Hà Thiết Hùng nhận nhiệm vụ của Quản Văn Tình, Thường trực Huyện ủy Văn Chấn ra Tỉnh ủy Yên Bái báo cáo tình hình và xin chủ trương đối phó trước mắt với quân Pháp.
Phạm Văn Toán (Phan Đạo Xích) hồ hởi nắm tay phái viên Huyện ủy:
- Pháp nó chiếm đóng nhiều thế, các anh có nao núng không?
Hà Thiết Hùng, chàng thanh niên Tày đất Thượng mà tên khai sinh là Hưng - Hà Đình Hưng, có tiếng rắn rỏi, quyết liệt, lại đương kim đội trưởng đội dân quân huyện, đứng thẳng dậy ngang mặt với Phạm Văn Toán.
- Chúng tôi không sợ, nhưng bị động quá. Tỉnh điều Bí thư Huyện ủy Lê Văn Kim (Kim Doãn) đi nơi khác, chưa có người đứng đầu, thành ra hơi chủ quan.
Phạm Văn Toán nghiêm trang:
- Để Nghĩa Lộ, Văn Chấn rơi vào tay giặc một cách dễ dàng như thế, Huyện ủy có tội với dân, với nước, các anh phải tự nhận kỷ luật.
Hà Thiết Hùng:
- Vâng, vâng! Tôi cũng nghĩ như vậy, nhưng...
- Nhưng... Huyện ủy các anh xây dựng lực lượng quần chúng chậm, lại thiếu nòng cốt, thế chứ gì? - Phạm Văn Toán nói như gắt.
Biết Ủy viên thường trực Tỉnh ủy bức xúc, Hà Thiết Hùng không dám lý giải ngọn ngành. Mà lý giải cũng không được, rõ ràng, để huyện lỵ rồi một loạt xã dọc mấy tuyến quốc lộ, quân Pháp chiếm nhanh, lập đồn nhanh, thậm chí tuyển lính bắt phu nhanh, mà đến giờ đã nửa tháng trời rồi Huyện ủy vẫn chưa đưa ra được giải pháp tự lập để đối phó, lãnh đạo huyện cũng lại chưa gặp được chủ chốt Tỉnh ủy để có ý kiến chỉ đạo mang tính chiến lược. Thoáng nghĩ, Hùng thấy mình phải trấn tĩnh, kéo lại lòng tin của cấp trên với huyện:
- Thưa anh. Các cơ quan huyện đang bị phân tán, nhưng sẽ chỉ là tạm thời. Phần tôi xin đề xuất đưa đội du kích huyện lên thành trung đội bộ đội địa phương huyện, xin với tỉnh trang bị vũ khí và huấn luyện chiến đấu.
Phạm Văn Toán cũng đã tự thấy mình nóng nảy không phải lúc nên nhẹ nhàng nói:
- Anh Thiết Hùng ạ. Việc đầu tiên nhất là phải củng cố lại tổ chức Huyện ủy, tổ chức Ủy ban và Mặt trận Việt Minh huyện. Phát động quần chúng tự đứng lên kháng chiến, đánh Pháp. Còn việc thành lập trung đội địa phương, tôi đồng ý. Anh về báo cáo lại Quản Văn Tình, Tỉnh ủy sẽ có ngay chủ trương cho toàn tỉnh trong đó có thể Văn Chấn là trọng điểm chỉ đạo.
Nói rồi Phạm Văn Toán nắm chặt tay người phái viên, bước ra sân căn nhà lá:
- Thiết Hùng, tôi gọi anh thế cho tiện. Anh về đi, kháng chiến bắt đầu rồi. Gian khổ, hy sinh đừng nao núng.
- Vâng. Thưa anh!
Hà Thiết Hùng và Hoàng Văn Hưởng sang đò Âu Lâu rồi định bụng cứ theo quốc lộ vào Hưng Khánh về Thượng Bằng La.
- Này mấy anh bạn - Thiết Hùng trong vai người dân đi buôn hỏi tốp thanh niên Hưng Khánh - Nghe nói Tây ở Văn Chấn nhiều lắm phải không?
- Ồ, nhiều lắm, nhiều lắm! Nó đóng cả ở đồn Mỵ, đồn Thiến rồi! - Một cậu trẻ trả lời.
Nghe tốp thanh niên nói với nhau bằng tiếng Tày, hiểu được họ nói gì, Thiết Hùng cũng phát tiếng Tày:
- Khỏi pay thự bán thự vai, giản Tây pắt phạt (Tôi đi mua song mây, sợ Tây bắt phạt).
- Ồ! - Tốp thanh niên ồ lên rồi đi thẳng.
Trong người có tài liệu và con dao găm hộ thân, Thiết Hùng quyết định hỏi đường đi tránh đồn Pháp. Trước mặt là đèo Cây Da dốc đứng. Vượt được ngọn dốc núi xanh ngắt này sang bên kia là Đại Lịch. Từ đấy tìm đường về huyện. Nghĩ vậy hai anh em vào nhà dân xin nghỉ qua đêm lấy sức. Sáng mai leo núi.
- Mế à. Chúng con đi lấy mây song trên núi Da, trời tối, cho con nghỉ nhờ nhà mế đêm nay mế nhá? - Hoàng Văn Hưởng lên tiếng.
Bà lão người Tày làng Kháo:
- Cứ lên nhà, lên nhà đã, ông “cháu” đang dở tay.
“Người Tày mình thì tốt rồi, nhưng còn lý dịch, Pháp đã trở lại, biết đâu có người khai báo với đồn để lấy thưởng”. Thiết Hùng nghĩ nhanh rồi nói nhỏ với Hoàng Văn Hưởng:
- Cảnh giác với cánh hào lý, đừng để lộ.
Hoàng Văn Hưởng gật đầu.
Có khách, lại là người Tày, trò chuyện đều dùng tiếng Tày, vợ chồng chủ nhà mừng lắm. Mâm cơm có thịt gà xào măng chua, rau cải nương, trám kho cá, chai rượu đóng nút lá chuối khô... được dọn ra.
- Mây song ở núi Da nhiều lắm, ta cạn chén này, cạn chén này... ngủ cho khỏe rồi mai lên xem rừng.
Thấy chủ nhà nói thật lòng, Hoàng Văn Hưởng đỡ lời:
- Chỉ đi khảo sát thôi mà ông, nếu nhiều thì tháng chạp trời rét, chúng tôi mới đến khai thác.
Chủ nhà đã qua tuổi trung niên, cả đời gắn với núi rừng, thủng thẳng nói:
- Phải đấy, tháng Chạp trời hanh, cây cối khô nước, ta lấy về chẳng cần phải ngâm vẫn không mối mọt các ông ạ.
- Vâng, vâng! - Hưởng đáp, rồi gắp quả trám kho đặt vào bát mình.
- Tây về đây, tình hình thế nào ông anh? - Thiết Hùng vừa hỏi vừa đưa chén rượu mời gia chủ.
- Nó làm nhanh lắm - Ông Tĩnh là chủ nhà vừa nói vừa lắc lắc đầu - Nửa đêm nghe tiếng chó sủa ầm ĩ, tôi dậy, thấy đèn pha sáng quắc. Tiếng cam-nhông nổ ầm ầm. Có chuyện gì chả biết! Sáng hôm sau ra chợ, dân chợ nháo nhác bảo nhau: “Tây đến!”. “Tây cắm trại ở gò Thiến”. Hai ngày sau, mấy ông lý dịch cũ được Tây gọi vào trại, nghe bảo sắp có lệnh bắt dân đi phu.
- Thế chính quyền đâu, họ thông báo gì chưa ông? - Hưởng ngẩng mặt hỏi.
- Chưa, chưa. Mấy “ông” ủy ban bảo cấp trên chưa “nói” gì.
- Thế đấy - Thiết Hùng thở dài - Giặc đã vào nhà mà vẫn chờ. Có mà chờ nó đến trói! Không được đâu, phải sẵn sàng vào tổ chức đánh Tây đấy ông Tĩnh ạ. Hai chúng tôi cũng vậy.
Chủ nhà như tỉnh lại sau mấy câu nói như đinh đóng của anh bạn trẻ người Tày làm nghề mây song.
Tranh thủ lúc trời chưa tối, Thiết Hùng hỏi cặn kẽ bà chủ nhà đường lên núi Da. Bây giờ thì cả Hùng và Hưởng xoải người xuống mấy tấm giát tre nhà sàn, định bụng đánh một giấc rồi tang tảng sáng bí mật, lặng lẽ thoát khỏi bản.
Có tiếng chó sủa đầu làng, Thiết Hùng chột dạ. Hưởng thủng thẳng:
- Làng vắng, người đi bắt ếch chó cũng cắn đấy mà. Thôi, nằm đi!
Thiết Hùng lại ngả lưng xuống giát, tai căng ra nghe ngóng. Trong gian buồng tiếng ngáy của chủ nhà như kéo gỗ. Ngoài đồng, chó sủa dồn. Dưới ánh trăng sương, một tốp đàn ông đội nón dấu, đeo súng săn, vừa đi vừa dừng.
- Này, Hưởng. Lính dõng đi tuần. Dậy, dậy!
Bị lay mạnh, tiếng Hà Thiết Hùng lọt vào tai, Hưởng bật dậy. Trong buồng tiếng ngáy của chủ nhà vẫn rít mạnh.
- Đi thôi - Hà Thiết Hùng nói.
- Đi đâu?
- Vào chân rừng Da.
- Nhưng nửa đêm rồi - Hưởng ngần ngại.
- Đêm cũng phải đi, nhỡ dõng nghi ngờ báo đồn khám nhà thì không thoát được.
Vừa nói, Hùng vừa nhỏm dậy, tay nắm chặt túi tài liệu. Cả hai lẳng lặng bò xuống cầu thang. Thật may, nhà chủ không nuôi chó. Hai cái bóng men theo hàng rào nan bò ngược mương nước lần2, khảm qua khe nước ruộng, bước lên chân đồi bên kia.
2. Đường nước dẫn từ trên núi cao theo đường ống tre, hoặc máng.
- Kìa, anh Hùng!
- Gì thế?
- Bọn dõng đang vào nhà dân giữa đồng - Hoàng Văn Hưởng chỉ tay.
- Ừ, ừ. Ngồi đây theo dõi đã.
Chỉ năm phút sau bóng tốp dõng bước sang cổng nhà Tĩnh. Ánh dọt đèn lộ sáng. Rồi một bó đuốc được đốt lên. Bên sườn đồi, Hùng và Hưởng nhìn rõ một lính dõng chĩa khẩu hỏa mai về phía trước. Bó đuốc giơ cao sục sạo dưới gầm nhà sàn. Rồi tiếng nói to của chủ nhà phát ra và tiếng quát tháo như mất của của dõng binh người Kinh, đêm tĩnh mịch mà nghe không rõ.
- Thế nào bây giờ anh Hùng?
- Ta lên sườn đồi ngủ qua đêm, sáng hẳn, leo núi.
- Vâng - Hoàng Văn Hưởng đáp.
Đêm đó cũng may, trời sáng sao, không mưa, không rét. Chỉ nhiều muỗi.
Trời sáng. Lại tiếng chó sủa ran làng, tiếng rầm rập quát hét. Thiết Hùng nhỏm đứng dậy:
- Hưởng! Hưởng ơi, lính đồn vây bắt mình rồi.
Hoàng Đình Hưởng vùng đứng dậy.
- Gay rồi! Có đến mấy chục người hai ba ngả xông lên đồi. Làm thế nào Hùng ơi? - Hưởng hoảng hốt.
- Chắc là chủ nhà đoán ta trốn lên đèo Da, lính dõng nghi ngờ báo về đồn, lính đồn vây bắt - Thiết Hùng nghĩ nhanh rồi nói như ra lệnh - Mỗi thằng một đường, chạy ngược lên núi Da, lộn về Đại Lịch.
Thấy Hưởng chần chừ, Hùng gắt:
- Đi đi. Nó đến rồi!
Hoàng Đình Hưởng tạt ven rừng nhưng lúng túng, rừng rậm rì, chui bừa vào. Dây leo vướng chằng chịt. Thiết Hùng ôm túi công văn lao lên dốc phía tay trái. Có một lõng chân trâu. Hùng luồn theo chạy chui trong đám cành lá. Lõng trâu ngược lên núi, Thiết Hùng vừa chạy vừa đoán hướng.
“Đoành! Đoành!”.
Hai tiếng nổ đanh lên. Không phải súng săn, không phải súng kíp. Nghe như tôm-xông của quân Pháp. Có phải là Hưởng bị lộ, nó bắn? Đầu rối lên, Hà Thiết Hùng ngồi bệt xuống lõng trâu. “Quay lại tìm Hưởng hay một mình vượt núi?”.
Đã mười lăm phút. Không động tĩnh gì nữa. Tiếng ồn ào dưới làng cũng lặng. Thiết Hùng quyết định một mình leo núi Cây Da, phải đưa gấp tài liệu về Huyện ủy.
Không thể cứ theo dấu chân trâu mà đi biết đâu lại nhồ xuống bản Kháo lần nữa. Trời sáng hẳn. Thiết Hùng tìm đến cây gỗ cao nhất trèo lên. “Hướng đông đây, mặt trời sáng sớm lấp ló rồi. Đông, tây, nam, bắc! Đại Lịch có thể ở phía đông bắc làng Kháo!”. Hùng tụt xuống gốc cây, cứ liều mình rẽ cây lá rừng già đi về hướng vừa phán đoán.
Là người Tày đất Thượng, có sức khỏe, lại ham thích rừng núi, từ bé Hà Thiết Hùng đã theo cha đi rừng, lúc lấy mây song, khi tìm gỗ quý, được theo chân chú Hòa đi săn, đi lấy mật ong, rồi đi tìm cây lá thuốc nam, thăm thẳm rừng dày mà cha và chú chẳng lần nào lạc lối về?
Miên man nghĩ, vừa lần rừng, vừa nghĩ. Mặt trời mùa thu đã ngang vai mà vẫn chưa gặp manh mối lối ra. Bỗng có tiếng chó sủa. Chó sói? Không, chó sói kêu khác. Nghĩ vậy nhưng Hùng vẫn đề phòng, trong túi chỉ có con dao nhỏ. Nếu gặp sói phải leo lên cây thật nhanh mới có thể thoát thân. Kinh nghiệm đi rừng. Gặp lợn độc thì chạy ngược núi, gặp hổ gặp sói thì ngồi thụp xuống rồi nhanh chóng leo lên cây cao. Còn gặp gấu, gấu chỉ tấn công đối phương khi nó bị thương, nên nếu gặp nó, lẳng lặng cúi người xuống và đi xuôi dốc cho thật nhanh. Riêng rắn, rết chúng nằm trong đám lá mục, rắn xanh vắt vẻo trên cây như chiếc cành tươi thật khó phát hiện. Ngoài việc để mắt, phải có sẵn nắm tươi thuốc nam đút túi, đề phòng...
Tiếng chó sủa ong óc gần lại. Đúng là chó nhà, không phải phường săn, càng không phải sói. Thiết Hùng thận trọng đi thẳng về phía có tiếng chó.
“À lố! Một cái nương lúa!”.
Nương lúa không rộng nhưng quang đãng, những bông lúa nương đã chắc xanh. Thiết Hùng ngắt một bông cho lên miệng chấm nhấm. Hương vị ngọt thơm đầy đặn tràn trên môi trên tay, cảm giác đồng quê thật phấn chấn.
Hai người dân đội nón và con chó đang đi ven nương. Đúng là người dân và chú “mực” đi thăm nương. Hà Thiết Hùng bước lại:
- Anh chị đi thăm lúa đồng à?
Người đàn ông:
- À lố! Anh làm gì mà ở đây?
- Tôi đi tìm mây song bị lạc - Thiết Hùng trả lời.
Nhác thấy người đàn bà mặc váy, lại đeo cái ớp, sau lưng có coóng khảu (bồ nhỏ đựng cơm), Thiết Hùng hỏi câu tiếng Tày.
- Pi nhinh thuk cần Thổ bấu? (Anh chị là người Thổ chứ?)
- Phải rồi, người Thổ3 - Người đàn bà trả lời.
3. Trước năm 1959 ở vùng Yên Bái, dân tộc Tày gọi là Thổ.
- Thế thì ta nói chuyện với nhau bằng tiếng Thổ nhé!
Người đàn ông trung niên cười vui:
- Ờ, ờ. Người Thổ, tiếng Thổ chớ! Ngồi đây, ngồi đây đi!
Vừa nói người đàn ông vừa bẻ mấy cành lá lót xuống ven nương lúa.
- Lúa nhà anh chị tốt quá, đẹp quá. Mà anh chị ở bản gì?
Người phụ nữ tự nhận là vợ nhanh nhảu:
- Bản Vạ, Hưng Khánh mà.
- Thế đồn Pháp ở bản gì? Có xa nơi đây không?
- Ở bản Thiến. Cách đây cây số thôi mà.
“Cây số!”. Thiết Hùng khẽ giật mình. Đi suốt mấy tiếng đồng hồ mà giờ vẫn cách đồn giặc chỉ có cây số.
Như hiểu ý người lạ, anh chồng khoành cánh tay gập lại, giảng giải:
- Đây nhá. Cùng quả đồi. Lên mé này là làng Kháo, xuống mé này là làng Vạ. Đồn Thiến của Tây nằm trên đất làng Vạ đấy.
- Thế lúc sáng có tiếng súng nổ anh chị có nghe gì không?
- Có, đâu bọn lính bắn du kích ở mé đồi Kháo ấy.
Thiết Hùng sốt ruột:
- Anh chị ạ. Tôi đi lấy mây song, định là vượt đèo Da sang Đại Lịch, hẹn anh em ở đó, mà loanh quanh mãi không nhớ đường.
Người chồng:
- Ối. Đại Lịch à. Anh vượt yên ngựa núi Da, rồi vượt yên ngựa núi Đáy sẽ gặp lối đi rừng, cứ thế theo khe nước xuống làng. Dăm bảy cây số nữa. Xa đấy. Xa đấy.
- Tôi đi kẻo anh em đợi lâu - Hà Thiết Hùng nhỏm đứng dậy.
- Này chú gì ơi! - Chị vợ gọi.
Hà Thiết Hùng quay lại.
- Đường xa chú cầm theo cái coóng khảu này. Nhỡ tối không đến nơi.
- Anh chị tốt quá, mà tôi chỉ xin anh chị nắm thôi.
Người chồng:
- Không không. Cầm cả lấy. Tôi là Bắc, bản Vạ. Nay mai chú về chơi.
Thiết Hùng miễn cưỡng xách coóng khảu cơm xôi đi làm nương của vợ chồng Bắc buột miệng nói bằng tiếng Thổ:
- Cách mạng vẳn nhăng chứ pi noọng (Cách mạng sẽ luôn nhớ ơn anh chị).
Cứ theo hướng dẫn của vợ chồng Bắc, Hà Thiết Hùng luồn rừng, vượt đèo, lội khe, leo núi, qua hai ba yên ngựa. Ve rừng kêu ran ran, nhiều muỗi, vắt. Không thể tiếp tục, anh quyết định leo lên một chõng cây to nghỉ ngơi qua đêm. Một mình giữa rừng già. Đêm tối, trời có sao. Không sợ. Thiết Hùng chập chờn giấc ngủ đến khi con chim “bé khỏe học” kêu ran, tảng cây lá sáng từng khoang, Thiết Hùng lại theo hướng đông bắc mà rẽ lá rừng. Đây rồi, con khe nhỏ nước róc rách, nhiều đá, nhiều cá “trèo đồi” như mô tả của Bắc. Hùng vục mặt xuống vũng nước trong veo rồi lấy nốt nắm xôi còn lại, to bằng quả trứng gà ra ăn. Còn thòm thèm miếng xôi ngon, thèm chén nước chè và điếu thuốc lào dân quê. Bất chợt nghĩ đến Hưởng. Không rõ Hưởng đang ở đâu, hai viên đạn sáng qua liệu có tránh xa Hưởng không? Gian khổ không sợ, chỉ mong về được Đại Lịch để tìm đến anh Quản Văn Tình, anh Đào Tiến Lộc báo cáo tình hình. Nghĩ thế Thiết Hùng xuôi nhanh theo dõng khe núi Đáy.
Gọi là núi Đáy vì nơi đây có loại nứa chỉ to bằng chuôi dao, dóng ngắn bằng gang tay, vỏ xanh thẫm mềm và thơm. Người dân địa phương lấy về làm cơm lam, khi bóc vỏ nứa, một lớp màng phủ chặt tấm lam, ăn rất mềm, vị hương thơm là lạ. Dân làng Khe Liền dưới chân núi Đáy vẫn cứ truyền nhau câu ca: “Măng sặt thết khách vào chơi/ Gạo lam nứa Đáy, cơm xôi thịt gà”. Thiết Hùng nhớ lại lời chú Hòa kể mà thấy phấn chấn. Chú kể từ mười mấy năm trước, ai ngờ bây giờ mình lại chính là người mò mẫm giữa rừng già núi Đáy, không phải đi lấy mây song hay săn bắn, mà là hoạt động kháng chiến.
Dõng khe nước núi Đáy càng xuôi xuống càng rộng. Những vũng sâu nông, đá đen đá cục ngồi phơi thân, những con cá “trèo đồi” rất giỏi leo ngược dòng thác trắng lúc bơi lượn, lúc lấp ló hầm đá. Phải tìm cái gì ăn đã. Đây rồi, búi sẹ già gốc chi chít quả. Mũi dao cắt ngang, hạt sẹ thơm ngọt lại mát nữa. Kia, cây chuối rừng mọc thành bãi, đỏ ối, chín mềm. Chuối rừng ngon lắm, mỗi lần đi lấy mây nhất định phải tìm vào bãi chuối chén no nê. Lại kia nữa. Cây ngõa mật. Ngõa mật lá to như cái quạt mo, quả tím bẫm từ gốc đến các cành chẽ. No rồi mà vẫn muốn thử một vài quả ngõa mật núi Đáy. Mũi dao khía nhẹ, quả ngõa tẽ làm tư. Ôi chao chao! Mật đặc sệt, trong mịn. Mấy miếng ngõa mật làm cho Thiết Hùng quên hết mệt mỏi, quên hết gian truân kháng chiến mà đêm qua nằm vắt trên chõng cây nghĩ ngợi. Có tiếng “kéc kéc”. Thiết Hùng nghiêng đầu để ý. Một đàn khỉ từ đâu nhảy nhót rồi con khỉ to phốc xuống bãi chuối rừng đỏ chín, “kéc kéc, kéc kéc kéc!”. Nó gọi đàn. Bắt được tín hiệu của khỉ chủ, cả đàn sà vào rừng chuối rất nhanh. Thiết Hùng ngẩn ngơ đứng nhìn từng chú khỉ bẻ chuối, bóc chuối tự nhiên như người. Vui mắt quá! Thôi kệ nó, để chúng có bữa liên hoan. Hùng tự mỉm cười rồi đi nhanh bên khe nước. Có dấu bùn đất ẩm ướt. Cảm quan của người đi rừng, Thiết Hùng nắm chắc chuôi con dao găm bước lại xem. Có dấu chân hổ, đúng là dấu chân con hổ bằng miệng bát ăn cơm và dấu chân lợn độc như chiếc chén sứ. Một quầng lá dong nát nhừ, chân hổ chân lợn lẫn lộn, dấu vết đã khô nhưng vẫn hằn rõ. “Con lợn độc này phải hơn tạ, nanh dài nên con hổ mới chịu bỏ đi”, Hùng nghĩ thoáng qua, cảm giác sờ sợ hai con thú dữ, vội vàng bước xuôi làn đá. Những tia nắng thu xen qua kẽ lá, chiếu dọt đỉnh đầu. Từ khi nhận nhiệm vụ của huyện ủy rời Thượng Bằng La ra Yên Bái, đã sang ngày thứ sáu mà vẫn chưa về đến nơi, sốt ruột. Không rõ tình hình Văn Chấn diễn biến thế nào. Chủ trương mà Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Chấn đặt ra hôm làm việc với Huyện ủy đầu tháng, không rõ các anh ở huyện triển khai ra sao? Nếu chuyển cơ quan huyện về Thượng có thuận lợi là theo đường Thu Cúc gần với Phú Thọ nhưng lại xa tỉnh, mà nếu chuyển ra Chấn Thịnh thì Pháp đã lập đồn Bồ, nó không để yên. Ở Mỵ cũng có đồn Tây rồi. Đại Lịch vẫn là nơi còn hẻo lánh, giữ được bí mật, sẽ đề xuất với Huyện ủy thành lập trung đội dân quân võ trang chiến đấu mới đủ sức bảo vệ cơ quan đầu não của Văn Chấn. Thiết Hùng vừa đi vừa miên man nghĩ.
Có tiếng loạt soạt, loạt soạt, Thiết Hùng dừng lại lắng nghe, mắt nhìn trước nhìn sau. Hình như tiếng người, đúng là tiếng người, phụ nữ. Anh rẽ lá bước gần. Phải rồi, hai chị nữ trung niên bóc măng mai.
- Chào hai chị.
- Ối, ối! Chú ở đâu ra thế? - Chị nhiều tuổi mặc áo chàm, khăn chàm đen bịt đầu ngạc nhiên hỏi.
Thiết Hùng mừng quá quên cả nói dối quanh:
- Tôi ở Kháo sang. Chà chà, đèo Cây Da, dốc núi Đáy rậm rậm là...
- Rừng rậm lắm mà, chỉ có lõng trâu, lõng lợn rừng là quang thôi. - Hai chị cười.
Thiết Hùng bắt quen ngay:
- Tôi bóc măng giỏi hơn các chị đấy nhá! Đây này - Vừa nói, Hà Thiết Hùng vừa với con dao trên tay cô thôn nữ trẻ rồi bập luôn hai ngọn măng mai mập như bắp chân, anh “phái viên” đưa lưỡi dao vào búp ngọn măng dóc xuống củ. “Doạt. Doạt. Doạt” - Đấy, xong rồi. Trả măng vào sọt cho chị này.
- Thế chú là người Thổ à?
- Vâng, Thổ Hưng Khánh, sang Đại Lịch thăm người nhà - Hà Thiết Hùng nói rõ ràng, thân mật.
- Người nhà à, ai thế? - Chị trung niên hỏi.
Hà Thiết Hùng nửa đùa nửa thật, chuyển giọng xưng hô:
- Tí nữa về làng, em nói. Mà em chưa đến Đại Lịch bao giờ đâu đấy.
- Ừ, được. Đi với chị. Mấy chị em mình về thôi.
Măng mai đầu mùa, củ đặc, nặng. Hà Thiết Hùng nhanh tay quảy luôn gánh sọt lên vai.
- Ơ chú. Để chị.
- Thôi thôi, hai chị thay nhau, em con trai mà.
Ra đến bìa rừng.
- Chị em mình nghỉ ngơi rửa mặt tí đã!
- Vâng - Hà Thiết Hùng đáp rồi hạ gánh măng ngồi chờ, cũng chỉ dăm ba phút, chị trung niên trở lại.
- Chị là Hà Thị Vân, còn đây là Hạnh, em cô. Chị người Khe Liền về làm dâu làng Đồng Mè, gần thôi.
Thiết Hùng tiếp luôn:
- Thế Đại Lịch, Pháp đã đóng đồn chưa chị?
- Chưa. Nghe chồng tôi nói, trên huyện rút về đây, ở cả mấy làng, chúng tôi sắp vào du kích đấy.
- Thế à chị? Em hỏi thêm. Chị biết ở huyện, ai phụ trách không?
- Tôi chả biết, chỉ thấy anh Nghi nói, anh Đào Tiến Lộc là cấp trên của anh ấy.
- Anh Nghi nhà chị làm gì?
- Anh ấy làm chủ tịch xã này từ hôm xã giành chính quyền.
- Thế ạ. Em về nhà chị để gặp anh Nghi chị nhé?
- Ờ! Đi! - Vân giục.
Ba người đi dọc làng. Làng bản miền núi vừa yên tĩnh, vừa đẹp hiền lành. Gánh măng nặng vai mà Thiết Hùng vui như được về quê.
- Ơ, anh Nghi, anh Đào Tiến Lộc kia kìa - Hạnh chỉ tay rồi gọi to - Anh Nghi ơi...
Hai người đàn ông đang trên đỉnh dốc đường làng bước xuống. Vân chào đon đả:
- Anh Đào Tiến Lộc, anh Nghi này, có chú Hùng muốn gặp đấy.
Tạ Quang Nghi, Chủ tịch Ủy ban hành chính xã, sau anh là Dũng Tiến, tên gốc là Đào Tiến Lộc cũng cùng là người Đại Lịch. Hai ông đang vào làng.
Thiết Hùng chưa hạ gánh măng, liền nói:
- Vâng, tôi muốn gặp các anh ngay bây giờ.
- Thế à - Nghi đáp - Thế thì đi luôn với chúng tôi.
- Vâng, vâng - Vừa trao gánh măng cho Vân, Thiết Hùng chỉ kịp gật đầu cảm ơn hai người phụ nữ rồi quay người bước theo Tạ Quang Nghi.
- Ta lên nhà Dũng Đê - Đào Tiến Lộc nói.
- Vâng! - Nghi đáp.
Dũng Đê tên thật là Hà Văn Đê, trước cách mạng làm dõng binh làng. Ngày khởi nghĩa, ông sung vào đội bảo vệ lễ tuyên bố giành độc lập của xã Đại Lịch tổ chức ở sân trường tiểu học, đó cũng là ngày Tạ Quang Nghi được cử làm Chủ tịch Ủy ban lâm thời. Rồi ông được giao làm đội trưởng an ninh cho ngày bầu cử Quốc hội khóa I và bầu chính quyền hành chính xã. Cùng trạc lứa chơi với nhau từ bé nên dù khác về cương vị và công việc nhưng ba ông vẫn gắn kết với nhau như ba anh em. Chính vì thế mà ngay sau hôm Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Chấn về dự cuộc mít tinh ở bãi bằng Gò Đình, Đào Tiến Lộc nói:
- Tôi có tên là Dũng Tiến, cách mạng đặt cho, còn anh Đê, anh Nghi cũng phải có tên hoạt động.
Đê nhanh nhảu:
- Thì tôi cũng có tên là Dũng, gọi là Dũng Đê, hay gắn tên con gái cả, là Dũng Vi, cũng được!
Tạ Quang Nghi hào hứng:
- Còn tôi là Cương, cương quyết ấy, nhưng cứ gọi là Cương Nghi cho dễ nhớ...
Ba ông bạn sân siu tuổi tác vỗ vai nhau cười hiền lành.
- Chuyện qua rồi, giờ kể lại cho vui thôi Thiết Hùng ạ - Tạ Quang Nghi nói.
- Vâng. Nhân đây em muốn được “kết tồng” với anh Nghi để kỷ niệm đường trường kháng chiến.
Đào Tiến Lộc:
- Nếu được thế thì tốt quá đấy. Người Thổ mình cả mà, lại dễ cho hoạt động.
- Tớ nhận lời, anh Đê và chú Đào Tiến Lộc chứng kiến nhé. Chiều về nhà ra mắt hai cụ luôn.
Bốn trai người Thổ, không phân biệt tuổi tác, bốn bàn tay nắm chắc, giơ lên giữa lòng nhà sàn đầy gió nắng tháng mười.
- Bây giờ thì Hùng nói đi, tôi thay mặt anh Quản Văn Tình nhận chủ trương của Tỉnh ủy đây - Đào Tiến Lộc nói.
Đào Tiến Lộc đang là Chủ nhiệm xã bộ Việt Minh Đại Lịch. Khi Pháp bất ngờ đánh chiếm Nghĩa Lộ, cơ quan huyện Văn Chấn trong đó có Huyện ủy và Ủy ban trở nên phân tán. Bí thư Huyện ủy Doãn Kim đang đi tập huấn ở Thái Nguyên. Nguyễn Chấn Bí thư Tỉnh ủy vào Đại Lịch kiểm tra tình hình và chỉ đạo rút toàn bộ cơ quan huyện về Đại Lịch và củng cố lại tổ chức Huyện ủy. Đào Tiến Lộc được giao nhiệm vụ phụ trách Huyện bộ Việt Minh kiêm Chủ nhiệm xã bộ Việt Minh Đại Lịch.
- Anh Nguyễn Đăng Long đi cùng với Bí thư Nguyễn Chấn là người gắn bó với tôi từ trước khởi nghĩa - Đào Tiến Lộc thủng thẳng nói - Nên khi anh Long giới thiệu, Bí thư Nguyễn Chấn chỉ định ngay. Tình hình tuần qua như nước như lửa Hùng ạ.
- Vâng, tôi cũng đoán vậy. Vì khi anh Giang giao nhiệm vụ ra tỉnh xin chỉ đạo, tôi đã thấy ở huyện tình thế phức tạp rồi - Thiết Hùng chậm rãi, tiếc là tôi lạc rừng nên thông tin về huyện chậm, anh Đào Tiến Lộc thông cảm cho.
Đào Tiến Lộc:
- Không sao đâu. Ngày mai các anh Trần Quốc Mạnh, Nguyễn Duy Sinh đến đây, ta cùng bàn. Còn bây giờ anh Tạ Quang Nghi lo ngay việc sắp xếp cơ sở bí mật cho cơ quan chủ chốt của huyện.
- Vâng - Tạ Quang Nghi đáp.
Tạ Quang Nghi và Hà Thiết Hùng bước xuống cầu thang, việc đầu tiên là đưa Hùng về ra mắt bố mẹ.
- Ôi, được thế thì còn gì bằng - Bà mẹ Cương Nghi nắm nắm hai tay rồi vỗ vỗ vào vai Thiết Hùng, vừa móm mém nhai trầu vừa nói.
Bữa cơm chiều ấy, thân phụ Tạ Quang Nghi đưa Hà Thiết Hùng đến trước bàn thờ gia tiên, ông vái vái, nói là báo hiếu nhận Hà Thiết Hùng làm con trong nhà. Thiết Hùng chắp tay lạy ba lạy rồi nhận chiếc bùa từ tay ông cụ gài vào khuy áo chàm. Từ hôm nay, Hà Thiết Hùng là con của hai cụ, là em của Tạ Quang Nghi, Tạ Quang Phòng, và là anh của Tạ Thị Hạnh.
Đào Tiến Lộc theo chân Hà Văn Đê lên lán lúa nương khe Đồng Lở, rồi lộn qua gò yên ngựa lên Phắc Nam. Nhìn bao quanh một lượt Đào Tiến Lộc nói với Hà Văn Đê:
- Khu vực này được, có đường thông ra Thanh Bồng có thể xuôi Hạ Hòa, vượt đỉnh Phắc Nam, thông xuống Dọc - Vần, ra Yên Bái. Còn nếu đi qua khe Đồng Cai là vào núi Đáy, thì đấy, Thiết Hùng đã “phát lối” sang Hưng Khánh rồi. Được, chọn đây làm căn cứ kháng chiến huyện mình được đấy anh Đê ạ.
Chiều đó Hà Văn Đệ chặt cây, dựng ngay một cái chòi lợp lá cọ trên chảng ba cây kẹn. Ngoài nhìn vào, y như túp lá của trẻ chăn trâu. Trèo lên, cũng rộng rãi, đủ mấy chỗ ngồi, lại có thể quan sát toàn bộ đường đi lối lại trước mặt, sau lưng và nhận biết rõ người đang đi là ai. Hà Văn Đệ hài lòng với cái chòi chim của mình.
Cuộc họp bí mật của lãnh đạo huyện được tổ chức tại nhà Hà Văn Đê dưới hình thức mừng sinh nhật cụ Vạn, thân mẫu. Người nhà hoan hỉ mổ dê đón khách. Hà Văn Đê cho người lên chòi gác cảnh giới. Nắng thu vàng ươm cánh đồng trước cửa, rừng cọ rừng vầu xào xạc lá.
Trần Quốc Mạnh, Toàn Hồng, Nguyễn Duy Sinh, Đào Tiến Lộc đều đã có mặt. Hôm nay có thêm Tạ Quang Nghi - Chủ tịch Ủy ban hành chính xã Đại Lịch và Hà Thiết Hùng - Đội trưởng đội dân quân huyện tham dự cuộc họp.
- Thưa các đồng chí - Trần Quốc Mạnh, Thường vụ Huyện ủy nói - Hơn nửa tháng nay Văn Chấn ta đã bị thực dân tái chiếm, chúng xây dựng đồn bốt, bắt phu bắt lính, hạch sách lương phẩm, truy tìm Việt Minh và cán bộ huyện. Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Chấn đã về đây đánh giá tình hình và quyết định lập vùng hậu địch chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài. Về phía huyện, Tỉnh ủy đồng ý cho các cơ quan huyện chuyển về Đại Lịch xây dựng Đại Lịch thành khu căn cứ kháng chiến hậu địch của huyện, làm vùng đệm cho toàn tuyến miền tây của tỉnh ta. Trọng trách ấy nặng nề lắm, hôm nay ta bàn gấp.
Theo lời giới thiệu của Đào Tiến Lộc, Thiết Hùng báo cáo lại chủ trương của tỉnh và chuyển tập tài liệu mật cho Huyện ủy.
- Đồng chí Phạm Văn Toán, Thường trực Tỉnh ủy kiêm Trưởng ty Liêm phóng còn dặn tôi, bất luận thế nào Văn Chấn cũng phải đứng vững - Thiết Hùng nói, lời nói sang sảng rắn chắc.
Nguyễn Duy Sinh:
- Huyện ta địa hình khó khăn, các anh Quản Văn Tình, Nguyễn Trọng Thơ, Đinh Văn Quy tổ chức hoạt động ở vùng trong, nhưng đầu não cơ quan huyện vẫn là ở Đại Lịch, đề nghị anh Đào Tiến Lộc lên phương án tổ chức địa hình bí mật.
Đào Tiến Lộc:
- Tôi là người Đại Lịch, tôi và anh Tạ Quang Nghi hiểu rõ địa bàn và lòng dân, nên dự kiến bố trí cơ sở như sau.
Đào Tiến Lộc lấy mẩu than bếp vẽ vẽ lên tấm ván xoan góc nhà, nói tiếp.
- Đây là trung tâm xã. Huyện ủy sẽ đặt ở làng Lường, Ủy ban hành chính đặt ở làng Đồng Mè, còn Huyện bộ Việt Minh, Huyện đội, và các văn phòng khác đặt tại đây - gò rừng Đồng Lở và Phắc Nam thuộc làng Khe Liền. Tỉnh ủy yêu cầu trong bối cảnh hiện tại chỉ có tổ chức Việt Minh các cấp là hoạt động trực diện, công khai. Đấy cũng là điều cần lưu ý.
- Sao không đặt tổ chức nào ở khu vực trung tâm xã? - Toàn Hồng hỏi.
Tạ Quang Nghi nói:
- Bố trí như vậy là chúng tôi đã tính đến đường tiến, đường rút và mạng lưới bảo vệ của nhân dân. Các điểm “tam giác” thông nhau bằng các đoạn đường ngắn và kín, nơi đây lại có đình làng Khe Liền, chỗ tâm linh, các lý dịch không dám đụng chạm...
Trần Quốc Mạnh:
- Tôi đồng ý với sự bố trí của các đồng chí Đại Lịch. Ngay ngày mai các cơ quan huyện sẽ ổn định trở lại. Còn việc lớn thứ hai là tổ chức nhân sự. Vấn đề này tôi cũng xin nói trước là Ban thường vụ Huyện ủy chỉ còn có tôi và anh Quản Văn Tình, điều kiện liên lạc không có, nên tập thể chúng ta quyết định, tôi sẽ xin Tỉnh ủy chuẩn y. Bây giờ anh Duy Sinh nói về định hướng kháng chiến vùng hậu địch, anh Đào Tiến Lộc trình bày phương án hoạt động công khai của Mặt trận Việt Minh, và anh Thiết Hùng nêu dự kiến thành lập trung đội dân quân võ trang huyện và kế hoạch phát triển du kích xã ở địch hậu. Các vấn đề khác ta để lại, bàn sau.
Buổi họp kết thúc. Bữa cơm trưa mừng thọ thân mẫu được gia đình Hà Văn Đê chuẩn bị tươm tất. Trần Quốc Mạnh nói vui:
- Ta vào mừng tuổi cụ, nhưng rồi cũng phải ăn vội và rút nhanh đấy - Mọi người cười, cùng đứng dậy.