Thống lý Giàng A Giao người Mông nâng bát tiết gà pha rượu còn nóng lên ngang mặt hai người:
- Nào, uống hết! Kết làm anh em, ta đặt tên cho cán bộ là Giàng Nủ Lử4! Giàng Nủ Lử, em ta, cùng hết bát rượu tiết gà này.
4. Giàng Nủ Lử là tên của Bùi Đức Lạc khi kết nghĩa với người dân tộc Mông.
Bùi Đức Lạc đưa tay ra đỡ rồi nói:
- Người Kinh gọi anh em kết nghĩa là “huynh đệ” thống lý ạ. “Đệ” xin mời “huynh” trước.
A Giao gật gật rồi đón bát tiết tươi. Những lát tiết cắt nhỏ, sóng sánh trong bát rượu ngô to nồng được đưa lên miệng. Ba chiếc vòng bạc đeo trên cổ khẽ cọ sát vào nhau nghe thanh và nhẹ. Bùi Đức Lạc cũng ngửa mặt làm một hơi. Tiết gà tươi tanh tanh, rượu ủ lâu ngọt ngọt. A Giao kéo tay Bùi Đức Lạc đứng dậy đi đến bức vách nơi có cài mấy chiếc lông gà trống phết mực đỏ. Giàng A Giao quàng vào cổ Bùi Đức Lạc ba chiếc vòng bạc trắng. Cả hai vái ba vái trước bàn thờ gia tiên họ Giàng. Bùi Đức Lạc khe khẽ, nhẹ nhàng trước bộ quần áo người Mông rộng lùng thùng:
- Xong rồi cán bộ ạ. Từ nay, là anh em, sẽ tin nhau như tin trời tin đất.
Cả hai ngồi xuống tấm phản lớn nơi chỉ dành để tiếp khách của thống lý.
- Họ Giàng có nhiều tục, nhưng tục phải nhớ nhất là không được ăn quả tim các con vật, Nủ Lử nhớ đấy.
- Vâng, em nhớ rồi - Bùi Đức Lạc gật đầu.
Tin Bùi Đức Lạc được thống lý Trạm Tấu nhận làm anh em kết nghĩa, lại có ý gả em gái là Giàng Thị Sua làm vợ, Lò Thị Sương chưa rõ đúng sai thế nào thì chánh quản Cơ hẹn gặp sau buổi xòe đón khách.
- Bùi Đức Lạc bị quan đồn theo dõi nên đã bỏ em lên Trạm Tấu lấy vợ rồi.
- Em không nghĩ thế đâu anh Cơ ạ. Anh Lạc theo Việt Minh nhưng không bỏ em, em vẫn ở với mẹ chồng.
- Lạc không bỏ em, nhưng quan đồn sẽ bắt bỏ tù và hành hạ mẹ con em. Thiếu tá đồn đã ra lệnh rồi.
- Anh Cơ, thế có cách nào giúp em, giúp mẹ anh Lạc - Lò Thị Sương nắm tay chánh quản Cơ khẩn khoản.
Cơ lặng thinh, rồi thong thả:
- Để anh nghĩ, đêm xòe sau anh trả lời Sương.
- Vâng!
Quản Cơ là lính khố xanh đồn Cao, Yên Bái lên phó quản, là trợ lý văn phòng chánh sứ. Cách mạng nổ ra, rồi quân Nhật, quân Tưởng. Cơ chấp nhận làm hàng binh theo lời khuyên của Hòa cô nữ sinh trường Tiểu học Yên Bái. Định bụng bỏ vợ ở quê, sẽ cưới Hòa. Nhưng rồi Hòa đi Hạ Hòa, theo kháng chiến. Cơ buồn chán. Pháp tái chiếm Nghĩa Lộ, Cơ tự xin trở lại quân binh và được tin dùng. Gặp Hà Minh Rỗ, đội Thái, cai Đoan, quản Cầm cùng khu đồn Nghĩa Lộ, quản Cơ khéo lựa. Cơ yêu Sương, cô gái xòe. Quản Cầm bảo: “Lò Thị Sương là vợ Bùi Đức Lạc, Lạc từng là tạp dịch căng Nghĩa Lộ, Lạc theo Việt Minh rồi, ít khi về phố”. “Tôi yêu Sương mà sao thằng Hà Minh Rỗ cứ công kích?”. “Rỗ mượn cớ chú yêu vợ Việt Minh để tranh chức chánh quản chứ gì đâu! Chú là chánh quản, phải thận trọng đấy Cơ ạ”. Cơ biết điều ấy nên khôn ngoan lựa một lối đi. Quản Cầm là chỗ thân tình, ủng hộ cách làm ấy.
Nhưng... chánh Cơ không gặp sau đêm xòe mà đón hẳn Lò Thị Sương lên Pú Chạng. Cơ bảo, Sương lên đây để đi lại thành chỗ thân quen, ra vào trạm gác dễ dàng hơn. Căn phòng chánh quản nhỏ thó, bề bộn sổ sách, quân trang nhà binh sắp đặt ngang dọc. Bộ tràng kỷ lính đồn bằng gỗ, gọn và thanh mảnh.
- Em ngồi đi nào, Sương - Cơ giục.
Sương ái ngại đặt mình xuống mặt ghế mà lẽ ra chỉ dành cho hàng cai, đội.
- Em cứ coi như đã ly biệt Bùi Đức Lạc, thường xuyên ở bên anh. Quan đồn ít nghi ngờ. Hà Minh Rỗ cũng sẽ lảng tránh. Mẹ con em yên ổn. Và em còn có cả lương nữa.
Sương cúi mặt cắn đầu ngón tay. Cô không biết mình nên cười hay nên khóc. Im lặng. Quản Cơ vẫn cứ thủ thỉ:
- Em lo dân phố dị nghị chứ gì? Anh sẽ bổ cho em chức đội trưởng đội xòe lễ. Thế. Không ai trách nữa.
Lúc này thì Lò Thị Sương ứa nước mắt thật sự. Cô thút thít khóc. Rồi như trấn tĩnh lại:
- Anh Cơ cho em gặp anh Bùi Đức Lạc hỏi ý kiến?
Quản Cơ:
- Anh đồng ý. Em cứ trao đổi với anh Lạc, với cả mẹ Lạc nữa. Nhưng anh nói rõ với Sương rằng, trước sau em cũng đã là người của quan đồn rồi.
Sương đứng dậy, chào nhẹ. Quản Cơ tiến ra cổng trại.
Nhận được tin nhắn của vợ, Bùi Đức Lạc về mà không đến nhà ngay. Dân phố bảo:
- Sương nó vào ở trong đồn rồi. Nghe đâu lấy anh đội!
- Sương nó bị bắt ép, nếu không lấy cai đồn, Tây bắt cả mẹ con đi tù vì anh Lạc là chỉ huy du kích Việt Minh!
Lò Thị Sương vặn nhỏ ngọn đèn dầu thì có tiếng gõ cửa.
- Ai đấy?
- Anh đây, anh Lạc về đây.
Nghe tiếng con trai, bà mẹ vùng dậy ôm chầm lấy anh. Từ ngày ông cụ qua đời, rồi anh trai là Bùi Đức Lương hy sinh, Bùi Đức Lạc lại cứ đi biền biệt. Thương mẹ, thương vợ đến xót xa.
Sương gục đầu vào vai chồng:
- Anh Lạc. Em có tội với anh, với mẹ, và với vong linh bố.
Bùi Đức Lạc trấn tĩnh:
- Em không có tội, mà tội lỗi là do thằng Tây gây ra - Bùi Đức Lạc quay sang mẹ - Tội ác, tội lỗi, là do thực dân Pháp gây ra mẹ ạ. Con đã xin ý kiến tổ chức, con đồng ý để Sương đi lại với cai đồn mà không trách móc gì miễn sao cho mẹ được yên. Mẹ và em Sương đừng nhắc chuyện này nữa.
Tang tảng sáng đêm đó, Bùi Đức Lạc rời ngôi nhà quen thân, nơi vẫn có mẹ và Sương, sớm tối đi về. Còn Sương, thấy lòng nhẹ hơn, đỡ dằn vặt hơn. Ngoài phố, trên đồn, đã có tiếng xì xào:
- Cái cô Sương gái xòe đã ly thân với anh chồng Việt Minh để đi lại với cai đội!
- Ờ, con gái mười chín hai mươi, chồng bỏ đi biền biệt thế, trách gì nó!
Chuyện riêng của Lò Thị Sương, chỉ có ông bác họ Lò Văn Bay, Chủ nhiệm Phố bộ Việt Minh là rõ.
Bí thư Huyện ủy Doãn Kim có cuộc gặp bất thường với các chủ chốt khu vực Nghĩa Lộ: Bí thư Chi bộ Đặng Văn Tám, Chủ nhiệm Phố bộ Việt Minh Lò Văn Bay. Toàn Hồng, Nguyễn Trọng Thơ, Tạ Quang Nghi, và Nguyễn Duy Sinh, cán bộ hậu địch.
- Từ sau vụ đội trưởng an ninh huyện đột kích vào nhà chánh tổng Sơn A, bắn chết tên đội Tây, bọn lính đồn ít hung hăng, các lý hào thì dè chừng. Trên Trạm Tấu, người Mông các bản đã nghe theo thống lý Giao và Bùi Đức Lạc - Toàn Hồng nói.
Nguyễn Trọng Thơ:
- Ở Bản Hẻo, cha Sáng đã có ý ngả sang Việt Minh nhưng không dám lộ diện vì bọn Tây và lính đồn đi nhà thờ thường xuyên. Tôi sẽ tiếp tục thuyết phục ông Sáng ủng hộ kháng chiến.
Tạ Quang Nghi:
- Phía Gia Hội, Tú Lệ, rồi trên Cao Phạ, đại đội chủ lực của Kim Sơn đã vào được dân. Nhóm du kích của Lý Nủ Chu, Giàng Khua Kỷ, sau lần khai báo của Vàng A Củ, bị Pháp vây đánh, tổn thất lớn, bây giờ, Đại đội Kim Sơn đang giúp củng cố lại. Chu và Kỷ đánh chặn đèo Khau Phạ rất giỏi.
Bí thư Doãn Kim:
- Vùng ngoài, chính quyền và du kích đã tự lập. Dân đi tản cư rồi, lương thực thực phẩm ít dần, địch chỉ có thể đánh phục kích là chính buộc phải lo đối phó nhỏ lẻ. Vùng trong, bộ đội chủ lực đã vào sâu Mường Lò, Tú Lệ. Bộ đội huyện của anh Thiết Hùng phát triển hướng Ngòi Thia, Trạm Tấu. Chi bộ và phố bộ Việt Minh Nghĩa Lộ cần trụ vững, chờ thời cơ đến. Anh Nguyễn Trọng Thơ nắm chắc cha Sáng để các nhà nguyện thị trấn và Đồng Lú không chống đối kháng chiến...
Doãn Kim nói mạnh mẽ, mạch lạc và đầy ý chí. Những người dự họp từng gặp ngày Doãn Kim là Bí thư lâm thời huyện Văn Chấn. Khi Pháp đánh, Doãn Kim là phái viên của Tỉnh ủy. Bây giờ trở lại làm Bí thư Huyện ủy lần thứ hai nhưng sắc thái, bản lĩnh của Doãn Kim không hề thay đổi.
Ngay sau buổi họp, Hà Thiết Hùng được cử lên Trạm Tấu cùng Bùi Đức Lạc nghiên cứu thực địa, chọn địa hình lừa địch đánh trận lớn gây thanh thế phía tây nam Mường Lò. Tạ Quang Nghi, Nguyễn Thiệu và Hà Văn Huỳnh lên Gia Hội gặp Đại đội trưởng chủ lực Kim Sơn và tiếp cận với Lý Nủ Chu, Giàng Khua Kỷ xây dựng kế hoạch đánh đồn Tú Lệ chặn đường quốc lộ Lai Châu - Nghĩa Lộ.
Sau trận càn vào khu “Nguyễn Huệ” vùng ngoài bị đại bại. Một loạt sĩ quan Pháp bị Đờ-cua đưa lên Nà Sản trong đó có thiếu tá Va-ri-ê, phân khu trưởng Văn Chấn và đại úy Vay-ăng-tanh, trưởng khu Ba Khe. Sa Nô lập ra chi khu quân sự Mường Lò quản lý toàn bộ lực lượng thuộc Pháp ở Văn Chấn, Mù Cang Chải, Trạm Tấu. Thu gọn hai đồn Nghĩa Lộ (đồn Phố, đồn Cao) thành căn cứ Pú Chạng trực thuộc. Trung tá Com-măng-đô, Ma-lanh được Đờ-cua đưa về làm chi khu trưởng. Đia-ra-đanh, thiếu tá làm chi khu phó kiêm chỉ huy phân khu Nghĩa Lộ.
Xuất thân từ lính biệt kích, leo đến sĩ quan Com-măng-đô, Ma-lanh sang Đông Dương, rồi lên Sa Nô có chân chỉ huy trong đặc khu quân sự. Ma-lanh hung hăng trong bài học “dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam”.
Ngồi một mình trong căn phòng xây kiểu Pháp cổ, nhẹ nhàng ngả người trên bộ xa-lông đệm mút đưa từ Hà Nội lên. Ma-lanh sắp gặp nhóm thuộc hạ mà y cho là “tâm đầu ý hợp”.
- Chào ngài trung tá Ma-lanh, Com-măng-đô - Hà Minh Rỗ dẫn đầu tốp người bước vào căn phòng có chùm đèn hồng, ngả mũ nhà binh cúi đầu tỏ vẻ thân thiện.
Ma-lanh nhỏm đứng dậy.
- Chào ngài trung tá.
- Chào ngài!
- Chào ngài!
Ba bốn lời chào dồn dập. Ma-lanh nói mấy câu bâng quơ:
- Chào các ngài đội trưởng người Việt. Chào! Chào! Ngồi. Mời ngồi!
Sau lưng Hà Minh Rỗ là đội Thái, chánh quản Cơ, phó quản Cầm, cai Đen, bang tá Cầm Ngọc Ninh, bang tá Lò Văn Inh, và một người rất lạ. Quản Cầm nghĩ nghĩ cố nhớ. Đội Thái giới thiệu:
- Thưa ngài trung tá, đây là thành viên mới nhất trong nhóm chúng tôi. Trần Đức Thắng, du kích vùng ngoài, mới quy hàng nhà nước bảo hộ.
- Ố ồ! - Ma-lanh bước lại - Tốt, tốt lắm. Chúc mừng ngài Thắng! Ta sẽ cộng tác với nhau. Ô-kê!
Cuộc gặp chỉ là xã giao, nhưng cai đội Hà Minh Rỗ được trung tá phân khu trưởng đặc cách bổ chức trưởng ban tư vấn Việt Mường. Say-xe-xen - trợ lý Ma-lanh trao tận tay Hà Minh Rỗ một tờ giấy nửa chữ Pháp nửa chữ Việt. Hà Minh Rỗ cười tươi nắm chặt tay Say-xe-xen - Đại úy Com-măng-đô.
Được phân khu trưởng Ma-lanh tỏ ra tin dùng, cai Rỗ có vẻ huênh hoang quyền thế, coi chánh quản Cơ, phó quản Cầm là “đầu óc bã đậu”, xem bang tá Inh, bang tá Ninh là “dân đất”! Nhưng lại tâng bốc đội Thái, cai Đen: “Kẻ tinh khôn”. Riêng Trần Đức Thắng, Lê Phú thì Hà Minh Rỗ nhận xét: “Biết thời”! Hà Minh Rỗ như đang sắp xếp quân cờ trên bàn cờ Mường Lò mà chính Ma-lanh cũng chả bận tâm yêu cầu.
Ngồi quây tròn quanh chiếc bàn gỗ dưới gốc long não cổ thụ bên hè phố nhìn những giọt cà phê chậm chậm rơi trong chiếc phễu nhôm. Hà Minh Rỗ cười hì hì:
- Chiến hữu Thắng, chiến hữu Phú chưa biết thôi, bộ lọc này đưa từ Hà Nội lên đấy. Ta uống cà phê kiểu người Việt đã, hôm nào trời đẹp tôi sẽ mời các chiến hữu uống cà phê kiểu Tây.
Cai Đen cũng tươi vui không kém:
- Hôm ấy, trưởng ban tư vấn phải mời được trợ lý Say-xe-xen nữa thì mới gọi là gắn kết Việt - Pháp.
- Chả khó, chả khó! - Hà Minh Rỗ lại cười, rồi bỗng mặt mũi nhăn lại - Ta phải học Com-măng-đô, các chiến hữu ạ. Đầu óc phải tinh khôn chứ không thể như bọn “bã đậu”, “dân đất” được!
Đen, Thắng và Phú hiểu ngay Hà Minh Rỗ ám chỉ đối tượng nào trong đám quân binh. Lê Phú nhấp hớp cà phê rồi nhẹ nhàng:
- Anh đội. Anh nên giao việc cho Ninh hoặc Inh, những bang tá Mường Lò.
Trần Đức Thắng hùa theo:
- Đúng đấy trưởng ban ạ, ta lập tổ chức thanh niên Mường, giao cho Cầm Ngọc Ninh, vì Ninh là con tỉnh trưởng Sơn La, có học người Tây ngoài Yên Bái, lại sống ở Mường Lò.
Lê Phú:
- Thế là hợp lắm, anh Hà Minh Rỗ phân cho Cầm Ngọc Ninh tập hợp ở cụm Mường Lò - Trạm Tấu, còn Lò Văn Inh, hướng Mường Lò, Tú Lệ.
Tách cà phê cạn dần, cạn dần. Việc bàn lấy lệ mà cũng có những gợi ý hay.
Chỉ một tháng sau “tổ chức thanh niên Mường” do bang tá Cầm Ngọc Ninh đứng đầu lên tới cả trăm nam nữ, đều đến từ làng bản, được chi khu trưởng Ma-lanh đích thân cổ vũ. Ai nấy rủ nhau, đua nhau tự ghi tên vào các tiểu hội, ví như tiểu hội “Trợ thủ phân khu” được tập tành, được phát quân trang súng đạn, Tiểu hội “Tai mắt tre làng” có tiền thưởng, nếu bắt, nếu phá được Việt Minh. Lại có cả các tiểu hội được đặt tên là “Câu lạc bộ nguồn vui” chỉ gồm các gái làng gái bản tuổi trên dưới hai mươi, được phát thẻ, tự do vào ra cổng phân khu Pú Chạng những ngày Lễ Chúa, ngày nghỉ ngơi của lính đồn. Hà Minh Rỗ thích thú với cách làm của bang tá Ninh, nên vỗ vỗ vào vai đội Đen:
- Cánh “chân đất” này, cho làm con “tốt” cũng được đấy! - Đội Đen cười nhăn nhúm rồi gợi ý.
- Trưởng ban giao cho bang tá Ninh làm một đêm xòe dưới bản, anh em ta xuống vừa được chơi, lại vừa gây thanh thế lính Việt, chứ... bọn lê dương... coi thường quân bản địa lắm.
- Ờ, hay đấy! - Hà Minh Rỗ tán thành - Nhưng cũng phải có cả quan Tây nữa chứ!
- Không, không nên vội. Cứ để bang tá Ninh, bang tá Inh tự lo cái “xứ Thái tự trị” Mường Lò xem sao - Đội Đen khôn ngoan giải thích.
- Ừ, Ờ! Thế thì chỉ có “Xứ Thái” và cai đội, mấy quan Việt ta. Ờ. Hay, hay!
Đúng là cặp bang tá Cầm Văn Ninh, Lò Văn Inh có quyền thế và có “tiếng nói”. Hội viên các “tiểu hội” kéo đến chật ngôi nhà sàn năm gian của chánh tổng Lò Văn Tinh. Họ Lường làm mo họ Lò làm tạo, người Thái có câu ấy từ sau thời ông Tổ Lò Lạng Chượng. Tinh theo Tây làm lính Cơ, giữ chân canh gác bản làng nhì nhằng kiếm mấy đồng công nuôi con lúc giáp vụ. Cách mạng nổ ra, Tinh bỏ ngũ vệ binh bản xứ về làm ruộng. Nhờ quen biết nhiều lính đồn, nói được vài câu tiếng Tây, lại hoạt ngôn, khỏe mạnh, ông Cầm Ngọc Lương gợi ý ra tranh chức chánh tổng để rồi tương kế tựu kế. Nào ngờ, trong lúc Việt Minh chưa đủ mạnh, quân Pháp trên đồn Nghĩa Lộ Phố ngày nào cũng cho người ốp sát làng bản, Lò Văn Tinh có ý ngả về phía nhà đồn của đội Thái, đội Thái cũng không giấu giếm:
- Ông cứ làm nếp nhà sàn năm gian, lợp ván thông tử tế. Dưới nền láng xi măng, sạch, đẹp, để lấy chỗ cho lính đồn qua lại gắn bó với dân bản.
Đội Thái khích lệ, rồi cho lính xuống giúp thật. Hôm làm lễ lên nhà mới, cả đại đội vệ binh bản xứ trên phố xuống uống rượu, khắp nôm, múa xòe đến sáng.
Bây giờ thì cơ ngơi của chánh tổng Mường Lò trở thành nơi tụ tập của “Tổ chức thanh niên Mường” do bang tá Ninh đứng đầu.
- Rượu này là của ông chánh tổng khao. Các thanh niên Mường cứ việc uống, uống cho say, cho say! -Bang tá Cầm Ngọc Ninh từ Tú Lệ về cầm bát rượu bước xuống cầu thang đi giữa sân gạch xi, nói cười, cười nói, đám thanh niên ngửa cổ uống ừng ực, vỗ tay hò reo.
Không đợi chủ nhà. Bang tá Ninh đứng dậy:
- Thỏa sức, thỏa sức! Nào nhóm hội “Nguồn vui” bắt đầu đi.
Tiếng khèn bè của nghệ nhân Là Văn Hân trên sàn nhà nổi lên, rồi vài, ba, năm sáu gái trẻ đứng dậy. Những thân hình kinh cổm nỗm tẳng (mình thon vú dựng), những thân hình eo kíu meng po (thắt đáy con tò vò) nhịp nhàng đồng điệu với chiếc khăn piêu vắt qua vai trùm xuống tấm thân áo cỏm khuy bạc, chùm xuống bộ xài ẻo xanh quấn chặt cổ chiếc váy đen trên hông các cô gái Thái. Điệu xòe mơi lẩu (mời rượu) đung đưa, đung đưa sóng lúa. Hà Minh Rỗ, đội Đen, Trần Đức Thắng, Lê Phú, phó quản Cầm đều có mặt.
- Nào, nắm tay, nắm tay! - Bang tá Inh hô chuyển động tác.
Năm gian nhà dập dình, réo rắt. Vòng trong, vòng ngoài những cổ tay trắng tròn mềm mại, những bàn tay đường gân xương xương, nắm chặt, cứ dâng lên lùi lại. Trần Đức Thắng, Lê Phú lần đầu được chứng kiến, được nhập cuộc, cười tít mắt.
Đội Đen:
- Chiến hữu Thắng thấy thế nào?
- Thích, thích lắm! - Thắng đáp gọn lỏn.
- Chiến hữu Lê Phú thấy thế nào? - Đội Đen lại hỏi.
- Anh đội, em cũng thấy thích lắm. Ước gì...
- Ước gì sao?
- Ước gì... - Phú rụt rè - Em được vào tổ chức.
Câu hỏi của đội Đen, câu trả lời của Thắng, của Phú lọt vào tai Hà Minh Rỗ.
- Ố ồ! Vào tổ chức của bang tá Ninh thì khó gì. Nhưng thôi, hai chiến binh phải là người của nhà đồn, trong nhóm Mèo hoang của nhà đồn! - Hà Minh Rỗ vỗ vai Phú cười to.
- Nhóm Mèo hoang là...
Quản Cầm đứng bên nhanh nhẹn:
- Là lính cơ, làm nhiệm vụ do thám.
Quản Cầm cười:
- Lương cao nhưng cũng dễ chết!
Trần Đức Thắng, Lê Phú giật nảy mình, cổ rụt lại.
Người lên mặt nhất hôm ấy lại là bang tá Ninh. Mặt đỏ tía vì rượu nếp, Ninh lớn tiếng:
- Các hội viên tiểu hội. Ai chỉ cho nhóm Mèo hoang biết, mấy ông cầm đầu Việt Minh của Văn Chấn, của Nghĩa Lộ đang trốn ở đâu, sẽ thưởng to. Nếu bắt được hoặc giết lấy đầu, trình lên đồn sẽ thưởng to nữa, to nữa.
Hà Minh Rỗ cao giọng đế theo. Mặt Rỗ bỗng nhiên nhăn nhở:
- Tổ chức thanh niên thưởng, đồn thưởng, quan phân khu thưởng. Bạc trắng, bạc trắng Tây, và có thêm một vài... gái bản!
Những tràng tiếng “a” bùng lên, kéo dài, điên loạn, không ngớt.
Nguyễn Duy Sinh cũng không ngờ “Tổ chức thanh niên Mường” của Lò Văn Inh, Cầm Ngọc Ninh ở Mường Lò thật tai hại. Cùng sống trong một vùng đất, thậm chí cùng các mối quan hệ làng bản, gia đình, dòng tộc. Ấy vậy mà những ai theo Việt Minh kể cả trước và sau cách mạng, đều là đối tượng, là mục tiêu chỉ điểm, phá hoại, sát hại của “thanh niên Mường” Cầm Ngọc Ninh. Ba tháng “sinh hoạt”, có tới hàng trăm người dân phải ký vào tờ cam kết “không gặp gỡ, quan hệ với Việt Minh”, “gọi người nhà đi kháng chiến, trở về”... do chính tay bang tá Ninh soạn ra, được cai đội Hà Minh Rỗ gật gù khen. Ba tháng, người Khơ Mú ở Nghĩa Sơn, người Mường ở Sơn An, ở Văn Chấn kình nhau với người Kinh ở Bản Hảo nơi có nhà thờ lớn. Cũng trong ba tháng gần đây, có đến hai cán bộ giao thông của huyện, năm hội viên Xã bộ Việt Minh ở Mường Lò đi vận động việc Hội, bị sát hại bất ngờ; lý trưởng, chánh tổng cũng không dám đứng ra điều tra, làm rõ. Nghiêm trọng hơn nữa, nhóm địch vận của Đại đội 86 bộ đội địa phương huyện do Trung đội trưởng Hoàng Minh Lưu phụ trách vào Thanh Lương, Phù Nham bị chính các thanh niên “tai mắt tre làng” chỉ điểm khiến cả nhóm hy sinh. Ở khu vực Tú Lệ, Cao Phạ, đích thân bang tá Lò Văn Inh ra lệnh cho “thanh niên Mường” theo dõi, bắn chết hai du kích Khau Phạ là Lý Tồng Sử và Giàng A Ký. Vùng ngoài Đại Lịch “Thanh niên Mường” báo tin, lính đồn Dọc phục kích ở đèo Nước Mát, xả súng bắn chết cả nhóm cán bộ huyện đi họp Mặt trận Liên Việt trong đó có Bí thư Huyện đoàn thanh niên cứu quốc Hoàng Văn Dần, Tiên chỉ Liên Việt Hoàng Văn Toán, và thanh tra Đào Văn Luật.
Nguyễn Duy Sinh nhíu mày nghĩ về những tổn thất do “tổ chức thanh niên Mường” gây ra mà chưa có cách nào phá được chúng.
- Anh Nguyễn Duy Sinh, anh có thư riêng - Liên lạc Nguyễn Đăng Văn mở túi. Một giấy bằng bàn tay, gập bốn, dán chặt.
- Văn mở đi - Duy Sinh nói.
- Vâng.
“Thống lý Giàng A Giao cho biết trưa ngày mai bang tá Cầm Ngọc Ninh dẫn quân lên Trạm Tấu. Nhà thống lý đã chuẩn bị cơm rượu. Giàng Nủ Lử”.
- Giàng Nủ Lử là Bùi Đức Lạc! - Nguyễn Duy Sinh đứng dậy.
- Văn đi mời Thiết Hùng và Quốc Trần đến đây ngay.
- Vâng. Em đi!
Chập tối Trung đội 78 của Đại đội 86 do Hà Thiết Hùng đích thân chỉ huy. Trung đội bộ đội chủ lực do Đại đội phó Quốc Trần phụ trách. Thiết Hùng cũng cho liên lạc hỏa tốc lên Hát Lừu gặp Đội trưởng du kích Lường Văn Lăm yêu cầu phối hợp đánh địch. Thời gian, địa điểm, hiệu lệnh, bắt sống, tiêu diệt, thu hồi vũ khí, lui binh... Thiết Hùng và Quốc Trần tính toán từng tình huống phát sinh. Mục tiêu số một là đánh tan đội quân càn quét. Mục tiêu thứ hai, tiêu diệt bọn chỉ huy trong đó có bang tá Ninh.
Từ chòi quan sát, giữa hai đèo núi cách nhau khoảng hai trăm mét, Quốc Trần và Thiết Hùng đều nhìn rõ đám lính đi càn đang ngược đường lên Trạm Tấu mà chưa thể đoán định thời gian trở về của chúng. Trinh sát Đại đội 86 đóng giả làm người nhà thống lý đi chợ Mường Lò trở về, Bùi Đức Lạc nói nhỏ: “Khoảng hai giờ chiều ăn cơm xong, chúng về Nghĩa Lộ ngay. Bang tá Ninh và đội Đen đi ngựa chỉ huy”. Nhận tin trinh sát, Thiết Hùng nhắn đến Quốc Trần: “Phương án một, phải tiêu diệt được bang tá Ninh”.
Bốn giờ chiều, đội Đen và Cầm Ngọc Ninh cho một tốp địa phương quân đi trước. Thiết Hùng phán đoán chỉ là bọn nghi binh nên để chúng đi.
Kia rồi, hai con ngựa đi giữa đoàn lính trên đoạn đường độc đạo bên vách đá, bên thũng lũng. Đám lính đến gần, hai con ngựa hiện rõ người ngồi, lưng thắt đai áo, mũ bạt lưỡi trai, bao súng ngắn thắt bên hông. “Nó đấy!”. Thiết Hùng tự nhủ rồi khẽ vỗ vai Phạm Văn Sinh.
- Để hai con ngựa đi sâu vào giữa ổ kíp mìn mới giật.
Sinh nín thờ chờ đợi.
“Oành, Oành!”.
“Oành”.
Ba quả mìn nổ liên hoàn. Hai đầu đường, du kích lăn đá hộc. Các nòng súng đều hướng vào giữa đội hình bọn lính nổ dậy trời. Bọn giặc kêu la có đứa liều mình nhảy xuống thung lũng đá chông, hầu hết giơ tay xin hàng. Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương xô xuống đường tước vũ khí, bắt bọn lính cởi quần áo dài rồi ngồi cả xuống vệ đường.
- Chỉ huy chúng mày đâu? - Phạm Văn Sinh quát.
Tên lính nhìn quanh rồi chỉ vào một thân hình:
- Ông bang tá Ninh chết rồi. Còn kia, ông đội Đen.
Thiết Hùng nhìn vào kẻ bị thương nặng đang nhăn nhó:
- Mày là đội Đen phải không?
- Vâng! Em... Đội Đen... Việt Minh cứu em!
Phạm Văn Sinh và Hoàng Văn Hồi theo chân tên lính chỉ dẫn bò xuống hỏm đá dưới gầm đường, lật xác tên chỉ huy thu hồi khẩu súng ngắn và tài liệu. Trên ngực áo bết máu của hắn còn đính thẻ căn cước in ảnh lính đồn. Hắn đúng là bang tá Cầm Ngọc Ninh tỉnh trưởng, Tổ chức thanh niên Mường, Mường Lò.
Đại đội phó Quốc Trần ra lệnh rút quân theo đường rừng, tránh đối đầu quân đồn Nghĩa Lộ tăng cường, chỉ để lại nhóm trinh sát Phạm Văn Sinh của Đại đội 86. Sinh và hai chiến sĩ bí mật bò lên một mỏm núi đá đối diện trận địa Ký Khua Ly để tiếp tục theo dõi tình hình địch. Tốp lính dọn đường nghe tiếng súng nổ biết là đội quân đã bị phục kích. Khi tiếng nổ lắng xuống, tốp lính cơ quay trở lại, nhìn đồng bọn bị thương ngồi la liệt dưới lòng đường, chỉ còn mặc chiếc quần lót, đám lính bắn loạn xạ lên các gò đồi quanh trận địa. Không may cho nhóm chiến sĩ trinh sát, một viên đạn trúng xương vai Hoàng Văn Hồi, viên đạn khác độc ác hơn găm thẳng ngực trái nhóm trưởng Phạm Văn Sinh. Sinh quê ở Đại Lịch, ngã xuống chân đồi thông Trạm Tấu.
Thảm hại trong trận càn lên Trạm Tấu, trung tá Ma-lanh hầm hầm xỉ vả cai đội Hà Minh Rỗ:
- Ngài là cái gì đây nữa? Ngài đã vượt mặt tổng chỉ huy phân khu. Ngài...
- Thưa ngài trung tá - Hà Minh Rỗ nép mình run rẩy - Tôi không có ý... mà là do tỉnh trưởng, thanh niên, bang tá Ninh tự tay tổ chức.
- Thế ngài Com-măng-đô để làm gì? Hai mặt phải không, phải không ngài đội?
Bị dồn vào góc tường với những lời lẽ nửa mỉa mai, nửa ngờ vực. Hà Minh Rỗ ngồi lặng. Nghề mật vụ cho y kinh nghiệm, lúc chủ Tây nổi cáu, nên biết “ngậm bồ hòn” chịu nhục.
Không nhiều lời, cá tính là thế, Ma-lanh đột ngột nói:
- Ngài đại úy. Thôi, ngài về đi!
Hà Minh Rỗ nặng nề cúi đầu như lời chào xã giao, bước ra khỏi phòng.
“Thằng chủ Ma-lanh này, mày nghi ngờ tao phải không? Nghi ngờ tao rồi phải không? Được!”.
Hà Minh Rỗ cùng một lúc gặp mấy cái đau. Chiến hữu thân cận nhất là bang tá Ninh bị quân Việt Minh cho tan xác ở Ký Khau Ly, đội Đen gãy nát chân tay rồi cũng chết. Bọn đội Thái, quản Cơ ở cùng nhau từ thời căng, đồn, nhưng dễ thối chí nản lòng. Lê Phú, Trần Đức Thắng mới quen chưa rõ thái độ lập trường... Hà Minh Rỗ tu một hơi hết cốc rượu ngâm rễ cây thuốc phiện rồi sai người gọi đám bạn hữu.
- Nhân danh Trưởng ban tư vấn Việt Mường, tôi lấy làm xót xa về việc ông đội Đen, ông bang tá Ninh tử trận. Bây giờ đến lúc ông bang tá Inh thay ông Ninh phụ trách tổ chức Thanh niên Mường, ông đội Thái thế chỗ đội Đen. Còn ông Thắng, ông Phú... - Hà Minh Rỗ liếc mắt thăm dò, nói tiếp - Nếu diệt được bọn “đỏ”, tôi sẽ đích thân đệ trình ngài trung tá quan hai xem xét! - Trùm mật vụ Hà Minh Rỗ như nghe thấy lồng ngực các thuộc hạ phập phồng pha lẫn tiếng thình thịch.
Những cốc rượu Tây chạm vào nhau lách cách, những lời nói, tiếng cười chỉ vừa đủ tai nghe.
Bước lại gần mặt Lê Phú và Trần Đức Thắng, Hà Minh Rỗ cười cười:
- Này, hai ông ở vùng ngoài nhiều, chắc biết rõ thói quen của Nguyễn Duy Sinh và Đào Tiến Lộc chứ?
Lê Phú nhanh mồm:
- Biết ạ. Biết mặt, rõ người, vì ngày ở chiến khu cùng nhau ăn đói mặc rét.
- Bây giờ họ là thế nào nhỉ? - Hà Minh Rỗ giả vờ như không hiểu gì.
Lê Phú câng bầu mặt lưỡi cày:
- Chỉ huy Việt Minh. Họ là chỉ huy Việt Minh.
Hà Minh Rỗ cười toe toét:
- Đúng, đúng! Anh em ta với họ không thể đội chung một trời - Nói rồi mật vụ Hà Minh Rỗ vung cánh tay chéo mặt - Chặt!
Thắng, Phú cười, gật gật. Hai kẻ lừa thầy phản bạn hiểu ngay cái bàn tay vạt chéo rất mạnh của Hà Minh Rỗ.
Bang tá Lò Văn Inh rời Pú Chạng lúc gần bốn giờ chiều. Giờ này du kích hay đóng giả người dân. Inh khôn ngoan gửi lại con ngựa đen, chỉ đem theo hai mật thám giỏi võ, giỏi súng, nhảy lên xe ngựa của lão nông, xuôi đường Sơn A về Tú Lệ. Lời bàn bạc bằng tiếng Thái của bang tá Inh vô tình lọt vào tai Lò Thị Sương. Sương nghe mà hai tay đang quay xa dệt vải, cứ lúng túng làm cho những mũi tơ gặp lỗi rối chặt trên khuôn cửi. Đóng khung dệt, Sương vơ vội mấy cuộn chỉ đút vào túi thổ cẩm đi thẳng xuống nhà ông bác họ Lò Văn Bay. Chuyển xong tin quan trọng, Lò Thị Sương lại ôm theo cuộn tơ, trở về phòng riêng dành cho chánh quản Cơ trên đồi Pú Chạng.
Sáng hôm sau, tin bang tá Inh bị du kích bắt cóc ở Sơn Lương đến tai quản Cơ, rồi đến tai Ma-lanh. Đứng trước mặt quản Cơ và trợ lý Mác-xăng, Trung tá Ma-lanh bình thản buông một câu lạnh nhạt:
- Tổ chức thanh niên Mường của ngài Hà Minh Rỗ đã chấm hết!
Trong thâm tâm, mật vụ Hà Minh Rỗ nghi ngờ phó quản Cầm và thoang thoáng hoài nghi Lò Thị Sương là tay trong. Đúng không nhỉ? Chưa thể khẳng định! Nhưng phủ nhận ý nghĩ của mình thì Hà Minh Rỗ nhất quyết không.
- Ông Phú này! - Hà Minh Rỗ vừa quấy cốc cà phê vừa nói - Phú và Thắng làm rõ cho tôi việc phó quản Cầm và vợ chồng chánh quản Cơ và Sương, có liên quan gì đến vụ Ký Khau Ly và vụ bang tá Inh?
Lê Phú vẫn nhanh cái miệng:
- Ông trưởng ban, tôi xin hiến kế.
- Ông nói đi - Hà Minh Rỗ giục.
Lê Phú cúi đầu nói nhỏ.
- Ngày ở Chiến khu Nguyễn Huệ, có lần Bùi Đức Lạc nói về Lò Thị Sương... Bây giờ Bùi Đức Lạc lại là em kết nghĩa của thống lý Giao. Bắt được Bùi Đức Lạc là khó, mà truy hỏi Lò Thị Sương thì chưa có cớ gì, chánh quản sẽ làm to chuyện. Ta nên mời thống lý Giàng A Giao về Nghĩa Lộ, rồi bí mật bắt giữ, tra hỏi, có thể ông ta sẽ nói lộ ra.
- Hay! - Hà Minh Rỗ vỗ nhẹ xuống bàn cà phê - Nhưng nếu người Mông kéo xuống làm loạn Mường Lò thì sao?
Trần Đức Thắng toét miệng:
- Đã có Việt Minh, vu cho Việt Minh bắt cóc đánh đập, thủ tiêu...
Lê Phú thầm thì:
- Nhóm lính bắt giữ phải đóng giả Việt Minh, Việt Minh tra khảo! Rồi tung tin lên Trạm Tấu, tung cả tin Bùi Đức Lạc vẫn lấy tin tức từ Lò Thị Sương, có thể từ cả quản Cơ, quản Cầm nữa...
Ba tên mật vụ có nghề làm phản vỗ đùi cười hô hố làm rung cả bàn cà phê Tây dưới chân đồn Pú Chạng.
Mưu kế của bọn Phú - Thắng được Hà Minh Rỗ thêm mắm thêm muối rồi ép chánh tổng Lò Văn Tinh cử người đi mời. Thống lý Giàng A Giao vui lắm. Từ trước cách mạng bây giờ mới có ông chánh tổng người Thái mới làm cái việc gặp nhau đoàn kết dân tộc. Giàng A Giao cho thắng yên ngựa, chỉ đem theo hai thằng con cháu người nhà phục vụ. Giàng Nủ Lử ở Bản Mù về, thống lý đi rồi, trong lòng sinh nghi. Từ ngày làm lễ, có việc gì mà người anh kết nghĩa không hỏi trước đâu? Lần này thì khác.
- Ông thống lý Giàng A Giao phải không?
- Vâng, tôi A Giao thống lý Trạm Tấu đây. Tôi đi Mường Lò gặp ông chánh tổng Tinh.
- Chúng tôi là Việt Minh, mời ông xuống ngựa.
Giàng A Giao chột dạ, Việt Minh của Giàng Nủ Lử mà sao lại bắt thống lý dọc đường?
Một người mặc quần áo Thái, nói:
- Ông đã bàn bạc gì với bang tá Ninh, Xã bộ Việt Minh Hạnh Sơn ra lệnh bắt giữ. Mời ông về Phố Nghĩa Lộ.
Mười giờ đêm. Một người lạ bước vào phòng đưa cho ông một nắm cơm có muối vừng. Người lạ nói:
- Ông thống lý Giao. Người Pháp ở Pú Chạng muốn được ông hợp tác, trừ bọn Việt Minh. Đêm nay thống lý nghĩ kỹ đi, ngày mai các quan đồn sẽ gặp riêng ông.
- Ra thế. Quân mũi lõ!
Bùi Đức Lạc phán đoán đúng, bọn Pháp tra khảo, dọa dẫm, mua chuộc. Rồi lại tra khảo, mua chuộc, dọa dẫm. Thống lý Giàng A Giao vẫn nhất mực trả lời, không có quan hệ gì với Việt Minh, chỉ làm cái việc mà người Mông ở Trạm Tấu giao cho, việc thống lý!
Sợ người Mông các nơi kéo về gây rối loạn, quan hai Ma-lanh ra lệnh đưa thống lý Giàng A Giao xuống gần nhà thờ Đồng Lú thủ tiêu, rồi cho tung tin, ông đi Mường Lò bị Việt Minh bắt cóc và bức tử bằng lá ngón. Phải khéo léo lắm Lò Thị Sương mới dò hỏi nắm rõ thông tin sự việc, mấy ngày sau cô mới có thể đến kể tường tận cho bác họ Lò Văn Bay. Nhận tin xót xa, Nguyễn Duy Sinh và Đào Tiến Lộc gửi thư và quà chia buồn đến gia đình thống lý, Bùi Đức Lạc - Giàng Nủ Lử cũng nói lời thăm ấy với người Mông Trạm Tấu. Ông trưởng tộc họ Giàng, già làng Giàng Páo Dềnh cầm tay Bùi Đức Lạc nói.
- Giàng Nủ Lử à, A Giao bị thằng Tây bức hại, Nủ Lử thay nó làm thống lý đi.
- Không nên đâu ông ạ, người Mông cử người thay anh A Giao, còn tôi là cán bộ Việt Minh, làm em kết nghĩa với anh A Giao, với tất cả người Mông Trạm Tấu này, được thế là quý lắm rồi.
Những người Mông có mặt hôm đó, chọn cử hai thanh nam đẹp nhất, khéo nhất, ông trưởng tộc họ Giàng tự tay trao cho họ hai cây khèn và nói:
- Trai tráng múa đi, múa bài “Người mình là anh em” ấy.
Chủ trương phá tề, diệt tề, diệt những tên phản bội, tay sai giặc Pháp được Huyện bộ Việt Minh phát động ở khu vực Mường Lò làm bùng lên sự ồn ào. Người đi chợ Mường Lò, người đi dự hội, cả người đi ăn giỗ, đâu đâu cũng nhắc đến bang tá Ninh, đội Đen bị Việt Minh xử, nhắc đến việc bắt giữ bang tá Inh. Nhắc cả đến chuyện các ông cai đồn cố ý đánh lừa Thống lý người Mông Trạm Tấu, bắt cóc, thủ tiêu ông rồi vu cáo cho Việt Minh giết hại. Một phương án xử vắng mặt bọn tay sai bán nước ở đồn Nghĩa Lộ từng gây tội lỗi với dân được Nguyễn Duy Sinh và Nguyễn Trọng Thơ vạch ra.
- Ông chánh quản Cơ. Phân khu đã nhận được đơn xin chuyển về Hà Nội của ông. Ngài trung tá phân khu trưởng đã đồng ý. Ngài cứ làm việc thêm một thời gian chờ người thay thế - Trợ lý Mác-xăng xì xồ nói với quản Cơ ngay trước phòng làm việc.
Số là Hà Minh Rỗ, Trần Đức Thắng, Lê Phú tự khẳng định với nhau khó có chứng cớ buộc tội Lò Thị Sương và quản Cơ nên tìm cách gợi ý cho chánh quản về Hà Nội. Quản Cơ đi, Sương tất sẽ đi theo, Trần Đức Thắng dễ bề ngồi vào ghế phó quản, rồi tìm cách lên chánh quản, giao lại ghế phó cho Lê Phú.
- Này, ngài Ma-lanh và ngài Mác-xăng chỉ dùng “phơ-răng” chứ không dùng “Bảo Đại” hay “Ông Hồ” đâu đấy - Hà Minh Rỗ cười cười nói.
Phú và Thắng.
- Anh Minh cứ lo cho chúng em, phơ-răng, đô-la không có chúng em lấy tiền Ông Hồ quy ra.
Hà Minh Rỗ cười to.
- Các chú thông minh. Người Pháp sống lâu trên đất Việt mình, thạo việc này lắm. Chỉ cần tôi nói mấy câu với ngài Mác-xăng là được.
- Vâng, vâng. Mang ơn anh Rỗ!
Chỉ mấy ngày. Chánh quản Cơ có quyết định của Tham mưu trưởng Liên quân Bắc Bộ điều về Hà Nội. Quản Cơ đồng ý với Sương cho mẹ đẻ Bùi Đức Lạc cùng đi với giấy tờ Người giúp việc nội trợ. Chỉ có hai người mà quản Cơ nắm tay thật lâu là phó quản Cầm và Giăng-pai-giăng.
Chánh quản Cơ đi, Trần Đức Thắng được Ma-lanh bổ chức phó quản, thành thuộc hạ trực tiếp của Hà Minh Rỗ.
Hà Minh Rỗ là kẻ đa nghi nên hay cảnh giác, nghề mật thám dạy y nhiều bài học, nên dụ được Rỗ đến điểm hẹn là rất khó. Nguyễn Trọng Thơ ngẩng đầu nhìn Nguyễn Duy Sinh:
- Cha đạo Sáng đã ngả theo Việt Minh, ta đặt “mồi” ở nhà thờ Bản Hẻo.
Nguyễn Duy Sinh hiểu ngay ý định táo bạo của Trọng Thơ, mỉm cười, gật gật:
- Ngày Nô-en. Hay lắm. Nô-en!
Ngày ở thị trấn Yên Bái, Giăng-pai-giăng và quản Cơ kết thân bởi vườn hoa Nhà Kèn, nơi dấu ấn kỷ niệm đầu đời lính với hai cô nữ sinh trường sơ học, Thanh và Hòa. Tổng khởi nghĩa, đời lính khố đỏ của Giăng, lính khố xanh của Cơ như đã được thoát ra khỏi cái bóng của Nhà Kèn, sân căng Ả Phích. Cả hai phiêu dạt. Thật trớ trêu, chỉ bốn năm sau, sợi dây vô hình kéo cả hai về Nghĩa Lộ Phố trong đội quân tái chiếm bổ sung của người Pháp. Giăng từ Công Panh sang, Cơ ở Tây Bắc về, cũng chỉ là đi để kiếm tiền nuôi gia đình vợ con ở làng quê.
Cơ là lính tái ngũ, được trao lại chức phó quản làm ở đồn Phố, rồi lên đến chánh quản phân khu. Còn Giăng-pai-giăng, đánh thuê theo thời hạn, anh ta từ chối mọi sao gạch chức tước, chỉ ao ước được gặp lại Thanh, Cơ có để tâm nhưng Thanh vẫn bặt vô âm tín. Có lần Hà Minh Rỗ bất ngờ hỏi Cơ:
- Này, phó quản, ông bạn vẫn liên hệ với cô nữ sinh trường sơ học chứ?
Cơ cho là câu hỏi thật như thể gợi lại kỷ niệm xưa, nên trả lời:
- Từ ngày về Nghĩa Lộ, để ý, nhưng không gặp!
Hà Minh Rỗ cười thâm thúy:
- Cô bạn gái hộp thư của phó chánh quản lên chiến khu rồi, muốn gặp thì nhờ đội Thái!
Quản Cơ chột dạ. Chuyện xưa, Hà Minh Rỗ, đội Thái đã biết rõ rồi sao? Cơ tìm cách giữ chuyện va chạm với Hà Minh Rỗ. Từ ngày đội Thái chuyển lên Sơn La, Hà Minh Rỗ luôn nhắc thuộc hạ Trần Đức Thắng và Lê Phú:
- Thằng Cơ, thằng Cầm là ong tay áo. Phải hành động trước.
Giăng-pai-giăng giật mình, ngồi bật dậy nhún hai vai. Nhớ quản Cơ, nhớ kỷ niệm về Thanh, về Hòa. Nhưng trước mặt gã bây giờ là Hà Minh Rỗ, một thằng Dét-ta-po lừa người phản bạn. Giăng-pai-giăng vươn tay hít một hơi thở dài, bước ra sân.
Linh mục Sáng, cha sứ Yên Bái được Tòa sứ Sơn Tây điều vào tại vị nhà thờ Bản Hẻo. Ông là con người điềm đạm, nặng lòng với giáo dân. Những ngày làm lễ ở nhà nguyện Nghĩa Lộ, cha Sáng được một cán bộ Việt Minh Phố tạo điều kiện hành lễ, ông Việt Minh đó cũng thường đến nghe giảng đạo lại còn động viên khiến Cha Sáng vị nể và mời ông xuống nhà thờ trò chuyện. Linh mục Sáng rất ham hiểu biết về vùng đất Tây Bắc, nhất là đất và người Mường Lò. Cán bộ Việt Minh Nguyễn Trọng Thơ đáp ứng yêu cầu đó của cha và giáo dân khiến linh mục cảm động, ủng hộ việc làm tâm phúc của Việt Minh.
Bây giờ thì cha Sáng đang chuẩn bị phần việc để tối mai, trước Nô-en một ngày, quan đồn xuống hành lễ rửa tội, Nguyễn Trọng Thơ bước vào sân nhà thờ. Không phải là giáo dân nhưng tôn trọng linh mục, Trọng Thơ vẫn cứ đưa tay làm dấu trước tượng Chúa. Lòng nhà thờ Bản Hẻo cao hun hút, uy trang, tĩnh mịch. Nguyễn Trọng Thơ thuận miệng hỏi cha Sáng, người mà Thơ coi là bạn lớn tuổi.
- Quan Tây rửa tội. Cha nói thế nào?
Linh mục Sáng hiểu ngay ý đùa dai của Trọng Thơ, liền đáp:
- Ấy là tôi làm theo kinh thánh, chứ Tây sang cướp nước ta, làm hại người Việt ta, tội ấy là lớn nhất. Tôi rửa làm sao được?
- Rửa được cha ạ. Đồng lòng theo Cụ Hồ, ủng hộ Việt Minh, giúp đỡ kháng chiến, đánh đuổi bọn Tây, trị tội bọn phản quốc. Thế là cha góp phần rửa nhục cho nước rồi đấy - Nguyễn Trọng Thơ cười cười nói.
Hai con người, một trung niên là cha đạo, một trẻ là Việt Minh huyện bộ, lững thững bước trong khuôn viên. Nguyễn Trọng Thơ bất ngờ hẳn:
- Ngày mai, khi nào quan Tây về hành lễ, Cha?
- Từ bốn giờ đến sáu giờ sáng. Lính Com-măng-đô hộ tống. Ông Hà Minh Rỗ đặc vụ cũng đến nhưng đi xe riêng.
Nguyễn Trọng Thơ về phố gặp Lò Văn Bay, Chủ nhiệm phố bộ Việt Minh. Bay hẹn gặp quản Cầm, rồi lại gọi Cầm Ngọc Tuy đến giao việc. Cầm Ngọc Tuy là người nhà của Cầm Ngọc Lương, tham gia Tổ chức thanh niên Mường của Cầm Ngọc Ninh được mấy ngày. Tuy nhận thấy việc làm của Ninh có hại cho Việt Minh nên đến Lò Văn Bay tố giác. Từ đấy, Cầm Ngọc Tuy kéo theo em là Cầm Ngọc Păn bỏ tổ chức thanh niên Mường, bí mật giúp việc Lò Văn Bay.
- Anh Cầm, cháu Cầm Ngọc Tuy sẽ liên lạc giữa tôi với anh, còn việc bàn bạc với Giăng-pai-giăng thế nào là ở anh.
- Vâng, ông Chủ nhiệm tin tưởng tôi và Giăng - Quản Cầm khẽ gật đầu rồi cùng Cầm Ngọc Tuy rời khỏi chợ Phắc Kết.
Kế hoạch chuẩn bị cho nhóm chỉ huy Phân khu xuống Nhà thờ Bản Hẻo hành lễ được Trưởng ban tư vấn Việt - Mường kiêm chánh quản Hà Minh Rỗ rà soát, rồi giao cho phó quản Trần Đức Thắng đặc trách. Thắng là người công giáo, am hiểu kỹ lưỡng việc hành đạo những dịp Chúa lễ nên xăng xái nhận việc.
- Anh chánh quản cứ vui Nô-en với gái xòe đi. Đây có lẽ là thành tích đáp lễ lên chức của thằng em đội Thắng với quan đồn và anh Hà Minh Rỗ chánh quản.
Chánh quản Hà Minh Rỗ vỗ vỗ hai vai Trần Đức Thắng cười to, ngẫu hứng cất lời:
- Ngài Mác-xăng, ngài Mác-xăng!
Chánh quản Hà Minh Rỗ thưa rằng:
- Việc cỏn con, có hai ta, là thắng!
Hai tên cai đội cười sặc sụa.
Giờ trưa ngày hôm sau, dân phố đi chợ kháo nhau, sáng sớm nay, có hai ông quan đồn đi hành lễ nhà thờ về bị bắt cóc ở Suối Nung. Bộ đội Việt Minh bịt mắt, trói tay rồi đưa hai ông vào rừng. Người lái xe cùng một lính đội, may mắn chạy thoát về Pú Chạng. Chiều tối, Nguyễn Duy Sinh và Nguyễn Trọng Thơ nhận thư của chỉ huy phân khu: “Các ngài Việt Minh. Việc các ngài bắt cóc ông chánh quản Hà Minh Rỗ và ông phó quản Trần Đức Thắng của chúng tôi là vi phạm Công ước quốc tế. Chúng tôi đòi Việt Minh các ông phải trả lại tự do cho hai cai đội này. Ký tên: Mác-xăng. Trợ lý trung tá Ma-lanh”.
Nguyễn Duy Sinh vứt tờ thư xuống bàn, quay sang Nguyễn Trọng Thơ:
- Anh báo cáo Bí thư Doãn Kim, chúng ta không trả lời! - Ngừng giây lát, Nguyễn Duy Sinh vui vẻ nói tiếp - Đây là công của Trọng Thơ, sau đó đến công của quản Cầm. Hà hà!