N
ếu Caesar[2] cho rằng thà đứng đầu một ngôi làng còn hơn đứng thứ hai ở Rome, Arthur Gray không có gì phải ghen tị với mong muốn thông thái ấy của Caesar cả. Cậu sinh ra để làm thuyền trưởng, cậu khao khát trở thành thuyền trưởng và đã trở thành một thuyền trưởng.
[2] . Gaius Julius Caesar (100 - 44 TCN): lãnh tụ quân sự và chính trị xuất sắc của La Mã cổ đại.
Dinh thự nguy nga nơi Gray sinh ra tuy lộng lẫy bên ngoài nhưng bên trong thật ảm đạm. Đằng trước dinh thự là một vườn hoa và một bãi cỏ rộng. Những bông uất kim hương đẹp nhất - nào tím mộng mơ, nào xanh biêng biếc, nào đen tuyền như bóng đêm, lại điểm xuyết thêm những bông màu hồng phấn đáng yêu - được trồng thành từng dải, uốn lượn quanh vườn nom như những chuỗi hạt cườm trên thảm cỏ xanh. Những cây cổ thụ trong vườn cúi sát đầu xuống dòng nước quanh co, xung quanh mọc đầy cỏ lác. Hàng rào bao quanh lâu đài - dinh thự này thực sự là một lâu đài - được dựng từ những cột gang xoắn ốc nối với nhau bằng hàng rào sắt uốn hoa văn. Mỗi đỉnh cột lại có chóp trụ xòe ra như hoa huệ cũng bằng gang nốt. Cứ mỗi dịp lễ đến, người ta lại đổ dầu vào đấy và đốt, những ngọn lửa bùng lên, giăng thành hàng sáng bừng trong đêm tối.
Cha mẹ Gray là những người cao ngạo. Họ làm nô lệ cho địa vị, tiền tài và luật lệ của cái xã hội đã sinh ra mình. Một phần tâm hồn họ bám vào những bức chân dung của tổ tiên - những vị thực ra cũng chẳng đáng được vẽ lại làm gì. Phần hồn còn lại, với ước vọng được tiếp nối dãy chân dung trên tường ấy, họ dồn cả vào việc lập ra kế hoạch nhào nặn Gray thành một người có thể tiếp bước cha ông, để chân dung của cậu cũng được treo lên tường và thanh danh gia tộc không bị sứt mẻ miếng nào. Có điều, kế hoạch ấy có chút sơ suất nho nhỏ: Arthur Gray được sinh ra với một tâm hồn sôi nổi, và cậu không hứng thú gì với việc kế tục truyền thống gia đình.
Tâm hồn nồng nhiệt, cá tính khác biệt của cậu bé đã bộc lộ rõ năm cậu lên tám. Khi ấy, tính cách của típ hiệp sĩ thích gây những ấn tượng lạ thường, kẻ kiếm tìm và tạo dựng điều thần kỳ, người sẵn sàng nhận lấy vai trò nguy hiểm và lay động lòng người nhất - vai trò của Đấng Cứu Thế - đã thể hiện rõ nét nơi Gray. Lần đó, cậu đã kê ghế sát tường, nơi họ treo bức họa Chúa Jesus bị đóng đinh trên cây thánh giá. Cậu tính “nhổ” hết đinh trên đôi bàn tay rỉ máu của Người bằng cách lấy sơn xanh (mà cậu lấy trộm ở chỗ bác thợ sơn) bôi đè lên những chiếc đinh. Khi đã “nhổ” đinh đi như vậy, cậu thấy bức họa nhìn dễ chịu hơn hẳn. Say sưa với sứ mệnh đặc biệt ấy, khi đang bận bôi sơn nốt lên chân Chúa, cậu bị bố nhìn thấy. Ông kéo tai Gray, lôi cậu xuống khỏi ghế và hỏi: “Sao con lại phá hỏng bức tranh như thế?”
“Con không phá!”
“Đây là tác phẩm của một họa sĩ nổi tiếng đấy.”
“Con mặc kệ. Con không thể để người khác bị đóng đinh vào tay và chảy máu như vậy được. Con không muốn thế.”
Giấu nụ cười sau bộ ria đẹp đẽ, Lionel Gray nhận ra chính mình thuở trước trong câu trả lời của con trai và không phạt cậu nữa.
Gray say mê tìm hiểu mọi ngóc ngách trong lâu đài, và cậu luôn khám phá được những điều đáng kinh ngạc. Ví dụ như trên tầng gác mái của lâu đài, cậu tìm thấy một bộ giáp sắt cũ của hiệp sĩ, những quyển sách có bìa bằng da và viền sắt, những bộ lễ phục đã nát mủn và một bầy chim bồ câu. Dưới tầng hầm, nơi người ta cất rượu, cậu học được những điều thú vị về rượu Laffitte, Madeira và sherry[3]. Ở dưới này, trong ánh sáng lờ mờ chiếu xuống qua những ô cửa sổ dài nằm kẹp giữa những phiến đá hình tam giác ở thành hầm, họ chất đầy những thùng rượu lớn bé đủ cỡ. Thùng lớn nhất có hình trụ tròn, phình ra ở giữa, to bè, chiếm trọn bề ngang bức tường. Vỏ thùng đóng từ gỗ sồi đen trăm tuổi, láng mịn và bóng loáng như được đánh véc-ni. Cạnh thùng đựng rượu là những chiếc giỏ tết bằng liễu gai, đựng đầy những chai rượu lùn và phình ra màu xanh lá và xanh hải quân đậm. Trên gờ đá và dưới nền hầm, có nhiều nấm mốc màu xám, có chân khẳng khiu. Chỗ nào cũng ẩm ướt, bám đầy rêu và bốc mùi chua nồng muốn ngạt thở. Ở góc hầm đằng xa, một mạng nhện to đùng chăng ngang.
[3] . Một loại vang được tăng nồng độ cho nặng thêm của Tây Ban Nha.
Chiều chiều, mạng nhện lại óng lên những tia vàng lấp lánh dưới ánh mặt trời chiếu xiên. Ở một góc hầm khác, người ta cất hai thùng vang Alicant thượng hạng được ủ từ thời Cromwell(*), và người gác hầm, lần nào trỏ cho Gray góc hầm trống trải đó, cũng không quên kể cho cậu nghe câu chuyện về ngôi mộ cổ nổi tiếng, nơi an nghỉ của một người tuy đã chết nhưng còn tinh nhanh hơn loài chó săn cáo. Khi bắt đầu kể chuyện, người gác hầm không quên kiểm tra vòi rượu ở chiếc thùng lớn nhất và rời khỏi đó với tâm trạng thật khoan khoái, những giọt lệ long lanh sung sướng đọng trên đôi mắt vui vẻ của ông ta.
(*). Oliver Cromwell (1599 - 1658): nhà lãnh đạo chính trị, thiên tài quân sự người Anh; đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập nền cộng hòa ở Anh.
“Cậu Gray ạ!” Ông Poldichoque ngồi lên một cái thùng rỗng, tay bốc một dúm bột thuốc lá, hít một hơi thật sâu và nói với Gray. “Cậu có thấy chỗ đằng kia không? Ở đó, họ chôn hai thùng rượu ngon đến độ mấy tay nghiện rượu sẵn sàng cho người ta cắt lưỡi để được nếm một cốc nhỏ đấy. Mỗi thùng đựng một trăm lít, thứ rượu khiến linh hồn ngây ngất, còn thân thể nhũn ra như bún. Rượu ấy màu thẫm hơn quả anh đào, và không rót từ chai ra được. Nó đặc quánh như kem. Rượu được chứa trong thùng đóng bằng gỗ sồi đen cứng như sắt.
Hai đai thùng được làm bằng đồng đỏ. Và trên đai có khắc dòng chữ bằng tiếng Latinh như sau: Ngài Gray sẽ uống thứ rượu này khi ngài được ở trên Thiên đường. Người ta giảng giải câu ấy theo đủ mọi nghĩa, đến nỗi cụ cố của cậu, ngài Simeon Gray, đã cho xây một dinh thự ở quê và đặt tên nó là “Thiên đường”. Ngài cho rằng bằng cách thức khôn ngoan đó, ngài có thể khiến lời sấm bí ẩn và hiện thực khớp với nhau. Và cậu biết thế nào không? Ngài đã chết vì đau tim ngay lúc người ta tháo cái đai đầu tiên ra. Ngài quá phấn khích mà lên cơn đau tim. Kể từ đó, không một ai dám động vào thùng rượu nữa. Người ta nói thùng rượu quý mang tới vận rủi. Thật ra, đến con Nhân sư Ai Cập cũng không hỏi những câu khó như vậy. Đúng vậy, có lần nó từng hỏi một nhà hiền triết thế này: “Liệu ta có ăn thịt ngươi giống như ta đã ăn thịt những kẻ khác không? Hãy cho ta câu trả lời chính xác và ngươi sẽ được sống.” Nhưng có điều, ngẫm kĩ ra thì…”
“À mà hình như vòi rượu lại bị rỉ hay sao ấy.” Ông Poldichoque tự ngắt lời mình rồi chạy ra góc hầm, nghiêng người vặn chặt vòi rượu rồi quay trở lại với vẻ mặt hí hửng. “Phải. Sau khi suy nghĩ thật kĩ, không có gì nóng vội, nhà hiền triết nên nói với con Nhân sư thế này: “Thôi, ta đi uống vài chén đi, ông bạn, và ông sẽ quên sạch mấy chuyện vớ vẩn ấy ngay.” Xem nào. Ngài Gray sẽ uống rượu này khi ngài được ở trên Thiên đường à? Phải hiểu thế nào nhỉ? Tức là ông ấy sẽ uống sau khi chết à? Kỳ lạ thật! Vậy có nghĩa ông ấy là một vị thánh. Mà thánh thì không uống vang hay bất kỳ loại rượu nào hết. Còn giả sử “Thiên đường” chính là hạnh phúc đi. Nếu đáp án chính là như thế, thì niềm vui nào cũng sụt mất một nửa khi người được hưởng hạnh phúc lại phải hỏi chính mình: Đây có phải là Thiên đường không? Khó là ở chỗ ấy đấy. Để thoải mái uống được rượu từ cái thùng kia và cười sảng khoái, người ta phải để một chân dưới đất và chân kia gác lên trời. Vẫn còn một giả thuyết thứ ba nữa, đó là: một ngày kia, ông Gray uống say tít cung mây và nốc sạch cả thùng. Nhưng mà, cậu Gray ạ, chuyện đó lại không phải là lời sấm truyền, mà là một vụ bê bối trong quán rượu.”
Sau khi kiểm tra lại cái vòi ở thùng rượu lớn lần nữa, ông Poldichoque kết thúc câu chuyện với giọng trầm ngâm, rầu rĩ: “Cụ tổ của cậu, ngài John Gray, mang những thùng rượu này từ Lisbon về trên con tàu Beagle hồi năm 1793. Cụ ấy đã trả những hai nghìn đồng tiền vàng cho chỗ rượu này đấy. Dòng chữ trên đai thùng là do anh thợ súng Benjamin Ellian ở Pondisherry khắc lên đấy. Mấy thùng rượu được chôn sâu dưới đất chừng hai mét, rồi phủ đầy tro cây nho. Chưa ai từng được uống rượu ấy, đến nếm qua cũng không, và sẽ chẳng ai được uống hết.”
“Cháu sẽ uống.” Một ngày nọ, Gray giậm chân, quả quyết nói.
“Quả là một cậu bé gan dạ!” Ông Poldichoque nói. “Và cậu sẽ uống trên Thiên đường chứ?”
“Dĩ nhiên rồi. Thiên đường ở ngay đây này! Đây, ông thấy không?” Gray cất tiếng cười khe khẽ và xòe bàn tay nhỏ ra. Lòng bàn tay mềm mại hứng lấy tia nắng vàng óng ả, và rồi cậu nắm chặt tay lại. “Thiên đường ở đây này! Ở ngay đây, và giờ lại biến mất rồi!”
Vừa nói, cậu vừa xòe tay ra rồi lại nắm chặt tay vào. Khi đã đủ vui thú với trò đùa, cậu vượt chạy lên trước ông Poldichoque về phía những bậc cầu thang tối dẫn lên hành lang tầng trệt lâu đài.
Người nhà cấm tiệt Gray xuống bếp, nhưng một lần nọ, sau khi phát hiện ra một thế giới tuyệt vời với những ngọn lửa trong lò và bồ hóng, tiếng nồi hơi reo và nước sôi lục bục, tiếng dao thớt lách cách và mùi thức ăn thơm lừng ngửi thôi đã muốn rỏ dãi, cậu bé trở thành vị khách thường xuyên của nhà bếp. Những anh đầu bếp nghiêm nghị, đi lại khẽ khàng như những thầy thượng tế; chiếc mũ cao màu trắng của họ nổi bật trên nền tường ám đen bồ hóng, khiến từng động tác của họ đều mang vẻ trang nghiêm lạ thường. Những cô hầu đẫy đà, vui tính đang rửa bát đĩa trong những chậu nước, tiếng dao nĩa bằng bạc và bát sứ va vào nhau lanh canh. Rồi mấy chú bé bước vào, lưng còng xuống vì phải vác những giỏ cá, tôm, hàu và hoa quả nặng trĩu. Trên chiếc bàn dài, có cơ man nào là gà lôi, gà nhà lông sặc sỡ đủ màu đến mấy con vịt lông xám, và ở đầu bàn đằng xa là một con heo sữa đã cạo lông, đôi mắt nhỏ nhắm nghiền, xung quanh là củ cải, cải bắp, hạt dẻ, nho khô và mấy trái đào chín đỏ.
Gray luôn có chút e dè khi xuống bếp: cậu cảm thấy có một sức mạnh lạ kỳ nào đó thống trị nơi đây, và sức mạnh đó cũng điều khiển toàn bộ lâu đài. Những tiếng gọi dưới này nghe như mệnh lệnh và thần chú. Mọi thao tác của những người làm bếp sau nhiều năm luyện tập đều chính xác, nhịp nhàng và nhanh nhẹn, rất dễ truyền cảm hứng cho người chứng kiến. Gray vẫn chưa đủ cao để ngó được vào trong cái vạc to nhất trong bếp, ùng ục sôi như miệng núi lửa Vesuvius[4], nhưng cậu vẫn thấy có một niềm kính trọng đặc biệt đối với nó. Cậu kinh ngạc khi thấy hai người hầu gái cùng bê cái vạc, nước trong vạc sánh ra, trào xuống sàn bếp, hơi nước xèo xèo bốc lên từ mặt sàn tỏa ra khắp phòng. Một lần nọ, nước bị sánh ra nhiều quá, làm bỏng tay một cô người hầu. Da cô lập tức đỏ lựng lên, và Betsy (tên cô hầu gái) vừa khóc vừa xoa dầu vào chỗ bỏng. Nước mắt trào ra trên gương mặt tròn trịa, sợ sệt của cô.
[4] . Miệng núi lửa ở vịnh Naples, Ý.
Gray lặng người. Khi những người khác đang cuống quýt bên Betsy, đột nhiên, cậu thấy lòng quặn lại trước cơn đau của cô hầu gái, dù cơn đau ấy không phải của cậu.
“Có đau lắm không ạ?” Cậu hỏi.
“Cậu cứ thử đi rồi biết.” Betsy vừa lấy tạp dề che chỗ bỏng lại, vừa đáp.
Cậu bé cau mày, trèo lên chiếc ghế con, lấy một cái muôi cán dài múc nước sôi trong vạc lên (hôm đó, người ta nấu xúp thịt cừu) và đổ lên cổ tay của mình. Gray điếng người, cơn đau dữ dội làm cậu choáng váng. Mặt cậu tái mét, cậu đút tay vào túi quần để giấu chuyện mình bị bỏng rồi tiến lại chỗ Betsy.
“Em thấy chị đau lắm đấy.” Cậu lí nhí, giấu tiệt thử nghiệm vừa rồi của mình. “Em đưa chị đi bác sĩ. Đi nào, chị Betsy!”
Cậu níu lấy váy cô gái, cương quyết kéo cô đi, mặc cho những người khác bày ra đủ các phép gia truyền để chữa bỏng. Betsy vì quá đau nên đã đi theo Gray. Bác sĩ bôi thuốc cho Betsy để giảm đau. Lúc Betsy đi rồi, Gray mới nhờ bác sĩ bôi thuốc cho bàn tay bị bỏng của mình.
Sự việc nho nhỏ ngày hôm ấy đã khiến Betsy, hai mươi tuổi, và cậu bé Gray, mười tuổi, trở nên thân thiết với nhau. Cô nhét đầy túi cậu những bánh kẹo và táo, còn cậu kể cho cô nghe những truyện cổ tích và nhiều truyện khác cậu đọc được trong sách. Một ngày nọ, Gray hay tin Betsy không thể lấy Jim, chàng chăn ngựa, vì họ không có tiền để lo cho cuộc sống gia đình. Gray bèn lấy kẹp gắp than đập vỡ con lợn ống tiền bằng sứ của mình, lấy hết tiền trong đó ra. Số tiền cậu để dành cũng được gần một trăm bảng. Sáng hôm sau, cậu dậy thật sớm, chờ cô hầu gái xuống dưới bếp làm việc thì lẻn vào phòng cô, đặt món quà của mình vào trong rương của cô và để lại một mảnh giấy. “Tất cả là của chị, Betsy! Ký tên: Robin Hood.” Chuyện xảy ra làm cả căn bếp xôn xao, họ bàn ra tán vào nhiều tới nỗi Gray phải nhận chính mình đã làm. Cậu nhất quyết không chịu nhận lại tiền và không muốn nói thêm gì về việc ấy nữa.
Mẹ của cậu thuộc lớp người sống theo khuôn đúc đã định sẵn. Bà sống trong một thế giới được nhiều người mơ ước, nơi vật chất đủ đầy đáp ứng mọi ước muốn của một tâm hồn bình thường. Chính vì thế, bà chẳng có điều gì phải lo lắng, ngoài việc ra lệnh cho mấy chàng thợ may, bác sĩ và quản gia của mình. Tình yêu tha thiết, sự gắn bó gần như tôn sùng dành cho cậu con trai kỳ lạ của mình, có thể nói, là luồng khí duy nhất thổi vào một cơ thể đã bị môi trường sống và số phận đầu độc, khiến bà không còn thực sống nữa, mà chỉ lay lắt tồn tại, ý chí của bà đã trở nên uể oải. Người phụ nữ cao sang, quyền quý đó giống như một con công cái ấp được một quả trứng thiên nga. Bà run rẩy nhận ra cá tính đẹp đẽ, khác biệt của con trai mình. Nỗi buồn, tình yêu và cả lý trí luôn tràn ngập trong bà mỗi khi bà ôm siết cậu bé vào ngực. Trái tim bà thốt lên những lời khác với cái miệng đang nói - thứ vốn chỉ quen biểu đạt những mối quan hệ và suy tưởng thông thường. Giống như hiệu ứng đám mây hình thành khi những tia nắng mặt trời rọi vào không gian cân đối của một tòa nhà, xóa nhòa vẻ vô vị vốn có của nó. Đôi mắt không còn nhận ra chốn quen thuộc, sắc thái huyền bí của ánh sáng giữa nơi tầm thường nhạt nhẽo tạo nên vầng hào quang lung linh, chói lóa.
Khuôn mặt và dáng hình của người phụ nữ quyền quý ấy chỉ biết đáp lại lời mời gọi nồng nhiệt của cuộc sống bên ngoài bằng sự im lặng lạnh lùng. Vẻ đẹp của bà khiến người ta phải tránh xa thay vì bước tới gần, bởi nhan sắc ấy hoàn toàn không tỏa ra sức hấp dẫn nữ tính mà chỉ có vẻ cao ngạo của lý trí. Nhưng cũng chính bà Lillian Gray ấy, khi ở một mình với con, lại biến thành một người mẹ bình thường như bao người mẹ khác, luôn nựng con bằng những lời ngọt ngào vô nghĩa nhưng chan chứa yêu thương, thể hiện qua giọng nói dịu dàng, ấm áp. Sức mạnh của những lời ấy nằm trong tình cảm chứ không nằm trong ý nghĩa. Bà không thể từ chối con một điều gì. Bà tha thứ cho tất cả lỗi lầm của cậu bé: những lần cậu xuống bếp chơi, những lần cậu chán học, không vâng lời và cả những trò nghịch ngợm kỳ quặc của cậu.
Nếu cậu không muốn cho cắt tỉa cây cối trong vườn, sẽ không ai được động đến chúng. Nếu cậu xin tha tội hay ban thưởng cho ai, người ấy chắc chắn sẽ được đối đãi đúng ý cậu. Cậu muốn cưỡi con ngựa nào thì cưỡi, muốn dắt chú chó nào vào trong lâu đài thì dắt, cậu được vùi đầu vào đống sách trong thư viện, được chạy chơi bằng chân trần trên đất, và ăn mọi thứ cậu thích.
Bố cậu ban đầu cũng muốn ngăn cản nhưng cuối cùng đành nhượng bộ, không phải vì nguyên tắc mà là chiều theo ý vợ. Ông không cho con cái của gia nhân vào trong khuôn viên lâu đài vì sợ nếu chơi với những đứa trẻ tầng lớp dưới, cậu bé sẽ càng khó uốn nắn hơn. Nhìn chung, ông chỉ chuyên tâm xử lý những kiện tụng liên miên trong các gia đình, khởi nguồn từ thời xưởng làm giấy đầu tiên xuất hiện, và chỉ chấm dứt khi thành viên ưa tranh giành, cãi vã cuối cùng trong nhà nằm xuống. Thêm vào đó, chuyện đại sự quốc gia, chuyện quản lý các gia trang của chính ông, chuyện viết hồi ký, đi săn cáo, đọc báo và trao đổi thư từ khiến ông có phần xa cách gia đình. Ông ít gặp con đến độ thỉnh thoảng còn quên mất con đã lên mấy tuổi.
Vậy là, Gray cứ thế sống trong thế giới của riêng mình. Cậu thường chơi một mình ở sân sau lâu đài, nơi ngày xưa từng đóng vai trò quan trọng về mặt quân sự. Đó là một khu đất rộng, trống trải, vẫn còn vết tích của những hào sâu, những hầm đá rêu phong mà nay cỏ dại, tầm ma, thạch nam, mận gai và những loài hoa dại đã phủ kín. Gray chơi ở đó hàng giờ liền, say sưa quan sát hang chuột chũi, đánh nhau với cỏ dại, rình bắt bướm và xây pháo đài từ những viên gạch vỡ, sau đó, cậu lại dùng gậy và đá để oanh tạc pháo đài.
Năm cậu mười hai tuổi, tất cả những ý muốn ẩn trong tâm hồn cậu, những khía cạnh tản mạn của tinh thần và những thôi thúc bí mật nơi cậu đã cùng kết lại thành một khao khát mạnh mẽ, không gì ngăn cản được. Trước đó, dường như cậu chỉ mới tìm thấy từng phần riêng biệt trong khu vườn của mình khi nhìn vào những khu vườn khác: một khoảng nắng tràn, một vùng bóng râm, một bông hoa, một cội cây um tùm cành lá. Và rồi, cậu bất chợt thấy được toàn bộ khu vườn của riêng mình thật rõ ràng, với vẻ hài hòa tuyệt đẹp, lạ lùng.
Chuyện xảy ra ở trong thư viện. Khung cửa cao có gắn kính mờ hình bán nguyệt ở trên đỉnh lúc nào cũng đóng, nhưng chốt cửa chỉ gài hờ, chỉ cần đẩy mạnh tay, chốt sẽ kênh lên và cánh cửa bật mở. Khi lòng say mê nghiên cứu tìm tòi thôi thúc Gray vào thư viện, cậu đã kinh ngạc trước thứ ánh sáng mờ bụi nơi đây, rọi qua những hoa văn khảm trên ô kính mờ hình bán nguyệt. Sự tĩnh mịch của lãng quên phủ lên mọi vật trong này, ngột ngạt như nước ao tù. Hàng dãy kệ sách sẫm màu kê sát cửa sổ, che mất một nửa ô cửa. Trên lối đi giữa những tủ sách, nằm la liệt mấy chồng sách cao. Chỗ này là cuốn album đang mở bị long mấy trang ở giữa; đằng kia là mấy cuộn giấy buộc dây vàng, mấy quyển sách bìa tối màu ảm đạm chất thành đống, vài chồng giấy chép tay dày cộp, một chồng sách nhỏ xíu kêu lách tách như vỏ cây khô mỗi khi được mở ra. Phía này lại có những biểu đồ, bản vẽ, mấy dãy sách mới xuất bản, các loại bản đồ. Bìa sách cũng đủ kiểu: thô kệch, tinh tế, đen, xanh, vân màu, bìa dày, bìa mỏng, ráp và nhẵn. Kệ nào cũng chật ních sách. Trông chúng cứ như những bức tường dày đang vây kín một thế giới tách biệt bên trong. Ô kính lắp ở tủ này phản chiếu các tủ khác, lấp lánh những đốm sáng không màu. Trên chiếc bàn tròn, có một quả địa cầu khổng lồ bọc trong những đường xích đạo và kinh tuyến bằng đồng giao nhau.
Quay sang phía cửa ra vào, Gray thấy phía trên cánh cửa có treo một bức tranh rất lớn. Bức tranh ấy làm thư viện thêm bội phần u tịch. Trong tranh là một con thuyền đang ngả nghiêng trước đầu sóng dữ. Ngọn sóng trắng xóa ập xuống mạn thuyền. Bức tranh vẽ lại khoảnh khắc con thuyền chồm lên cao nhất, như thể sắp lao thẳng về phía người xem. Rầm néo buồm ở mũi thuyền rướn cao, che khuất phần dưới của những cột buồm. Ngọn sóng bị tàu rẽ làm đôi, tung bọt sang hai bên, nom hệt như đôi cánh chim khổng lồ. Bọt nước tung cao trên không trung. Những cánh buồm đằng boong trên thấp thoáng sau rầm néo buồm, căng phồng uống no gió bão, như muốn đem hết sức mạnh điên cuồng thu được từ dông tố để nâng tàu vươn thẳng dậy, đẩy tàu vượt sóng cồn, biển thẳm, thẳng tiến tới những bến bờ xa. Những mảng mây tả tơi vì gió là là gần mặt biển. Ánh sáng lờ mờ vật lộn với bóng đêm đang ập tới. Thế nhưng, hình ảnh gây ấn tượng mạnh mẽ nhất trong tranh lại là một bóng người đứng trên boong mũi, lưng quay về phía người xem. Hình ảnh đó đã truyền tải được hết hoàn cảnh và bản chất của giây phút ấy. Với đôi chân giạng rộng và hai tay giơ cao, khó mà biết được anh ta đang làm gì, nhưng chúng ta có thể hình dung rằng anh ta đang tập trung cao độ, dồn hết sự chú ý vào một điều gì đó trên boong mà người xem không nhìn thấy được. Vạt áo choàng của anh ta bay phấp phới trong gió, đuôi tóc trắng và thanh gươm đen hất lên trời. Nhìn cách ăn mặc, dễ dàng nhận ra ngay anh ta là thuyền trưởng. Người anh ta như nhún nhảy theo nhịp sóng; anh ta để đầu trần, rõ ràng anh ta đang lâm nguy và đang thét lớn - nhưng thét để làm gì? Anh ta trông thấy có người bị ngã xuống biển chăng? Anh ta ra lệnh đổi hướng tàu, hay đang gọi thuyền phó? Những câu từ không rõ hình dung ấy cứ lảng vảng trong tâm trí Gray khi cậu ngắm bức tranh. Đột nhiên, cậu có cảm giác ai đó đã tiến tới từ phía bên trái cậu và giờ, người ấy đang đứng ngay cạnh cậu. Cậu không biết đó là ai và cũng chẳng nhìn thấy họ được. Chỉ cần ngoái đầu sang là cảm giác kỳ lạ ấy sẽ biến mất. Gray biết rõ điều đó. Thế nhưng, cậu không dập tắt hình ảnh tưởng tượng ấy mà còn lắng nghe nó nữa. Một giọng nói không thành tiếng thốt lên những lời cộc lốc, rời rạc, khó hiểu như tiếng Mã Lai. Tiếp đến, có tiếng ầm ầm như tuyết lở kéo dài. Tiếng vọng, tiếng gió âm u lan khắp thư viện. Gray nghe thấy tất cả những âm thanh đó từ bên trong chính mình. Rồi cậu nhìn quanh. Vẻ tĩnh lặng lập tức xua tan những tiếng động chăng đầy trong tưởng tượng của cậu. Cậu không còn ở trong cơn bão kia nữa.
Gray quay lại thư viện thêm nhiều lần nữa để ngắm bức tranh. Nó trở thành một tiếng nói thiết yếu trong cuộc chuyện trò giữa tâm hồn và cuộc sống - thiếu đi tiếng nói đó, ta không thể hiểu được bản thân mình nữa. Biển cả bao la dần dần ngự trong tim cậu bé. Cậu làm quen với đại dương qua những quyển sách trong thư viện. Cậu lục lọi, tìm kiếm và chăm chú đọc những cuốn sách mà đằng sau những tấm bìa mạ vàng của chúng là đại dương xanh biếc, lóng lánh. Ở đó, có những con tàu rẽ nước, bọt sóng tung lên đằng sau đuôi. Có những con tàu bị mất buồm và cột buồm, bị sóng nuốt chửng xuống đáy đại dương, nơi chỉ có những cặp mắt xanh sáng như lân tinh của những loài cá lạ. Có những con thuyền bị sóng xô mạnh vào đá ngầm, thân tàu lắc lư dữ dội theo nhịp sóng, mạn thuyền tả tơi, bầm dập, quằn quại, hấp hối trước khi một cơn bão khác kéo đến, đập tan nó thành trăm mảnh. Những con tàu khác vẫn mải mê chất hàng từ cảng này để chở sang cảng khác. Thủy thủ đoàn vui vẻ tụ tập trong quán, cất tiếng hát ca tụng cuộc sống nơi biển cả và hân hoan nốc từng ngụm rượu. Trong đó còn có cả những tàu cướp biển treo cờ đầu lâu xương chéo, thủy thủ đoàn toàn là những tay bặm trợn, gã nào gã nấy hung hãn vung dao sáng loáng. Lại có những con tàu ma lập lòe phát ra thứ ánh sáng xanh chết chóc. Có những tàu hải quân chở đầy lính tráng, đại bác và kèn đồng. Lại có cả những con tàu chở những nhà khoa học, chuyên đi nghiên cứu những núi lửa, hoa cỏ và động vật ở khắp nơi trên thế giới. Có những con tàu chứa đựng những âm mưu đen tối và những cuộc nổi loạn. Lại có những con tàu của các cuộc thám hiểm và phiêu lưu…
Trong thế giới đó, như một lẽ tự nhiên, vai trò của người thuyền trưởng nổi bật hơn tất cả. Thuyền trưởng là số phận, linh hồn và bộ óc của cả con tàu. Tính cách của anh ta sẽ quyết định cách làm việc hay nghỉ ngơi của toàn bộ thủy thủ đoàn. Anh ta đích thân chọn lấy từng thuyền viên, và họ phải hợp với anh ở nhiều mặt. Anh nắm rõ thói quen và hoàn cảnh gia đình của từng thủy thủ trên tàu. Trong mắt của những thủy thủ dưới quyền, thuyền trưởng là một người có kiến thức sâu rộng, và nhờ vốn kiến thức đó, anh có thể điều khiển con tàu băng đại dương mênh mông, đi thẳng từ Lisbon tới Thượng Hải. Anh đối đầu với bão tố bằng sự kháng cự mạnh mẽ, xua tan đi sợ hãi bằng các mệnh lệnh dứt khoát. Anh cho tàu đi và dừng ở những nơi mình muốn. Anh sắp xếp lịch ra khơi và bốc hàng, thời điểm sửa chữa tàu và nghỉ ngơi. Khó mà hình dung được có thứ quyền năng nào to lớn và sáng suốt hơn trong công việc sống còn, không ngừng nghỉ ấy. Quyền năng ấy thật sự ngang ngửa với quyền năng của chàng Orpheus(*).
(*). Nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, con trai của nàng Calliope - nữ thần Thi ca - với vua Oeagrus xứ Thrace. Chàng có tài đàn hát khiến chim muông, vạn vật đều cảm động và nghe theo.
Những ý niệm, những hình dung và vai trò trên thực tế của một thuyền trưởng, dưới tác động của những sự kiện mang tính tâm linh, đã chiếm một vị trí trang trọng trong trí tưởng tượng tuyệt diệu của Gray. Không một nghề nghiệp nào trên đời lại có thể thu được tất cả những gì quý giá nhất của cuộc sống về một mối, mà vẫn bảo tồn được những niềm hạnh phúc riêng tư, bất khả xâm phạm trong mỗi tâm hồn. Những hiểm nguy, rủi ro, mạo hiểm, sức mạnh của thiên nhiên, ánh sáng từ những xứ sở xa lạ, những điều bí ẩn diệu kỳ, các mối tình thoáng qua, vụt cháy giữa những lần gặp gỡ và từ biệt, những gương mặt không bao giờ lặp lại trong đời. Trên bầu trời cao kia là chòm Thập Tự Phương Nam, rồi chòm Bắc Đẩu, tất cả mọi châu lục đều thâu về trong đôi mắt sắc sảo của anh ta, nhưng trong buồng tàu, anh ta vẫn cất đầy những thứ từ đất mẹ dấu yêu: sách vở, tranh vẽ, thư từ và những bông hoa ép khô buộc bằng sợi tóc tơ cất trong mặt dây chuyền bằng da thuộc trên lồng ngực rắn rỏi.
Năm Arthur Gray mười lăm tuổi, vào một ngày mùa thu, cậu trốn khỏi nhà để đến với biển khơi. Chẳng bao lâu sau, con tàu Anselm nhổ neo rời Dubelt, lên đường tới Marseilles, chở theo một cậu thiếu niên chạy việc vặt có đôi bàn tay nhỏ nhắn và gương mặt của một thiếu nữ cải trang thành nam. Cậu thiếu niên chạy việc ấy chính là Gray. Cậu có chiếc túi du lịch xinh xẻo, đôi ủng da bóng loáng mềm như găng tay dành cho trẻ em, và quần áo bằng phin nõn đắt tiền, có thêu dấu vương miện.
Trong vòng một năm, khi tàu Anselm vượt đại dương từ Pháp sang Mỹ và Tây Ban Nha, Gray đã phung phí một phần tiền của mình cho món bánh nướng, thứ anh vẫn từng được ăn, và phần còn lại, vốn để dành cho hiện tại và tương lai - bị nướng cả trong các canh bạc. Anh muốn trở thành một thủy thủ lão luyện. Anh bị sặc khi uống rượu, và chùn chân khi nhảy bổ xuống nước từ độ cao gần bốn mét để tắm. Dần dần, anh đánh mất hết mọi thứ trừ điều quan trọng nhất: tâm hồn bay bổng lạ kỳ của mình. Anh mất đi vẻ thư sinh, trở nên vạm vỡ, bắp thịt rắn chắc, mạnh mẽ. Nước da trắng trẻo khi xưa giờ đã rám nắng, nâu giòn. Những vụng về, lóng ngóng nay được thay bằng những động tác dứt khoát của đôi bàn tay lao động. Đôi mắt thông minh của anh lấp lánh như có ngọn lửa cháy bên trong. Và giọng nói của anh đã không còn ngập ngừng, e thẹn mà trở nên ngắn gọn và dứt khoát, như chú chim hải âu lao vút xuống, đớp lấy con cá bạc đang uốn mình trong dòng nước.
Thuyền trưởng tàu Anselm là một người tốt bụng, nhưng rất nghiêm khắc. Ông nhận Gray lên tàu học việc là có thâm ý. Ông thấy nỗi khao khát cháy bỏng của Gray chỉ là một ý thích nhất thời, một ham muốn bồng bột. Ông đinh ninh rằng sau hai tháng, Gray sẽ cúi gằm mặt, không dám nhìn thẳng vào ông, và lí nhí nói: “Thưa thuyền trưởng Hop, cháu bị xước hết khuỷu tay lúc trèo lên dây căng buồm. Lưng và mạng sườn cháu đau như muốn gãy, cháu không duỗi ngón tay ra được. Đầu cháu nhức như búa bổ, chân cháu run lẩy bẩy… Chỗ dây thừng ướt nhẹp kia nặng gần bốn chục cân, cháu bê không nổi. Mấy loại dây chằng, dây chão, trục tời, cột đỉnh, cây ngang[5] tra tấn cơ thể mảnh dẻ của cháu. Cháu muốn về nhà với mẹ.” Sau khi nghe lời cầu xin tưởng tượng ấy, thuyền trưởng Hop lại hình dung tiếp câu trả lời: “Cậu cứ đi bất cứ chỗ nào cậu muốn, chú vịt nhỏ ạ. Nhỡ bị nhựa đường dính vào bộ lông bóng mượt kia, cậu có thể lấy nước hoa Rose-Mimosa ra mà rửa.” Thứ nước hoa mà thuyền trưởng Hop nghĩ ra làm ông thích thú lắm, nên mới buột miệng nói to: “Đúng rồi. Đi mà lấy nước hoa Rose-Mimosa ấy!”
[5] . Tạm dịch, cross-trees: hai cây xà nằm ngang trên cột buồm dùng để đỡ dây thừng và buồm.
Thời gian dần trôi, cuộc đối thoại tưởng tượng ấy ngày càng ít lặp lại trong tâm trí thuyền trưởng, vì Gray đã tiến gần mục tiêu của mình với hàm răng nghiến chặt và vẻ mặt lầm lì. Anh làm đủ mọi việc nặng nhọc với một ý chí sắt đá và nỗ lực lớn lao. Những công việc ấy dần trở nên dễ dàng hơn khi con tàu trở nên quen thuộc với anh hơn, và những hành động lạ lẫm đã trở thành những thói quen. Có lúc, sợi xích mỏ neo đốn anh ngã dúi dụi xuống sàn tàu. Lại có lần, anh bị tuột tay, sợi dây thừng kéo rứt theo một mảng da trong lòng bàn tay anh. Và có lúc, góc buồm có khuyên sắt bị gió tạt thẳng vào mặt anh. Nhìn chung, toàn bộ công việc anh làm đều là thử thách cam go, đòi hỏi phải chú ý cao độ, nhưng, dù cho hơi thở có khó nhọc, thân thể có rã rời, đau nhức đến đâu chăng nữa, nụ cười khinh mạn trước gian lao vẫn không rời khỏi môi anh. Anh âm thầm chịu đựng những lời chế giễu, nhạo báng và cả những lời chửi rủa của các thủy thủ giàu kinh nghiệm, cho tới khi anh cũng thành thạo như họ, được họ công nhận là “một người trong số chúng ta”. Nhưng kể từ đó, anh luôn đáp trả những lời xúc phạm bằng nắm đấm.
Một lần nọ, lúc thuyền trưởng Hop trông thấy anh buộc buồm thành thạo, ông mới tự nói với mình: “Cậu thắng rồi đấy, thằng nhãi ạ.” Lúc Gray trèo lại xuống boong, thuyền trưởng Hop gọi anh vào buồng lái, giở một cuốn sách đã quăn mép ra và nói: “Nghe cho kĩ đây. Bỏ thuốc lá đi! Ta sẽ bắt đầu dạy cậu làm thuyền trưởng.” Và anh bắt đầu đọc sách, hay đúng hơn, anh bắt đầu học sử dụng thứ ngôn ngữ cổ xưa của đại dương. Đó là bài học đầu tiên của Gray. Sau một năm, anh đã nắm vững cách tìm phương hướng, cách đóng tàu, luật hàng hải, các tài liệu hàng hải chỉ nam[6], cách làm sổ sách. Thuyền trưởng Hop nhiệt tình nâng đỡ anh và xưng “chúng ta” với anh.
[6] . Tài liệu mô tả các đặc điểm về bờ biển, luồng lạch, tình hình thủy triều, dòng chảy, khí hậu, v.v… hướng dẫn các tuyến đường biển để chạy tàu, neo đậu sao cho an toàn, có lợi.
Gray nhận được thư mẹ gửi khi anh ở Vancouver. Lá thư đẫm nước mắt và đầy lo sợ. Anh hồi âm bà như sau: “Con biết mẹ lo lắng cho con. Nhưng giá mà mẹ có thể nhìn được những điều con thấy: mẹ hãy nhìn bằng đôi mắt của con. Giá mẹ có thể nghe được những điều con nghe: áp vỏ sò lên tai, lắng nghe thanh âm của con sóng vĩnh cửu. Nếu mẹ có thể yêu như con yêu: yêu tất cả mọi điều, thì khi ấy, con sẽ thấy trong lá thư của mẹ ngoài tình thương và tờ chi phiếu, còn có cả một nụ cười.” Rồi anh lại tiếp tục hành trình nơi đầu sóng ngọn gió, cho tới một hôm tàu Anselm chở hàng về Dubelt. Lúc tàu neo ở cảng để dỡ hàng, Gray, lúc này đã là chàng trai hai mươi tuổi, mới tranh thủ về thăm nhà.
Lâu đài vẫn như xưa, từ những chi tiết nhỏ đến những ấn tượng chung đều hệt như năm năm về trước, chỉ có hàng du non trồng phía trước lâu đài nay đã cao lớn, tán xanh um xòe rộng.
Người hầu kẻ hạ trong lâu đài vui mừng khôn xiết, ùa ra đón Gray, và giật mình, lặng người kính cẩn như vừa mới gặp chàng Gray này ngày hôm qua. Họ chỉ cho anh chỗ mẹ anh hiện đang ở. Anh leo lên căn phòng trên lầu cao, khẽ khàng đẩy cửa ra và yên lặng đứng nhìn người phụ nữ mặc đồ đen, tóc đã điểm bạc. Bà đang đứng trước tượng Chúa, lầm rầm cầu nguyện, giọng thì thầm như tiếng đập của con tim. “Cúi xin Người ban ơn cho những người đi biển, những kẻ tha hương, những người ốm yếu, khổ đau và chịu cảnh tù đày.” Gray thở gấp, lắng nghe từng từ một. Rồi bà nói tiếp: “Và con trai con…” Khi ấy, anh mới lên tiếng: “Con đây…” Nhưng anh không thể thốt nên một lời nào nữa. Mẹ anh quay người lại. Bà gầy hơn xưa, gương mặt kiêu kỳ, đẹp như tượng tạc của bà bỗng rạng rỡ hẳn lên, như tuổi trẻ bất chợt quay trở lại. Bà lật đật chạy tới bên con, bật cười thành tiếng. Bà khẽ gọi tên con. Nước mắt bà trào ra. Tất cả chỉ có thế. Nhưng chính trong khoảnh khắc ấy, bà đã sống trọn vẹn và hạnh phúc hơn hẳn quãng đời trước kia của mình.
“Mẹ nhận ra con ngay, con yêu của mẹ!”
Và quả thực, Gray lúc này như không còn là chàng trai cao lớn, vạm vỡ nữa, mà đã quay trở lại là một đứa trẻ. Anh nghe mẹ kể về cái chết của cha, rồi anh kể cho mẹ về cuộc phiêu lưu của mình. Bà chăm chú nghe con kể, không quở trách, cũng không phản đối một điều gì. Nhưng tất cả những điều mà Gray coi là lẽ sống của đời mình, bà chỉ coi như món đồ chơi ưa thích của con trai mà thôi. Những món đồ chơi đó là các châu lục, các đại dương và những con tàu.
Gray ở lại lâu đài bảy hôm. Đến ngày thứ tám, anh mang theo một món tiền lớn, quay lại cảng Dubelt và nói với thuyền trưởng Hop: “Cháu cảm ơn bác. Bác là người bạn rất tốt của cháu. Xin chào tạm biệt bác, người thầy thông thái của cháu.” Để nhấn mạnh những lời vừa nói, anh siết tay ông thật chặt. “Kể từ nay, cháu sẽ đi biển một mình, trên con tàu của riêng cháu.”
Thuyền trưởng Hop nổi giận, mặt đỏ rần rần, ông nhổ toẹt một bãi nước bọt, giật tay ra và bỏ đi, nhưng Gray chạy theo, quàng tay qua vai, ôm chặt lấy ông. Thế rồi, hai người họ cùng toàn bộ thủy thủ đoàn, tất cả hai mươi tư người, vào quán rượu vừa ăn uống hết mọi thứ có ngoài quầy hàng lẫn trong bếp, vừa hát hò và la hét om sòm.
Ít lâu sau, những ánh sao đêm lấp lánh đã rọi sáng trên cột buồm sừng sững của một con tàu mới ở cảng Dubelt. Đó là con tàu ba cột buồm, chở được hai trăm sáu mươi tấn, có tên là Điều Bí Mật - con tàu Gray mới mua. Arthur Gray vừa là chủ tàu, vừa làm thuyền trưởng trên con tàu đó được bốn năm, trước khi số phận đưa đẩy anh tới Liss. Anh vẫn luôn ghi nhớ tiếng cười khàn khàn mừng mình trở về ngày đó, nên mỗi năm, anh trở lại thăm lâu đài đôi ba lần, mang lại cho người phụ nữ tóc bạc niềm tin mơ hồ rằng cậu con trai to lớn cuối cùng cũng đã điều khiển được những món đồ chơi của mình.