Văn Chấn, tháng 10 năm 1947.
“Đoàng. Đoàng! Tắc, tắc, tắc. Bọp!”.
“Đùng!”.
“Đoàng!”.
- Tây! Tây! Tây đến rồi! Tây đến! - Tiếng người đàn bà dân tộc thiểu số kêu thất thanh, giọng líu lại, như vô cảm, lại như đơn điệu. Tiếng kêu thất thanh chỉ chạy dọc đường làng được một đoạn thì im bặt.
“Đoàng!”.
“Đoàng! Tắc, tắc, tắc! Bọp! Tắc!”.
Tiếng súng chỉ thiên giòn khô, lọt vào dãy đá vôi, trùng âm thanh lên nhau, vọng xa như đợt sóng rừng già. Cả làng Đao đang yên tĩnh, bỗng chốc nhớn nhác rồi náo loạn.
- Tây đến thật rồi. Tây đến. Kia kìa, kia kìa! - Người trung niên, người già, trẻ con từ đâu đâu nhao lên cửa sổ nhà sàn nhìn ra đường mòn giữa làng, vẻ mặt ai nấy tái xanh, tái nhợt.
Năm chiếc xe cam-nhông chở đầy lính đội mũ bê-rê như con quái vật lạ hoắc, lao đi, bụi đỏ gặp gió cuốn theo mù mịt. Tiếng bánh xích, tiếng máy nổ ầm trời. Lá cờ “tây” trên nắp xe phần phật, phần phật, đám chó thả rông hung hăng thế, giờ cũng chui hết các gầm sàn, rúc mõm im thin thít. Chỉ có mấy con trâu vẫn đủng đỉnh gặm cỏ ven đường mặc kệ cho lũ cam-nhông gầm hét. Quynh và hai đứa trẻ khác nắm chặt những chiếc chạc trâu vặn bằng lạt mềm như sợ chúng căng buột khỏi tay. Quynh nghe lọt vào tai một giọng Tây lơ lớ:
- Đây là đâu rồi, ngài thông ngôn?
- Thưa ngài quan ba, mới làng Thượng, hai mươi cây số nữa mới là Ba Khe.
- Đi tiếp, đi nhanh - Vẫn giọng Tây lơ lớ.
Chiếc cam-nhông rồ lên, xì đám bụi đỏ cuộn ra đằng sau, vọt mạnh, cả đoàn lăn theo.
“Giặc Tây đến! Giặc đến bản mình rồi đây sao?”. Quynh tròn mắt nhìn vào đám bụi đường, ngơ ngác. Trời tối sầm. Một cơn dông bất ngờ ập tới. Đoàn xe được lệnh dừng lại nơi ngã ba đường.
- Ba Khe. Lập trại dã chiến! - Một giọng như người chỉ huy, quát to.
Tức thì đám lính mũ bê-rê, mặt đỏ, chân tay dài nguềnh từ thùng xe nhảy lụp bụp xuống đất. Những chiếc bạt được căng ra rất nhanh. Thoáng chốc cả một bãi cỏ gà có tới chục chiếc lều trại mọc lên. Mưa rào rào buông xuống. Mặc mưa, hai tên lính khiêng cây sắt nhỏ đặt xuống rồi cứ thế tút dài thuôn vào một lá cờ nhiều sọc buộc lên cột trại.
Mưa như trút nước.
Trong lòng trại bạt cắm lá cờ một nhóm người giở tờ giấy to mặt bóng. Bản đồ? Viên thông dịch người Việt nhìn chằm chằm, anh ta đưa ngón tay di di trên tấm giấy ngẩng mặt nói:
- Đây, Chấn Thịnh đây! Đất này có làng Cao, làng Bồ, làng Diễn, làng Kim, làng Chùa.
Năm sáu cái đầu chụm lại. Viên chỉ huy người Pháp nhíu mày đưa đẩy bộ ria mép.
- Cao, Chùa, Bồ. Chọn nơi nào hả ông đội Minh?
Đội Minh tức Hà Minh Rỗ, viên mật thám người Việt từng là lính vệ binh bản xứ ở đồn Yên Bái leo lên đến chức đội nhờ công tích bắt bớ Việt Minh. Nhật đảo chính, Hà Minh Rỗ co cẳng chạy ngược rừng vào Nghĩa Lộ, thấy không yên, vội vã chuồn sang Sơn La ẩn náu. Những tưởng làm người dân đến già. May mà Pháp quay trở lại, Hà Minh Rỗ lần mò đến đồn Tây ở thị trấn trình thẻ căn cước. Thế là chỉ trong một ngày, từ kẻ chạy loạn Hà Minh Rỗ lại trở về với chức “đội” - Đội Minh, cai đội Minh, của hơn hai năm trước. Đội Minh đang được nhóm quan Pháp ở Sơn La tin dùng và tung vào việc đưa đường dẫn lối trở về Yên Bái lập đồn bốt Pháp với cái tên tục Hà Minh Rỗ.
- Bồ. Chọn làng Bồ, thưa ngài quan ba!
- Hứ? Làng Bồ hả? Sao không chọn là Chùa, là Cao? - Viên quan ba mắt xanh lật chiếc mũ lưỡi trai trên đầu rồi úp lại quay xoay, như muốn cố lý giải điều gì.
- Thưa ngài đại úy. Con suối Lao chảy dọc thế này... con đường mòn xuyên qua các xã đây... làng Chùa là đất tâm linh, làng Cao rừng chắn, ngõ cụt. Phong thủy, Bồ là đắc địa nhất, thưa ngài - Hà Minh Rỗ đưa hai tay nắm chặt quả quyết.
Đại úy quan ba Tây Rê-mi-ông nhìn chằm chằm vào mặt viên cai đội người Việt rồi nhếch mép cười nói bằng tiếng Anh:
- Ô-kê, ô-kê!
Đoạn viên quan ba gí đầu ngón tay gầy nhẳng xuống điểm chấm xanh trên bản đồ. Rồi gí lùi ngón tay về phía mình. Một chấm xanh nữa được xác định. Ngón tay Tây lại di tiếp, di tiếp. Một, hai, ba, bốn, năm... vòng tròn màu đỏ được khoanh lại như bó chặt những nốt xanh vào giữa lòng.
Trời tạnh dần. Bãi bằng cỏ gà phố nhỏ Ba Khe mọi ngày sôi động kẻ đi người lại mà giờ này đột nhiên im phắc. Sự rầm rầm của động cơ cam-nhông, tiếng xì xồ của đám Tây, tiếng to nhỏ của lính người Việt, lá cờ Pháp cắm mái trại. Dân bản Ba Khe hiểu ngay giặc Pháp đã trở lại Yên Bái, trở lại Văn Chấn. Ai nấy yên ắng trong nhà nhìn ra khu lán trại mà buồn bã, lo lắng.
Nhưng trại dã chiến của quân hành binh tái chiếm không dừng lâu. Nắng bốc lên sau trận mưa giữa chiều thì cũng là lúc cây cờ sọc được tháo đi, mái lán thu dỡ nhanh chóng. Nhưng lạ thay, năm chiếc cam-nhông đầy lính lại tách ra chia làm hai ngả ngược chiều. Tốp ba chiếc rồ máy ầm ầm, theo con đường đất lăn bánh, rồi vọt đi, vào hướng Mường Lò. Còn hai chiếc ngược về phía Yên Bái.
- Nó vào Nghĩa Lộ mình rồi.
- Và ra cả Yên Bái nữa.
- Ừ. Đồn bốt Tây vẫn còn cả đấy mà. Nó đến chiếm lại.
Những người dân Ba Khe túa ra đường, chụm đầu kháo nhau.
- Cẩn thận, cẩn thận kẻo nó quay lại bắn chết cả làng đấy! - Có tiếng đàn ông quát to vẻ hốt hoảng.
- Thôi, giải tán đi, đừng túm tụm nữa... - Vẫn tiếng đàn ông nhưng giọng lạc hơi.
Mặc kệ những lời can ngăn, dân làng Ba Khe, người có tuổi đi nhanh vào nhà, thanh niên trai tráng lại nhao ra mặt đường bàn luận. Chỉ có lũ trẻ con:
- Lúc xe nó đỗ ở bãi cỏ gà tao định ra xem nhưng bố mẹ đóng chặt cửa.
- Tao cũng thế, có ông Tây mũi lõ xoa đầu rồi đưa cho tao một cái bánh, ông bảo: Banh mi, banh mi đay, an đi!1 Tao đem về khoe, không ngờ ông nội quất cho hai roi vào đít - Nói rồi nó cười tít.
1. Bánh mì, bánh mì đây, ăn đi!
Cả đám trẻ con kéo nhau ra đám cỏ gà xem dấu vết bánh xe.
Trời sâm sẩm tối. Không mưa, không trăng sao. Những lời bàn luận vẫn không ngớt. Chính quyền Việt Minh và Ủy ban hành chính xã Ba Khe chong đèn dầu họp gấp. Một, hai, ba... phán đoán được đưa ra, và một, hai, ba... phương án đối phó, được phác họa.
Tốp xe cam-nhông chở bọn lính đi theo hướng ra Yên Bái, một chiếc dừng ở gò Bằng Mỵ nơi có một dấu xanh viền đỏ. Còn một chiếc vút qua, ngoặt phải, phi thẳng xuống xã Chấn Thịnh. Chấm xanh có khoanh tròn đỏ hiện dần trong đầu Hà Minh Rỗ. Đồn Pháp sẽ đặt tại đây, làng Đồng Bồ bên bờ suối Lao, con suối rộng như dòng sông nhỏ, mình chở đầy đá đen, mùa mưa lũ ống nước hung dữ tưởng như nuốt chửng tất cả những gì giữa dòng trừ những tảng đá to như chiếc bồ chiếc bịch. Nghe tiếng rào rào chảy, nhìn con suối nằm dài dưới chân mô đồi thoáng đãng. Đứng trên mặt đồi, có thể quan sát bốn mặt đường liên xã và lòng sông, quan tư Soóc-xia-xăng vỗ vai Hà Minh Rỗ:
- Ồ. Đẹp lắm, được lắm ngài Rỗ!
Hà Minh Rỗ được khen, cười nửa miệng mà lễ phép:
- Thưa ngài trung úy quan tư, đội tôi là người bản địa mà.
Hai kẻ chủ tớ cuộc hành binh cười hơ hớ. Soóc-xia-xăng ra lệnh hạ trại. Bỗng một vầng nắng quái bừng sáng vàng khè rồi lặn nhanh. Trời tối hẳn. Cả làng Bồ, những bếp lửa nhà sàn gần xa bập bùng cháy mà chủ nhân vẫn không hay biết gì, giặc Tây đã quay trở lại Văn Chấn, chúng đang giăng trại lập đồn ngay trên đất làng mình.
Còn tốp ba chiếc cam-nhông vượt đèo Ách, vượt ngòi Nhì, vượt suối Thia, phóng thẳng lên phố Nghĩa Lộ rồi dừng khựng dưới gốc cây đa cổ thụ. Trời nhá nhem tối nhưng còn đủ nhìn toàn cảnh. Quan hai Ri-rê-ông ngoảnh mặt sang đại úy quan ba Vay-ăng-tanh, rồi hất hàm hỏi cai Đoan. Đoan nói bằng tiếng Tây những gì đó, Ri-rê-ông vung tay ra lệnh. Lập tức hai chiếc cam-nhông đổ quân xuống phố Nghĩa Lộ. Đám quân mũ bê-rê tản ra rất nhanh, mấy tên trèo lên một nóc nhà Tây mặt phố - ngôi nhà ba gian lợp ngói đã rêu bám, mươi chiếc bàn ghế kiểu học trò xếp đặt ngang dọc, cổng trường trống trải, bốn chữ “Trụ sở khu phố” viết bằng sơn ta trên mảnh gỗ được đóng đinh vào mái, bị chúng quăng xuống đất, thay vào đấy là lá cờ Pháp to đến mét rưỡi với cây cán sắt dài mấy sải tay, buộc chắc vào đầu hồi mái nhà. Một tiếng nổ lớn, rồi nhiều tiếng nổ chỉ thiên, cả dưới phố, cả trên đồi Pú Chạng, cứ thế nối nhau, kéo dài. Chỉ mười lăm phút sau quanh nhà Trụ sở khu phố đã có đến bốn năm ngôi bạt hiện hình. Một chiếc cổng trại dã chiến có hai chữ “Đồn Pháp” được dựng lên. Rồi mấy khẩu đại liên, trung liên kéo ra tiền trại. Rồi từng tốp từng tốp lính khoác súng đi nghênh ngang quanh khu doanh binh mới lập.
Nghĩa Lộ đã bị giặc Pháp tái chiếm. Lúc ấy là mười bảy giờ ngày mùng 2 tháng 10 năm 1947. Cả dãy phố Nghĩa Lộ ai nấy ngơ ngác, lạnh lùng.
“Tây đến chiếm lại Nghĩa Lộ rồi!”.
Tin lan thật nhanh. Đêm mùa thu mà dân phố không ngủ. Buồn bã, lo sợ, hoang mang. Có chức dịch cũ còn nhấp nhổm sắp sẵn rượu nếp, bạc trắng, nếu có chuyện thì lót tay cho yên cả nhà. Bùi Đức Lạc chạy ra đường nghe ngóng, định bụng, nếu có gặp Tây thì cũng nói vài câu tiếng Pháp, thăm dò ý đồ của chúng để cho Việt Minh phố còn định liệu. Bùi Đức Lạc gặp may thật.
- Ông Đoan!
Cai Đoan quay lại.
- Bồi tạp Bùi Đức Lạc!
- Phải, tôi là Lạc đây. Dễ đến ba năm rồi còn gì?
- Tháng Chạp bốn bốn (tháng 12 năm 1944 âm lịch) - Cai Đoan hoan hỉ như được gặp lại bạn cũ - Đoan về phủ, rồi chánh quản điều lên Sơn La. Việt Minh thắng thế, Đoan giải ngũ làm hàng xén nhà chợ. Đầu năm, người Tây trở lại Sơn La, Đoan cùng Hà Minh Rỗ trình căn cước, thế là được người Pháp chiêu dùng luôn.
- Bây giờ làm gì? - Bùi Đức Lạc hỏi.
- Cai đội, gọi là cai Đoan. Luôn đi sát quan hai Ri-rê-ông.
- Số ông thật đỏ đấy ông Đoan - Bùi Đức Lạc như có ý ngỏ mừng, rồi tự bạch. Còn tôi ấy à. Thôi việc bồi ở căng, Cách mạng Tháng Tám nổ ra, biết đi đâu được. Lại về làm nghề buôn trâu thôi ông Đoan ạ.
- Ừ. Chưa gặp thời đấy thôi. Bây giờ là cơ hội vàng, ông “đi” với tôi? - Đoan gợi ý.
Ánh đèn măng-xông từ lán trại hắt ra, Bùi Đức Lạc nhìn rõ khuôn mặt cai Đoan. Năm ấy, khi Bùi Đức Lạc làm phục dịch quét dọn ở nhà căng thì Đoan đã là lính khố xanh ở đồn Nghĩa Lộ Đồi. Khi đó chỉ làm việc gác chòi canh mà sao bây giờ lại trở thành cai Tây? Chắc cái tính đa nghi, trù dập của hắn được người Pháp biết đến rồi đưa đi bồi đắp tư tưởng trả thù Việt Minh.
- Ông bạn Đoan, cả nhà tôi sinh nhai bằng nghề buôn trâu, chả dính dáng gì đến Việt Minh, đến súng đạn. Thôi, tôi giữ nghề thôi - Bùi Đức Lạc thủng thẳng trả lời, rồi nói gợi - Với lại, biết người Pháp ở đây bao lâu mà bỏ nghề?
Đoan hồ hởi:
- Ơ kìa. Người Pháp ở đây chứ. Ngay ngày mai sẽ tăng quân, lập lại đồn Nghĩa Lộ rồi mở rộng ra Văn Chấn, ra Yên Bái nữa.
- Thôi thôi - Bùi Đức Lạc xua tay - Thế thì để tôi an phận với nghề mà cha tôi đã chọn thôi ông cai Đoan.
- Biết thế, biết thế. Lạc về nhé, về nhé! - Cai Đoan cười gật gù.
Đã gần nửa đêm. “Tình hình không thể đảo ngược được rồi!”. Bùi Đức Lạc chạy đến trưởng phố. Trưởng phố Lê Quân đóng cửa kín mít tha hồ gõ, tha hồ gọi. Im lặng. Bùi Đức Lạc chạy đến Chủ nhiệm phố bộ Việt Minh.
- Ông Bay, ông Bay!
Chủ nhiệm Bay giật mình. Bên ông, ngọn đèn dầu hỏa leo lét và chai rượu chỉ còn một nửa.
- Ông Bay. Tây đến đóng đồn ở phố ta rồi. Trưởng phố đi đâu không rõ? Ý ông thế nào?
Chủ nhiệm Lò Văn Bay:
- Tôi cũng không hiểu nữa anh Lạc ạ, bây giờ có chính quyền rồi, Việt Minh biết làm gì!
- Khó thật. Nhưng ông Bay ơi, Trưởng phố không thấy, ông Chủ nhiệm triệu tập Việt Minh họp đi, vừa an dân vừa đối phó. Gấp lắm rồi ông Chủ nhiệm?
Bùi Đức Lạc nói như khẩn khoản, như van xin. Chủ nhiệm Bay tỉnh ra:
- Anh Lạc, họp luôn tại nhà tôi nhé, trụ sở Tây chiếm mất rồi?
- Vâng, vâng. Ông gọi gấp đi! - Bùi Đức Lạc sốt sắng.
Chủ nhiệm Bay vào buồng nói gì mấy câu, cậu con trai chạy đi.
Quá nửa đêm, bảy, rồi tám Ủy viên Mặt trận Việt Minh phố Nghĩa Lộ lần lượt tới. Không ai còn bình thản rót chén nước chè, kéo chiếc điếu cày. Vẻ buồn bã trùm lên các khuôn mặt vốn đã gầy gò, mệt mỏi, nay thêm nét lo âu.
Chủ nhiệm Lò Văn Bay cố bình tĩnh:
- Các ông thành viên Mặt trận Việt Minh phố! Giặc Pháp đã chính thức nổ súng đánh chiếm Văn Chấn, Nghĩa Lộ ta lúc chập tối nay. Tôi chưa biết làm gì bây giờ nên mời các ông đến đây để xin ý kiến. Anh Bùi Đức Lạc, anh nói trước đi.
- Đúng thế các ông ạ - Bùi Đức Lạc nói chậm rãi, chắc chắn - Chúng ta không còn lạ gì chế độ Pháp nữa. Nhưng lần này chúng tái chiếm được, nó sẽ đô hộ ta kiểu khác. Chắc chắn quân nó sẽ đông hơn, lập đồn to hơn, kiên cố hơn, vũ khí nhiều hơn. Và như thế dân Văn Chấn mình sẽ khổ hơn mà trước hết là con em ta phải đi lính cho nó, không đi lính thì cũng đi phu cho nó. Rồi nó cướp bóc đánh đập dân An Nam mình. Còn phải làm gì bây giờ? Tôi cũng chưa kịp nghĩ ra.
Một giọng run run ngồi từ góc nhà bật ra:
- Tôi, tôi thấy Tây nó mạnh quá, súng đạn bao quanh, mà người của ta thì chả thấy đâu.
Có tiếng cắt ngang:
- Người nào? Mình đây, Việt Minh đây không là người à? - Ý kiến phản lại.
- Không không, chính quyền ý, tự vệ phố ý.
- Đúng rồi, đúng rồi. Chả nhẽ lại gọi dõng binh ra mà giữ làng à? Phải chính quyền đã rồi mới đến hội.
Bùi Đức Lạc thấy nóng trong người rỉ tai Đặng Văn Tám:
- Chú nói đi, anh hùa theo. Thống nhất tinh thần đã, mai tính sau.
Tám tuy là thợ may ở phố, nhưng làm liên lạc cho nhóm cán bộ cách mạng từ tháng 4 năm 1945 ai cũng biết. Bây giờ tuổi mười tám, phụ trách thanh niên phố, trẻ trung tháo vát nhiệt tình việc công ai cũng quý và nể, Đặng Văn Tám đứng dậy, điềm tĩnh:
- Thưa các ông. Với tư cách là thành viên Mặt trận cháu quả quyết thế này. Mặt trận ta chưa bàn việc phải đánh Pháp như thế nào mà bàn việc thống nhất ý chí với nhau: Không nhận lời làm mọi việc cho Tây; không cho con em ta đi lính, dù là lính dân binh như ngày xưa, không tự góp gạo thịt cho Tây. Nếu ai bị đánh đập thì cố cắn răng mà chịu, không nhận. Làm được như thế Tây nó cũng phải sợ mình. Riêng thanh niên, chúng cháu sẽ bàn nhau, đi đầu.
Bùi Đức Lạc đứng dậy:
- Các ông. Chú Tám còn trẻ người mà nghĩ như thế, nói như thế, lại xung phong đi đầu như thế thì Mặt trận ta an tâm rồi còn gì. Tôi đề nghị ông Chủ nhiệm yêu cầu tất cả thành viên Mặt trận ở các phố, các bản thông báo quyết tâm này đến mọi người ngay trong sáng mai. Riêng tôi, tôi sẽ không đi buôn trâu nữa mà ở lại cùng các vị tìm cách chống lại sự o ép của đồn Pháp.
Chủ nhiệm Lò Văn Bay:
- Chú Lạc, chú Tám nói thế, tôi và các vị mặt trận cũng thấy yên tâm. Tôi không sợ giặc Tây mà chỉ sợ không biết làm gì vừa để chống lại chúng, vừa đỡ khổ cho dân mình. Ta giải tán ở đây. Tối mai, giờ này các ông lại đến, chúng ta nghe kết quả và bàn thêm mọi việc - Chủ nhiệm nói với theo - Nhớ giữ bí mật đấy.
Khác đêm hôm trước. Cuối tuần trăng, trời tối như mực mà ai nấy không dám cầm đèn dầu, cứ mò mẫm, mò mẫm lần theo ngõ xóm quen thuộc.
Tang tảng sáng. Bình minh mùa thu nhô khỏi chân núi Hoàng Liên Sơn thì cũng là lúc một đoàn xe vận tải cắm cờ Pháp lá cờ có ba vạch trắng, đỏ, vàng, ầm ầm vượt tiếng cười nói sặc sụa. Lại có cả giọng lính Thái với những tên người gọi nhau ý ới: “Lò Văn Păn, Cà Văn Sơn, Bạc Cầm Cao...”. Đám lính dễ đến hai ba trăm, súng đạn đeo đầy người, kẻ khiêng vác, người tháo lắp. Chỉ một lúc, ba bốn khẩu pháo đã đặt sừng sững trước trại binh, nòng chĩa ra đường. Dân phố Nghĩa Lộ nhìn, biết, mà đành lặng như tờ.
Quân Pháp tái chiếm Nghĩa Lộ và gần như làm chủ các địa bàn trọng yếu của huyện Văn Chấn. Cờ “tam tài” đã ngạo nghễ, phần phật trên các nóc đồn.