vậy là Mary bỏ về.

“Trong nhà chẳng còn lấy một vụn bánh mì, bác ạ.” Cô nói với bà hàng xóm. “Cháu phải vào trong thị trấn kiếm ít tiền. Rồi mẹ con cháu cố cầm cự cho tới khi nhà cháu về.”

Tối hôm ấy, trời lạnh và gió lắm. Bà hàng xóm cố ngăn cô gái trẻ đi Liss lúc đêm hôm nhưng không được. “Cô sẽ bị ướt mất thôi, Mary. Trời bắt đầu mưa rồi, còn gió thế này khéo sẽ bão nữa đấy.”

Từ ngôi làng nhỏ ven biển vào đến thị trấn, cả đi lẫn về nhanh nhất cũng phải ba giờ đồng hồ, nhưng Mary không nghe theo lời khuyên của bà hàng xóm. “Cháu không quấy quả các bác thêm nữa đâu.” Cô nói. “Chẳng có nhà nào mà cháu chưa từng tới vay bánh mì, trà hay bột cả. Cháu sẽ đem chiếc nhẫn này đi cầm, thế là xong cả thôi, bác ạ.” Cô vào thị trấn rồi về. Ngày hôm sau, cô nằm liệt giường, lên cơn sốt cao. Cơn mưa và trời đêm buốt giá khiến cô bị viêm phổi nặng, vị bác sĩ được bà hàng xóm tốt bụng mời về bảo thế. Một tuần sau, chiếc giường đôi nhà Longren đã trống không. Bà cụ hàng xóm dọn sang nhà anh ở để chăm sóc đứa bé. Bà góa bụa đã lâu, lại chỉ có một thân một mình, nên việc ấy chẳng khó khăn gì. “Vả lại,” bà nói thêm, “đứa trẻ giúp thân già này đỡ buồn.”

Longren lên phố, xin thôi việc, từ biệt bạn bè, đồng nghiệp rồi về quê nuôi dạy Assol bé bỏng. Bà cụ góa ở lại nhà chàng thủy thủ, thay thế người mẹ đã khuất chăm sóc cô bé cho đến khi em biết đi. Rồi ngay khi Assol nhấc được chân qua ngưỡng cửa mà không còn bị ngã nữa, Longren quyết định sẽ tự tay chăm con, và anh cảm ơn bà hàng xóm tốt bụng đã tận tình giúp đỡ mình suốt bấy lâu. Kể từ đó, anh sống cuộc đời đơn côi của một người góa vợ, dồn mọi suy nghĩ, hy vọng, tình cảm và kỷ niệm vào cô con gái bé bỏng.

Sau mười năm lênh đênh nơi đầu sóng ngọn gió, anh cũng không để dành được mấy. Vậy nên, anh bắt tay vào làm việc. Chẳng bao lâu sau, các cửa hàng trong thị trấn bắt đầu bày bán những món đồ chơi do chính tay Longren làm: những chiếc thuyền con, thuyền lớn, tàu thủy một boong, hai boong, tàu tuần dương và tàu hơi nước được đẽo gọt tinh xảo. Chúng mang dáng hình của tất cả những gì đã thân thuộc với anh, nên cũng phần nào thay thế được cảnh ồn ào, náo nhiệt nơi bến cảng, cùng những chuyến phiêu lưu trên biển trong anh. Nhờ công việc đó, Longren cũng kiếm đủ tiền cho hai cha con tằn tiện qua ngày. Anh vốn không phải người quảng giao, và sau khi vợ mất, anh lại càng khép kín hơn trước.

Thỉnh thoảng, vào ngày lễ, người ta cũng thấy anh ở quán rượu, nhưng anh chẳng bao giờ ngồi tán gẫu với ai mà chỉ vội vàng uống cạn một cốc vodka ngay tại quầy, nói mấy câu vắn tắt: “vâng”, “không”, “chào bác”, “cũng tàm tạm” trước những lời thăm hỏi của hàng xóm rồi ra về. Anh không thích có khách tới chơi. Khi có khách, anh thường tìm cách xua khéo người ta bằng những lời bóng gió hoặc viện ra đủ mọi lý do, khiến họ chỉ còn cách nghĩ ra một cái cớ để trở gót ngay lập tức.

Về phần mình, anh cũng chẳng tới thăm ai; thế nên, giữa anh và hàng xóm láng giềng mọc lên một bức tường lạnh lùng, xa cách. Và nếu công việc của Longren, những món đồ chơi anh làm, dựa cả vào mối quan hệ của anh với mọi người trong làng, có lẽ anh đã gặp nhiều khó khăn. Tất thảy đồ dùng trong nhà và nhu yếu phẩm, Longren đều mua cả trên thị trấn. Menners không thể khoe khoang được rằng anh đã mua hàng ở chỗ hắn, dù chỉ là một bao diêm. Longren tự làm hết việc nhà và rất chịu khó học cách nuôi dạy cô con gái, một việc phức tạp vốn không quen thuộc với đàn ông.

Assol giờ đã lên năm. Những khi em ngồi trong lòng bố, tay mân mê vạt áo gile bố mặc, miệng véo von hát những khúc ca thủy thủ, Longren thường trìu mến ngắm nhìn gương mặt đáng yêu, lanh lợi của con và mỉm cười thật hiền. Những giai điệu phóng khoáng như ngọn gió tự do ấy, qua giọng hát líu lo của trẻ thơ, khiến người ta liên tưởng tới hình ảnh chú gấu bông với chiếc nơ xanh buộc quanh cổ đang rộn ràng nhảy múa.

Vào quãng thời gian đó, một chuyện đáng buồn xảy ra, phủ lên cuộc đời cả hai bố con một bóng đen tăm tối.

Khi ấy đang là đầu xuân, tiết trời vẫn khắc nghiệt như mùa đông. Gió bấc rét buốt ngoài khơi xa dồn dập thốc vào dải đất suốt ba tuần liền. Những chiếc thuyền đánh cá được lôi lên bờ, nằm lật úp trên bãi cát trắng thành một hàng dài, sống thuyền đen ngửa lên trên, trông giống xương sống của một con cá khổng lồ. Không ai dám đi biển giữa lúc trời như vậy. Con đường duy nhất trong làng chẳng có lấy một bóng người. Gió lốc lạnh cóng xoáy từ những ngọn đồi dọc bờ biển về phía đường chân trời trống trải, khiến việc ra đường lúc ấy trở thành một trò tra tấn dã man. Những làn khói run rẩy bốc lên từ những mái nhà vát nghiêng của làng Kaperna suốt từ sáng tới chiều.

Nhưng những ngày gió bấc khắc nghiệt ấy lại khiến Longren thích ra khỏi nhà hơn cả những ngày trời trong, khi vầng dương phủ tấm chăn vô hình vàng óng lên mặt biển và làng Kaperna. Longren tới cuối cầu tàu bằng gỗ dựng trên hai hàng cọc rất dài, miệng ngậm tẩu thuốc, im lặng hút thật lâu dưới trời lộng gió. Anh đăm chiêu nhìn đáy cát trơ ra gần bờ mỗi khi sóng rút, nhìn lớp bọt trắng xóa lật đật với theo nhưng không đuổi kịp những con sóng ào ào lan khắp vùng chân trời đen ngòm đầy bão tố, hệt như một bầy quái vật dữ tợn đang lồng lộn, điên cuồng tìm tới niềm an ủi xa xăm. Tiếng rền rĩ, ầm ào của đại dương, tiếng thét gầm của những cột nước lớn chồm lên rồi thụp xuống và những luồng gió ngỡ như hữu hình đang quật nát mọi thứ xung quanh - từng đợt, từng đợt đều đặn, dữ dằn - làm tâm hồn thống khổ của Longren dịu lại, làm nỗi day dứt vơi bớt phần nào, tựa như những gì một giấc ngủ sâu mang lại.

Một lần nọ, cũng vào một ngày như thế, Hin - đứa con trai mười hai tuổi của Menners - trông thấy con thuyền của bố bị sóng xô mạnh vào chân cầu tàu, sắp vỡ hai bên mạn, nên mới chạy về mách bố. Bão sắp nổi, nhưng Menners quên kéo thuyền lên bờ. Hắn lật đật chạy ra bờ biển và thấy Longren đang đứng hút thuốc ở cuối cầu tàu, lưng quay về phía hắn. Không còn ai trên bờ biển ngoài hai người bọn họ. Menners ra giữa cầu, trèo xuống dòng nước đang ùng ục cáu giận và tháo dây buộc thuyền; rồi hắn đứng trong lòng thuyền, tay bám vào từng cọc chân cầu, lấy đà đu thuyền về phía bờ. Hắn quên mang theo đôi mái chèo. Bỗng hắn mất đà, không kịp níu chiếc cọc tiếp theo. Đúng lúc đó, một cơn gió mạnh ào đến, xô thuyền xa khỏi cầu tàu, quay ra hướng biển. Lúc này, dẫu có căng người, rướn hết sức, Menners cũng không tài nào với được chiếc cọc gần nhất nữa. Gió và sóng hùa nhau lắc thuyền, chực kéo nó vào vùng nước mênh mông đầy chết chóc. Biết mình đang lâm nguy, Menners muốn nhảy xuống nước bơi vào bờ, nhưng hắn quyết định quá muộn, chiếc thuyền lúc bấy giờ đã bị cuốn ra tới gần cuối cầu tàu, nơi nước sâu và sóng dữ chắc chắn sẽ đoạt mạng hắn. Khoảng cách giữa Longren và Menners khi ấy chỉ quãng hai mươi mét. Longren vẫn có thể cứu được Menners vì cạnh chỗ anh đứng có một cuộn dây thừng to, đầu buộc một vật nặng. Người ta đặt cuộn dây ở đó để phòng khi sóng to gió lớn, thuyền khó cập bến, người trên bờ sẽ quẳng dây xuống thuyền.

“Longren!” Menners hãi hùng hét lớn. “Đừng đứng đực ra như thế! Không thấy tôi đang bị cuốn đi à? Mau ném cho tôi sợi dây!”

Longren chẳng nói chẳng rằng, điềm nhiên nhìn Menners hoảng loạn trong lòng thuyền. Chỉ có khói thuốc tỏa ra ngày một dày và nhiều hơn từ chiếc tẩu của anh. Rồi anh chầm chậm gỡ tẩu để nhìn điều đang xảy ra trước mắt mình được rõ hơn.

“Longren!” Menners khẩn khoản van nài. “Tôi biết anh nghe thấy tôi mà. Tôi chết chìm mất! Cứu tôi với!”

Nhưng Longren vẫn chẳng nói một lời. Dường như anh không nghe thấy tiếng gào tuyệt vọng của hắn. Thậm chí khi chiếc thuyền đã bị cuốn ra xa, tới nơi anh không còn nghe được tiếng Menners van vỉ nữa, anh cũng chẳng hề nhúc nhích.

Menners gào khóc trong kinh hoàng, năn nỉ người thủy thủ chạy về làng gọi dân chài ra giúp; hắn hứa sẽ biếu anh tiền, rồi cả đe dọa và nguyền rủa anh, nhưng Longren chỉ nhích thêm mấy bước, tiến sát tới mép cầu tàu để con thuyền đang bị sóng nhồi dữ dội không khuất khỏi tầm mắt quá sớm.

“Longren, cứu tôi với!” Tiếng kêu cứu vẳng tới tai anh, mơ hồ như khi người ngồi trong nhà nghe tiếng ai từ trên mái gọi vọng xuống.

Khi ấy, Longren mới hít một hơi thật sâu cho không khí tràn đầy trong phổi, để không một lời nào của anh bị gió cuốn bay, rồi anh quát lớn: “Vợ tao cũng từng van mày như thế đấy! Nhớ lại mà xem, Menners, chừng nào còn sống, mày chớ có quên!”

Rồi những tiếng gào im bặt, và Longren quay về nhà. Lúc Assol tỉnh dậy, cô bé thấy bố ngồi trầm ngâm bên ngọn đèn đang sắp tắt. Nghe tiếng Assol gọi, anh tới bên cạnh con, âu yếm hôn con và kéo chăn đắp lại cho con.

“Ngủ đi, con yêu. Còn lâu trời mới sáng.” Anh nói.

“Bố đang làm gì thế ạ?”

“Bố mới làm ra một món đồ chơi xấu. Thôi, ngủ đi con.” Ngày hôm sau, cả làng xôn xao chuyện Menners mất tích. Năm ngày sau, hắn được khiêng về làng, người ốm yếu tuồng như sắp chết và vẻ mặt đầy ác độc. Chuyện hắn kể nhanh chóng lan khắp làng trên xóm dưới. Menners lênh đênh trên biển đến tận tối; những con sóng dữ dội chỉ chực hất hắn xuống nước, không ngừng xô hắn vào hai bên mạn thuyền, mãi cho đến lúc hắn được con tàu Lucretia đang trên đường đi Kasset vớt lên. Bị nhiễm lạnh, lại trải qua cơn ác mộng kinh hoàng, Menners không sống nổi. Chưa đầy hai ngày sau, hắn từ giã cõi đời. Trước khi chết, hắn ra sức nguyền rủa Longren, cầu cho anh hứng chịu đủ loại tai ương mà con người có thể tưởng tượng ra. Chuyện Longren đứng yên nhìn Menners bị sóng cuốn vào chỗ chết mà không ra tay cứu giúp, được thêm mắm dặm muối qua hơi thở rền rĩ, nặng nề của gã chủ cửa hàng sắp chết, khiến cả làng Kaperna sửng sốt. Không một ai trong làng còn nhớ tới nỗi thống khổ còn sâu sắc hơn gấp bội đang đè nặng trên vai Longren, cũng chẳng ai thương tiếc Mary như Longren sẽ luôn thương tiếc cô cho đến cuối đời. Họ chỉ thấy ghê tởm, bối rối và sững sờ trước thái độ im lặng của Longren. Longren đã đứng im ở đó cho tới khi nói hết những lời cuối cùng với Menners; anh không nhúc nhích, lạnh lùng và trầm lặng như một người phán xử, biểu lộ nỗi khinh bỉ tột cùng với Menners. Có một điều gì đó còn nặng nề hơn nỗi hận thù chất chứa trong sự im lặng của anh, và tất thảy dân làng đều cảm nhận được nó. Nếu anh hét lên, nếu anh hả hê, khoa chân múa tay tỏ vẻ vui mừng khi thấy Menners rơi vào tuyệt vọng, hay thể hiện sự đắc thắng trước cơn bĩ cực của kẻ thù, dân làng sẽ hiểu được, nhưng anh lại hành xử khác với họ - anh cư xử một cách lạ lùng và đầy kinh ngạc, và như thế, anh đã tự đặt mình vào một vị trí cao hơn họ. Nói cách khác, anh đã trót làm một việc không thể tha thứ được. Từ dạo đó, chẳng một ai chào anh lúc gặp trên đường, không ai chìa tay ra bắt, hay nhìn anh bằng ánh mắt thân thiện nữa. Anh dửng dưng, lãnh đạm trước mọi việc trong làng. Đám trẻ nhỏ mỗi khi thấy anh lại hò nhau hô lên: “Longren dìm chết Menners!” Anh chẳng buồn để ý. Và anh cũng chẳng nhận ra mỗi lần anh vào quán rượu hay ra bờ biển, dân chài ở đó liền ngừng nói chuyện và tránh xa anh như tránh hủi. Chuyện xảy đến với Menners khiến mối bất hòa giữa anh và đám dân chài trước đây chỉ mới manh nha giờ đã trở nên sâu sắc. Hai bên đều căm ghét nhau và điều đó đã trùm bóng tối lên cuộc đời Assol.

Cô bé lớn lên mà không có bạn. Trong làng, chỉ có đôi, ba chục trẻ em trạc tuổi Assol. Hệt như những miếng bọt biển bị ngâm trong nước, chúng dễ dàng và nhanh chóng uống no những định kiến thô bạo từ gia đình mình mà cơ sở của nó chính là uy quyền tuyệt đối của cha mẹ. Và giống như mọi đứa trẻ khác trên thế giới, chúng tẩy chay Assol, gạt em khỏi mọi hoạt động của chúng. Điều đó xảy đến từ từ và tự nhiên, sau những lời đe nẹt và quở mắng của người lớn. Họ cấm đoán con cái chơi với Assol, nhồi vào đầu óc lũ trẻ những niềm tin vô căn cứ dựa trên lời đồn họ tự đơm đặt, để rồi cuối cùng, bọn trẻ sợ hãi gia đình người thủy thủ.

Thêm vào đó, lối sống xa cách của Longren càng khiến những kẻ ngồi lê đôi mách dễ bề dựng chuyện. Họ rỉ tai nhau Longren đã từng giết người ở đâu đó nên mới chẳng có tàu nào cho đi biển nữa, và sở dĩ bây giờ, lúc nào anh cũng rầu rĩ, xa lánh mọi người là vì “bị lương tâm cắn rứt”. Những khi lũ trẻ trong làng tụ tập chơi đùa, cứ thấy Assol tới gần, chúng lại hùa nhau xua đuổi cô bé. Chúng ném bùn vào em, trêu chọc em rằng bố em từng ăn thịt người và giờ đang làm bạc giả. Cứ mỗi lần cô bé ngây thơ cố gắng làm thân với chúng, em lại bị đám trẻ đánh cho thâm tím, trầy xước khắp mình, và phải chịu nhiều giày vò khác của dư luận. Cuối cùng, cô bé không còn cảm thấy tủi hờn nữa, nhưng thỉnh thoảng, em vẫn hỏi bố: “Bố ơi, sao người ta không ưa bố con mình thế ạ?”

“À, họ không biết thế nào là yêu thương, Assol ạ. Con người cần phải biết yêu thương, nhưng điều ấy họ lại không làm được.”

“Thế nào là cần phải biết yêu thương ạ?”

“Là thế này này!”

Vừa nói, anh vừa bế bổng cô bé lên, trìu mến hôn lên đôi mắt đượm buồn của con, khi ấy đang nhắm tịt lại vì được âu yếm.

Assol thích nhất là được trèo lên lòng bố vào buổi tối và những ngày nghỉ, khi anh đã xếp đồ nghề và những món đồ đang làm dở sang một bên, tháo tạp dề, ngồi xuống và ngậm tẩu thuốc trên môi. Trong vòng tay che chở, nâng niu của bố, Assol vừa mân mê từng món đồ chơi, vừa hỏi anh công dụng của chúng. Và thế là, Longren lại có dịp kể cho con những câu chuyện lạ thường về cuộc đời và con người. Do trước đây, Longren sống đời đầu sóng ngọn gió, mỗi sự kiện kỳ thú, lạ lùng và đáng kinh ngạc mà anh kể đều có những ý nghĩa lớn lao. Anh cho con biết tên những loại dây nhợ dùng khi đi biển, những loại buồm và các vật dụng trên tàu, rồi dần dần, từ giảng giải đơn thuần, anh bị cuốn theo dòng ký ức về với những tình huống mà trong đó từng ụ tời, bánh lái, cột buồm, hay loại thuyền đều đóng vai trò quan trọng riêng, và từ những minh họa riêng biệt ấy, anh lại vẽ tiếp bức tranh về một đại hải trình kỳ thú, quyện giữa mê tín và chuyện thật, giữa thực tế với những chuyện hư cấu do anh tưởng tượng ra. Trong bức tranh đó, có con cá hổ cảnh báo tàu đắm, con cá chuồn biết nói mà nếu không tuân lệnh nó, ta sẽ bị lạc đường, rồi con tàu Người Hà Lan Bay[1] cùng thủy thủ đoàn cuồng dại, những điềm báo, những hồn ma, những nàng tiên cá và lũ cướp biển - nói cách khác, tất cả những truyền thuyết hoang đường cánh thủy thủ vẫn kể cho nhau nghe trên tàu những khi gió lặng hay trong quán rượu. Longren còn kể về những thủy thủ bị đắm tàu, những người bị lạc nơi hoang đảo, trở nên man rợ và quên cả cách nói năng, về những kho báu bí mật được chôn giấu, về những lần tù binh nổi dậy và nhiều chuyện khác nữa. Assol lắng nghe những câu chuyện ấy có khi còn chăm chú hơn kẻ lần đầu được nghe Columbus kể chuyện tìm ra châu Mỹ nữa. “Bố kể nữa đi.” Assol năn nỉ những khi Longren bỗng lặng im, tư lự chìm vào suy nghĩ, và em sẽ gục đầu vào ngực bố, ngủ thiếp đi cùng những giấc mơ kỳ lạ.

[1] . The Flying Dutchman: con tàu ma bí ẩn mang lại tai họa trong truyền thuyết hàng hải, bắt nguồn từ năm 1641, khi một con tàu Hà Lan bị đắm một cách bí ẩn ở gần mũi Hảo Vọng. Đây được coi là con tàu ma nổi tiếng nhất mọi thời đại và là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm văn học và điện ảnh.

Assol cũng rất vui mỗi khi người buôn đồ chơi trên thị trấn xuống mua hàng. Ông ta sẵn sàng mua mọi thứ Longren làm ra, và để lấy lòng Longren cũng như mua được hàng với giá mềm hơn, người lái buôn hay mang theo quà cho Assol, khi thì mấy quả táo, khi thì cái bánh ngọt hay nắm hạt dẻ. Longren thường nói đúng giá, vì anh ghét mặc cả nhì nhằng, nhưng người lái buôn lúc nào cũng kỳ kèo bớt một thêm hai. “Sao cơ?” Longren nói. “Tôi phải mất cả tuần mới làm được chiếc thuyền ấy đấy. (Chiếc thuyền dài những mười ba phân.) Nhìn mà xem, chắc chắn, gọn ghẽ thế này cơ mà. Còn có cả vạch mớn nước. Thuyền này chở mười lăm người đi bão cũng được nữa là.” Nhưng cuối cùng, nghe tiếng con rầm rì với quả táo, Longren lại mềm lòng, không còn muốn lằng nhằng với người lái buôn nữa. Người lái buôn hí hửng cho những món đồ chơi tinh xảo, tuyệt đẹp vào giỏ và hoan hỉ ra về.

Longren tự mình làm hết mọi việc trong nhà: anh chẻ củi, gánh nước, nhóm lò, nấu nướng, giặt giũ, là quần áo, và vẫn có đủ thời gian kiếm tiền. Khi Assol lên tám, anh dạy con đọc và viết chữ. Thỉnh thoảng, anh đưa con lên thị trấn, có lúc anh còn cho Assol đi một mình nếu cần vay tạm ít tiền ở cửa hiệu, hay để giao đồ chơi mới. Chuyện này cũng ít khi xảy ra, vì dù Liss chỉ cách làng Kaperna bốn dặm, nhưng con đường lại xuyên qua một cánh rừng, mà khu rừng thì bao giờ cũng ẩn giấu nhiều điều đáng sợ với trẻ nhỏ, bên cạnh những mối nguy hiểm thực sự, tuy hiếm khi xảy ra ở gần thị trấn, nhưng cũng không thể không tính đến. Vì thế, Longren chỉ để cô bé lên phố một mình vào những buổi sáng đẹp trời, khi cánh rừng ven đường ngập tràn ánh nắng và nở rộ những hoa, để Assol bé nhỏ không còn nghĩ tới những con ma trong tưởng tượng của mình.

Vào một ngày nọ, khi đi được nửa đường, cô bé ngồi xuống bên vệ đường, lấy bánh ngọt ra ăn lót dạ. Vừa gặm chiếc bánh, em vừa lấy đồ chơi trong giỏ ra ngắm nghía. Em thấy có đôi ba món đồ chơi lạ: những món này Longren đã làm trong đêm. Trong số đó có một con thuyền nhỏ sơn màu trắng, cánh buồm màu đỏ thắm. Những cánh buồm được làm từ vụn vải lụa Longren vẫn dùng để lót thành buồng tàu cho những món đồ chơi mà khách giàu có ưa chuộng. Khi làm xong con thuyền nhỏ này, anh không tìm đâu được loại vải thích hợp để làm buồm nên dùng luôn những mảnh lụa đỏ thắm kia cho tiện. Assol thích lắm. Màu lụa thắm tươi rực đỏ, làm em ngỡ như mình đang nâng niu ngọn lửa trong tay. Trên đường lên thị trấn, Assol phải đi qua một cây cầu nhỏ ghép từ những thân gỗ thô; một dòng suối nhỏ len lỏi dưới chân cầu, chạy vào rừng.

“Hay mình thả thuyền xuống nước một chút xem sao.” Assol nghĩ thầm. “Chắc cũng không ướt lắm đâu, mình sẽ lau khô được.” Nghĩ là làm, Assol sang bên kia cầu rồi men theo dòng suối, rẽ vào rừng một đoạn, nhẹ nhàng đặt con thuyền xuống mặt nước sát bờ. Những cánh buồm thắm đỏ soi mình xuống làn nước trong văn vắt, tia nắng mặt trời xuyên qua lớp lụa, hắt ánh hồng lung linh lên những hòn sỏi trắng muốt dưới đáy suối. “Ngài từ đâu đến vậy, thưa Thuyền trưởng?” Assol nghiêm trang hỏi một vị thuyền trưởng trong tưởng tượng, và rồi em cũng tự trả lời. “Tôi đến từ... từ… từ Trung Hoa.”

“Tàu của ngài chở gì thế?”

“Tôi không kể được đâu.”

“Ồ, ngài không chịu nói à, Thuyền trưởng? Chà, vậy thì ngài phải quay trở lại trong giỏ thôi.” Ngay lúc vị thuyền trưởng hối hận định đáp rằng mình chỉ đùa thôi, và sẵn lòng cho em xem một con voi, thì bất ngờ, dòng nước êm ả vỗ bờ xoay mũi thuyền ra giữa dòng, và như một con thuyền thực sự, món đồ chơi vun vút lao theo dòng nước. Khung cảnh trước mắt cô bé lập tức thay đổi: dòng suối nhỏ bây giờ bỗng giống như một con sông lớn, và món đồ chơi hóa thành chiếc thuyền đã ra khơi. Hoảng hốt, cô bé với cả hai tay ra để chộp lại con thuyền nhưng không kịp, lại suýt ngã nhào xuống suối. “Thuyền trưởng chắc sẽ sợ lắm đây!” Cô bé đuổi theo món đồ chơi, những mong nó sẽ mắc lại đâu đó ven bờ. Vừa chạy, vừa vác theo chiếc giỏ tuy không nặng nhưng cồng kềnh, Assol luôn miệng kêu: “Chúa ơi! Sao lại thế chứ? Mình thật không may…” Mải nhìn theo để không mất dấu những ngọn buồm tam giác đẹp đẽ đang kiêu hãnh lướt trên dòng nước, cô bé sảy chân ngã, rồi lại đứng dậy chạy tiếp.

Chưa bao giờ Assol đi sâu vào rừng đến thế. Nóng lòng muốn lấy lại con thuyền, em chẳng còn tâm trí nào để ý đến xung quanh nữa. Dọc bờ suối nơi cô bé chạy có đủ những chướng ngại mà đúng ra, em phải để mắt tới. Những thân cây đổ bám đầy rêu, những cái hố, những cây dương xỉ cao um tùm, những bụi tầm xuân, bụi nhài, bụi phỉ mọc sum sê làm vướng chân em. Cô bé dần thấm mệt, phải dừng lại nhiều hơn để nghỉ hoặc để gạt mạng nhện vướng trên mặt. Khi đến một khoảng rộng, ven bờ mọc đầy lau sậy, Assol không còn thấy màu đỏ thắm của những cánh buồm đâu nữa. Nhưng qua một khúc quanh, em lại thấy những cánh buồm xinh xắn vun vút lao đi trong gió. Khi em ngoái lại nhìn xung quanh, một khoảng rừng rậm rì với nhiều gam màu, từ những cột sáng lờ mờ xuyên qua vòm lá đến những khoảng xanh sẫm âm u, Assol thấy sửng sốt. Có lúc, cô bé thoáng hoảng sợ, nhưng khi nhớ tới con thuyền đồ chơi, em lại thở ra mấy hơi nặng nhọc và cố hết sức chạy tiếp.

Sau gần một giờ đồng hồ rượt đuổi trong vô vọng và âu lo, Assol ngạc nhiên và nhẹ lòng hơn hẳn khi thấy phía trước cây cối rẽ ra, để lộ mặt biển xanh biêng biếc, những đám mây trắng bồng bềnh và bờ cát vàng óng. Em hối hả chạy ra đó, suýt ngã nhào vì mệt. Đây là cửa sông, nước tỏa ra không rộng, và nông, có thể nhìn rõ những hòn đá xanh rì dưới đáy. Ra tới đây, dòng suối hòa cùng những con sóng từ biển ùa vào. Trên bờ cát thoai thoải, nhấp nhô những rễ cây, Assol thấy một người ngồi trên tảng đá lớn, bằng phẳng cạnh bờ suối, lưng quay về phía em. Tay người ấy cầm con thuyền nhỏ bị dòng nước đưa tới đây, ngắm nghía nó với vẻ tò mò của một chú voi vừa bắt được con bươm bướm. Nhìn thấy chiếc thuyền vẫn còn nguyên vẹn, Assol thấy yên lòng hơn một chút. Em men theo bờ cát, lại gần phía người đàn ông lạ. Em chăm chú quan sát, chờ ông ta ngẩng đầu lên. Nhưng người lạ cứ say sưa ngắm nghía món đồ được khu rừng bất ngờ đưa đến, nên cô bé có dịp quan sát kĩ ông ta từ đầu đến chân, và nhận ra từ bé đến giờ, mình chưa từng gặp người nào như vậy.

Người lạ đó thật ra là già Egle nổi tiếng, người đã đi khắp thế gian để sưu tầm những khúc ca, truyền thuyết và các câu chuyện thần tiên. Mấy lọn tóc muối tiêu chờm ra ngoài chiếc mũ rơm, chiếc áo sơ mi xám đóng bộ gọn ghẽ trong chiếc quần xanh và đôi ủng cao khiến ông trông giống một bác thợ săn; nhưng cái cổ áo màu trắng, chiếc cà vạt, thắt lưng có tán đinh bạc, cây gậy ba-toong và chiếc túi da gắn khóa mạ kền sáng loáng lại cho thấy ông vốn là người thành thị. Gương mặt ông - nếu ta có thể gọi chóp mũi, đôi môi và cặp mắt lộ ra sau lớp râu tóc um tùm và bộ ria rậm vểnh lên là “gương mặt” - sẽ thật nhạt nhòa nếu không có cặp mắt màu xám như cát, sáng lên như thép nguyên chất, với ánh nhìn táo bạo và mạnh mẽ.

“Ông cho cháu xin lại nhé?” Cô bé rụt rè hỏi. “Ông chơi cũng được một lúc lâu rồi. Làm thế nào ông vớt được nó lên thế ạ?”

Già Egle ngẩng lên nhìn, đánh rơi chiếc thuyền xuống cát. Giọng nói nhỏ nhưng xúc động của Assol khiến không gian tĩnh lặng xung quanh ông bất ngờ bị xáo trộn. Ông nhìn cô bé một lúc, mỉm cười và chầm chậm đưa bàn tay to, gân guốc lên vuốt râu. Chiếc váy của cô bé làm bằng sợi vải bông đã bạc màu dài chưa quá đầu gối, để lộ đôi chân gầy guộc, rám nắng. Mái tóc đen dày cột bằng khăn ren đã xổ ra, xõa xuống vai. Mọi đường nét trên gương mặt Assol đều thanh thoát và mềm mại như đường én lượn mùa xuân. Đôi mắt sẫm màu của em đượm chút u buồn, khiến em trông già dặn hơn tuổi. Khuôn mặt trái xoan hơi rám nắng trông thật khỏe khoắn và đáng yêu. Đôi môi xinh xắn hé một nụ cười duyên dáng.

“Ta thề trước anh em nhà Grimm, Aesop và Andersen!” Già Egle thốt lên, hết nhìn cô bé lại nhìn con thuyền. “Đây quả là một điều vô cùng đặc biệt! Nghe này bông hoa nhỏ, con thuyền này là của cháu phải không?”

“Vâng ạ. Cháu đuổi theo nó dọc bờ suối từ nãy đến giờ, mệt muốn đứt hơi. Nó mắc lại đây phải không ạ?”

“Ngay dưới chân ta! Vậy là bỗng nhiên ta được đóng vai tên cướp biển xa bờ, tặng lại cho cháu món quà này. Sau khi bị thủy thủ đoàn bỏ mặc, chiếc thuyền đã bị con sóng cao tám phân ném lên bờ cát, nó mắc lại ngay giữa gót chân ta và đầu cây gậy này.” Nói đoạn, ông cầm chiếc gậy gõ gõ xuống đất. “Cháu tên là gì hả cô bé?” “Assol ạ.” Em đáp và thả món đồ chơi lại vào giỏ.

“Được rồi!” Già Egle tiếp tục nói những lời khó hiểu, ánh mắt vẫn không rời khỏi Assol. Ẩn sau ánh nhìn của ông là nụ cười thân thương, trìu mến. “Thật ra, ta chẳng cần phải hỏi tên cháu. Ta lấy làm mừng vì tên của cháu nghe là lạ, có nhạc điệu, như tiếng mũi tên xé gió bay vút đi, hay tiếng đại dương thì thầm, ngân nga trong vỏ ốc. Nếu tên cháu nghe thuận tai nhưng lại quá đỗi bình thường và xa rời Điều Bí Ẩn Đẹp Đẽ, thì ta biết phải làm gì với nó? Ta cũng không muốn biết cháu là ai, bố mẹ cháu là ai, hay cháu sống thế nào. Sao cứ phải phá hỏng điều nhiệm mầu đang xảy ra ngay lúc này? Ta đang ngồi trên tảng đá này, so sánh cốt truyện cổ tích của Phần Lan và Nhật Bản… thì bất ngờ, dòng nước mang con thuyền này tới, và rồi cháu xuất hiện. Đơn giản chỉ như vậy thôi!

Về bản chất, ta là một thi sĩ, dù chưa bao giờ viết nên những vần thơ, cô bé ạ. Trong giỏ của cháu có gì thế?”

“Mấy chiếc thuyền ạ.” Assol vừa đáp vừa lắc lắc chiếc giỏ. “Và một con tàu hơi nước, cùng ba ngôi nhà nhỏ có cắm cờ nữa ạ. Các chú lính sống trong những ngôi nhà ấy.”

“Tuyệt lắm! Vậy là cháu mang những thứ này đi bán. Và trên đường đi, cháu ngừng lại, lấy thuyền ra chơi. Cháu thả thuyền buồm này xuống suối, nhưng nó lại bị nước cuốn đi xa. Ta nói đúng chứ?”

“Ông đã nhìn thấy cháu ạ?” Assol ngờ vực hỏi, cố nhớ lại xem mình đã kể chuyện ấy ra chưa. “Có ai kể với ông ạ? Hay ông chỉ đoán thôi?”

“Ta biết rõ mà.”

“Sao ông biết được ạ?”

“Vì ta là pháp sư vĩ đại nhất trên đời.”

Assol thấy bối rối. Những lời lẽ khó hiểu của già Egle khiến em bất ngờ nhiều hơn là sợ hãi. Bãi biển hoang vắng, tĩnh lặng, những mệt mỏi sau khi vất vả đi tìm chiếc thuyền, câu chuyện kỳ lạ của ông già với đôi mắt sáng, bộ râu và mái tóc đầy vẻ nghiêm nghị khiến cảm giác hư hư thực thực dần vây lấy cô bé. Nếu già Egle nhăn mặt một cái hay nói to một tiếng, cô bé sẽ òa lên khóc, co giò bỏ chạy, rồi khuỵu xuống, ngất đi vì sợ hãi.

Nhưng khi thấy mắt em mở to ra chiều hốt hoảng, già Egle liền đổi giọng.

“Cháu không cần phải sợ ta đâu.” Ông nghiêm trang nói. “Trái lại, ta còn muốn trò chuyện thân tình với cháu nữa kia.”

Khi ấy, ông mới nhận ra điểm gì trên gương mặt cô bé đã gây ấn tượng sâu sắc đến vậy cho mình. “Chính là nỗi mong chờ rất tự nhiên trước một điều tốt đẹp, một số phận đầy ơn phước. Chao ôi, sao mình không phải là nhà văn nhỉ? Đây đúng là một chủ đề hết sức tuyệt vời!”

“Này Assol!” Già Egle vừa nói tiếp vừa cố gắng hoàn thiện câu chuyện của mình (thiên hướng muốn thêu dệt nên huyền thoại - kết quả của công việc ông vẫn làm hàng ngày - lớn hơn hẳn nỗi sợ gieo những hạt mộng mơ to lớn xuống một miền đất mình còn chưa biết rõ). “Cháu nghe cho kĩ nhé. Ta vừa ghé vào ngôi làng nơi cháu vừa đi khỏi, tức là làng Kaperna ấy. Ta rất thích những bài ca và những câu chuyện cổ tích. Ta ngồi cả ngày trong làng, những mong được nghe điều chưa ai từng nghe trước đó. Nhưng chẳng có ai trong làng kể chuyện cổ tích, cũng chẳng có ai cất cao giọng hát. Nếu họ có kể chuyện hay ca hát, thì cháu biết không, cũng toàn những chuyện về gã nông dân khôn vặt và anh lính ranh ma, cùng những lời tán tụng thói bịp bợm, láu cá. Những bài vè bốn câu cụt lủn, âm điệu khô khan, bẩn thỉu như bàn chân chưa rửa và thô thiển như cái bụng đang òng ọc sôi. Ôi, ta lạc đề mất rồi. Để ta kể lại từ đầu nhé.”

Ông lặng im một lúc rồi tiếp tục:

“Ta không biết phải mất bao nhiêu năm nữa, nhưng thể nào một câu chuyện thần tiên cũng xảy ra ở làng Kaperna, và đời sau sẽ còn nhớ mãi. Rồi cháu sẽ lớn lên, Assol ạ. Vào một buổi sáng nọ, một cánh buồm đỏ thắm rực rỡ sẽ hiện ra nơi chân trời xa tít ngoài khơi. Con tàu trắng muốt với những cánh buồm đỏ thắm lấp lánh ánh nắng sẽ rẽ sóng tới thẳng chỗ cháu. Con tàu tuyệt diệu ấy nhẹ nhàng lướt đến; không có tiếng hò reo hay đại bác nổ váng trời. Tất cả mọi người sẽ túm tụm trên bãi biển, ai nấy trầm trồ, sửng sốt; và cháu cũng sẽ ở đấy. Con tàu oai nghiêm dần dần tiến lại gần bờ, trong tiếng nhạc du dương. Một chiếc xuồng nhỏ được hạ xuống, bơi vào bờ. Xuồng được trải thảm êm mềm, chở đầy hoa và lấp lánh ánh vàng. “Sao anh lại đến đây? Anh muốn tìm ai thế?” Đám người trên bãi biển tò mò hỏi. Rồi một hoàng tử dũng cảm, khôi ngô đứng trên thuyền sẽ dang hai tay về phía cháu. “Chào em, Assol!” Chàng trai tuấn tú nói. “Từ một nơi rất xa, ta đã nhìn thấy em trong mơ và ta đến để đưa em tới vương quốc của ta, ngự trị ở đó mãi mãi. Em sẽ sống cùng ta trong một thung lũng hoa hồng. Em sẽ có mọi điều em mơ ước. Đôi ta sẽ trọn đời hạnh phúc bên nhau; tâm hồn em sẽ không bao giờ biết đến muộn sầu và nước mắt.” Chàng sẽ đỡ cháu xuống xuồng, đưa cháu lên tàu và hai cháu sẽ đi về phía xứ sở huy hoàng nơi mặt trời thức dậy, nơi những vì sao trên trời sa xuống để đón mừng cháu.”

“Tất cả những điều ấy sẽ xảy đến với cháu ư?” Cô bé khẽ khàng hỏi.

Đôi mắt u sầu của cô bé bỗng rạng rỡ niềm vui và sáng lên vẻ tin cậy. Rõ ràng, không đời nào một pháp sư ác độc lại kể những điều đẹp đẽ như thế. Em tiến lại gần hơn.

“Có khi nào con tàu ấy đã đến rồi không ạ?”

“Không nhanh đến thế đâu.” Già Egle đáp. “Trước hết, cháu phải lớn lên đã chứ. Mà ta không kể nữa đâu. Nhưng con tàu ấy nhất định sẽ đến. Khi ấy, cháu sẽ làm gì?”

“Cháu ư?” Cô bé nhìn vào trong giỏ đồ, nhưng rõ ràng chẳng tìm thấy câu trả lời thích hợp trong đó. “Cháu sẽ yêu chàng.” Em vội vàng đáp, rồi ngập ngừng nói tiếp. “Nếu chàng không đánh nhau.”

“Ồ không, không đâu.” Vị pháp sư nháy mắt với em đầy bí hiểm. “Chàng không đánh nhau đâu, ta hứa là như vậy. Thôi, cháu đi đi, và chớ quên những lời ta đã kể cho cháu nghe giữa hai ngụm vodka thơm lừng và đôi lời tư lự về những người tù khổ sai. Cháu đi nhé. Và cầu cho áng tóc mây kia được an lành!”

Longren đang vun đất ở mấy luống khoai tây trong mảnh vườn nhỏ của mình. Ngẩng đầu lên, anh thấy Assol đang chạy như bay về phía mình, gương mặt hân hoan và đầy háo hức.

“Bố ơi…” Em đưa hai tay níu lấy tạp dề của Longren, hổn hển nói vì hơi thở còn dồn dập. “Bố ơi, con kể bố nghe… Ở bãi biển xa tít đằng kia, con gặp một vị pháp sư…”

Cô kể cho bố nghe về vị pháp sư và lời tiên đoán diệu kỳ của ông. Vì quá phấn khích, em kể không được rành mạch, đúng thứ tự từng sự kiện. Em tả vị pháp sư rồi mới kể lại chuyện mình đã chạy theo con thuyền ven bờ suối như thế nào.

Longren chăm chú lắng nghe câu chuyện con gái kể, anh không ngắt lời mà cũng chẳng mỉm cười, và khi em dứt lời, anh nhanh chóng hình dung ra ông già xa lạ, một tay cầm hũ rượu vodka, một tay cầm con thuyền nhỏ. Anh toan quay đi, nhưng sực nhớ ra, có những giây phút quan trọng trong cuộc đời trẻ thơ, ta phải tỏ ra nghiêm túc và ngạc nhiên, nên anh gật đầu và trang trọng nói: “Đúng rồi… có vẻ ông ấy đúng là một vị pháp sư đại tài thật. Bố cũng muốn gặp ông ấy lắm… Nhưng lần sau lên thị trấn, con đừng rẽ vào rừng nữa nhé. Dễ bị lạc lắm đấy.”

Anh đặt cuốc sang một bên, ngồi xuống cạnh bờ giậu thấp đan bằng cành khô và bế con vào lòng. Cô bé đã mệt lắm nhưng vẫn cố kể thêm vài chi tiết nữa. Nhưng vừa nóng, vừa phấn khích, lại mệt nhoài sau chuyến phiêu lưu, chẳng mấy chốc, em đã thiếp đi. Mắt em díu lại, đầu gục vào bờ vai vững chãi của bố và chuẩn bị chìm vào cõi mộng. Đột nhiên, bị một nỗi hoài nghi bất chợt làm thức giấc, Assol ngồi thẳng dậy. Mắt vẫn nhắm nghiền, em nắm lấy vạt áo gile của bố và thốt lên: “Bố ơi, có thật là con tàu kỳ diệu sẽ đến đón con không ạ?”

“Nó sẽ đến, con ạ.” Chàng thủy thủ điềm tĩnh đáp. “Nếu ông cụ đã bảo với con như vậy, thì đúng là mọi chuyện sẽ xảy ra như thế.”

“Khi lớn lên, con bé sẽ quên thôi.” Longren tự nhủ. “Còn lúc này… không nên tước khỏi tay con món đồ chơi đẹp đẽ như vậy. Sau này, con bé sẽ nhìn thấy rất nhiều cánh buồm, nhưng chúng không có màu đỏ thắm mà vô cùng bẩn thỉu và xấu xa. Nhìn từ xa, chúng trắng muốt và lung linh, nhưng khi tới gần, chúng rách rưới và lì lợm. Người lữ hành kia đã đùa bỡn với con gái tôi!

Nhưng thế thì sao? Ấy cũng chỉ là một câu chuyện vui vẻ. Không sao hết! Ôi, con tôi đã mệt lắm rồi - cả nửa ngày trời lang thang trong rừng kia mà. Còn về cánh buồm đỏ thắm ư? Con cứ nghĩ như bố: rồi con sẽ có những cánh buồm đỏ thắm của mình.”

Assol đã chìm vào giấc ngủ. Longren lấy tẩu ra hút thuốc. Gió đưa khói thuốc len lỏi qua bờ giậu, tới một bụi cây dại bên ngoài mảnh vườn. Ngồi gần bụi cây, lưng quay về phía bờ giậu là một gã ăn mày trẻ tuổi đang nhấm nháp mẩu bánh nướng. Câu chuyện giữa hai bố con khiến gã thấy vui tai, còn mùi thuốc lá thơm làm gã thèm thuồng.

“Thưa ông, xin hãy cho kẻ nghèo này một hơi thuốc.” Gã nói với vào phía trong bờ giậu. “So với thuốc của ông, thuốc của tôi thật chẳng khác nào cỏ độc.”

“Tôi rất sẵn lòng cho anh một ít.” Longren hạ giọng nói. “Nhưng tôi để thuốc ở túi áo bên kia, mà anh thấy đấy, tôi không muốn làm con gái tôi thức giấc.”

“Ôi dào! Có gì to tát đâu? Nó thức rồi ngủ lại ngay ấy mà, còn người qua đường này sẽ có tí thuốc mà hút.”

“Có phải anh hết sạch thuốc rồi đâu.” Longren vặn lại. “Con bé thì đã mệt lắm rồi. Nếu anh muốn thì tí nữa quay lại nhé.”

Gã ăn mày nhổ toẹt một bãi nước bọt, ra chiều khinh khỉnh, đoạn quẩy cái bị của mình lên rồi lè nhè chế nhạo: “Úi chà, con nhóc là công chúa kia đấy! Ông nhồi vào đầu nó đủ loại tàu bè vớ vẩn! Đúng là đồ gàn dở! Gớm, ông cũng giàu lắm đấy!”

“Nghe này.” Longren khẽ nói. “Chắc tao sẽ đánh thức con bé dậy đấy, nhưng là để tẩn cho mày một trận. Cút ngay!”

Nửa giờ sau, gã ăn mày đã túm năm tụm ba với chục ngư dân trong quán rượu. Ngồi đằng sau họ là mấy phụ nữ to lớn đẫy đà, lông mày rậm rạp, bắp tay to như đá lát đường. Người thì kéo tay áo chồng, người thì với tay qua vai chồng để lấy rượu uống. Gã ăn mày cáu kỉnh kể lại: “Hắn không cho tôi lấy một điếu thuốc, các bác ạ. Hắn nói thế này chứ: “Khi nào con lớn lên, một con tàu buồm đỏ đặc biệt sẽ tới tìm con. Số con là được cưới hoàng tử.” Hắn nói: “Con cứ tin lời pháp sư ấy đi.” Và khi tôi bảo hắn đánh thức con bé dậy để còn lấy thuốc lá cho tôi, hắn đuổi đánh tôi ra tận giữa đường đấy!”

“Gì thế? Ai cơ? Chuyện gì đấy?” Đám phụ nữ tò mò, nhao nhao hỏi.

Đám đàn ông khẽ ngoái đầu về sau, thuật lại câu chuyện và nhếch mép cười khẩy: “Hai bố con nhà Longren phát rồ rồi, có khi đầu óc của họ đều hỏng hết cả. Anh này kể rằng có một pháp sư đến gặp họ. Và bây giờ hai bố con nhà đấy đang chờ một hoàng tử từ phương xa tới - các bà chớ bỏ lỡ cơ hội nhé! Hoàng tử ấy còn lái một con tàu gắn buồm đỏ thắm đến đây đấy!”

Ba hôm sau, lúc Assol từ trên thị trấn trở về làng, lần đầu tiên cô bé nghe thấy lời chế giễu: “Này, Assol, con hâm kia! Nhìn kìa! Thuyền buồm đỏ thắm tới rồi đấy!”

Cô bé giật mình và bất giác đưa tay lên trán che nắng, dõi mắt nhìn ra biển. Rồi em ngoái lại chỗ lời châm chọc vang lên, cách chỗ em đứng mấy thước là một tốp trẻ con, chúng đang nhăn mặt và thè lưỡi chế nhạo em. Cô bé thở dài và vội trở gót về nhà.